Luận văn Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên

Phần thứ nhất: CÔNG TÁC PHỤC VỤ SẢN XUẤT 1

1.1. ĐIỀU TRA CƠ BẢN 1

1.1.1. Điều tra tự nhiên 1

1.1.1.1. Vị trí địa lý 1

1.1.1.2. Điều kiện đất đai 1

1.1.1.3. Điều kiện khí hậu thuỷ văn 2

1.1.2. Điều kiện kinh tế văn hoá xã hội 3

1.1.2.1. Điều kiện kinh tế 3

1.1.2.2. Điều kiện văn hoá xã hội 4

1.1.3. Tình hình sản xuất 5

1.1.3.1. Ngành trồng trọt 5

1.1.3.2. Ngành chăn nuôi 6

1.1.3.3. Công tác thú y 8

 

1.1.4. Quá trình thành lập và phát triển của trại giống gia cầm Thịnh Đán 9

1.1.4.1. Quá trình thành lập 9

1.1.4.2. Cơ cấu tổ chức 10

1.1.4.3. Chức năng nhiệm vụ của Trại 11

1.1.4.4. Tình hình sản xuất của Trại 11

1.2. NHẬN ĐỊNH CHUNG TRẠI GÀ GIỐNG THỊNH ĐÁN 13

1.2.1. Thuận lợi 13

1.2.2. Khó khăn 14

1.3. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN TỐT NGHIỆP 14

1.3.1. Nội dung thực tập tốt nghiệp 14

1.3.1.1. Công tác phục vụ sản xuất 15

1.3.1.2. Công tác nghiên cứu khoa học 15

1.3.2. Biện pháp thực hiện 16

1.4. KẾT QUẢ CÔNG TÁC PHỤC VỤ SẢN XUẤT 16

1.4.1. Công tác chăn nuôi 16

1.4.1.1. Công tác chọn giống 16

1.4.1.2. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng 18

1.4.1.3. Chế độ chiếu sáng. 22

1.4.2. Công tác thú y 23

1.4.2.1. Công tác phòng bệnh cho đàn gà 23

1.4.2.2. Chuẩn đoán và điều trị bệnh 24

1.4.3. Tham gia các công việc khác 27

1.4.4. Kết quả công tác phục vụ sản xuất 27

1.5. KẾT LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHỤC VỤ SẢN XUẤT 29

1.5.1. Kết luận 29

1.5.2. Tồn tại 29

Phần thứ hai: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 30

2.1. ĐẶT VẤN ĐỀ 30

2.2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 31

2.2.1. Cơ sở lý luận 31

2.2.1.1. Nguồn gốc của gà 31

2.2.1.2. Một số đặc điểm sinh học của gia cầm 32

2.2.1.3. Cơ sở khoa học về khả năng tiêu tốn thức ăn 34

2.2.1.3. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản của gia cầm 34

2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 49

2.2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 49

2.2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 52

2.3. ĐỐI TƯỢNG,NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 54

2.3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 54

2.3.2. Đặc điểm và thời gian tiến hành 54

2.3.3. Nội dung và phương pháp nghiờn cứu 55

2.3.3.1. Nội dung 55

2.3.3.2. Phương pháp nghiờn cứu 55

2.3.3.3. Các chỉ tiêu theo dừi 56

2.3.3.4. Phương pháp theo dừi 57

2.3.3.5. Phương pháp xử lý số liệu 59

2.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 60

2.4.1. Tỷ lệ nuôi sống 60

2.4.2. Khối lượng gà qua các tuần tuổi 61

2.4.3. Chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn 63

2.4.4. Đặc điểm sinh sản 65

2.4.1.1.Tuổi đẻ của gà 65

2.4.1.2.Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ 66

2.4.5.Chỉ tiêu chất lượng trứng 68

2.4.5.1.Các chỉ tiêu chất lượng trứng 69

2.4.5.2.Khối lượng trứng 70

2.4.5. Tỷ lệ ấp nở 71

2.4.6.TTTĂ cho 10 quả trứng và 10 quả trứng giống 74

2.4.7.Chi phí và TTTĂ cho 10 quả trứng và 10 quả trứng giống 75

2.5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI, ĐỀ NGHỊ 60

2.5.1.Kết luận 69

2.5.2.Tồn tại 69

2.5.3.Đề nghị 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO 64

I. Tài liệu trong nước 64

II. Tài liệu Nước ngoài 66

 

 

doc88 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6077 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà SASSO nuôi tại Trại giống gia cầm Thịnh Đán thuộc Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừng (Stratumcorneum). Mỏ phải ngắn và chắc chắn. Gà có mỏ dài và mảnh thì khả năng sản xuất không cao. Màu sắc của mỏ có nhiều loại: vàng, đỏ, đen, hồng. Màu của mỏ thường phù hợp với màu của chân. Những giống gà da vàng thì mỏ cũng vàng, ở gà mái màu sắc này có thể bị nhạt đi vào cuối thời kỳ đẻ trứng. Chân gia cầm có 4 ngón, rất ít 5 ngón, Trần Kiên và Trần Hồng Việt (1998) [8]. Chân thường có vảy sừng bao kín, cơ tiêu giảm chỉ cũn gõn và da. Chân thường có vuốt và cựa, cựa có vai trò cạnh tranh và đấu tranh sinh tồn của loài, Trần Thị Nguyệt Thu (1999) [17]. Gà có chân cao thường cho thịt thấp và phát dục chậm. Mào và tích là đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp nên có thể phân biệt trống mái. Mào rất đa dạng về hình dạng, kích thước, màu sắc, có thể đặc trưng cho từng giống gà. Mào là dẫn xuất của da. Theo Phan Cự Nhân (1971) [15], khi có mặt gen Ab gà sẽ có mào hoa hồng, gen aB sẽ có dạng mào nụ và gen ab sẽ có dạng mào cờ. Ở gà trống sự phát triển của mào, tích phản ánh sự thành thục tính dục sớm hay muộn, còn ở gà mái nếu mào, tích phát triển không rõ là dấu hiệu xấu đến khả năng sinh sản. - Hình dáng kích thước chiều đo cơ thể Tuỳ mục đích sử dụng, các giống gia cầm được chia thành 3 loại hình: hướng trứng, hướng thịt và kiêm dụng.Gà hướng thịt thường có hình dạng cân đối, ngực sõu, chõn chắc, tiết diện hình vuông hay hình chữ nhật. Gà chuyên trứng lại có kết cấu thanh gọn, tiết diện hình tam giác. Theo tài liệu của Chambers (1990) [25] thì kích thước các chiều đo có tương quan với sức sản xuất của gà Broiler. Tác giả cũng cho biết độ lớn góc ngực, dài chân, dài đùi và đường kính ống chân có tương quan với khối lượng cơ thể. Siegel (1978) [28] cho biết tương quan giữa độ lớn góc ngực và khối lượng cơ thể từ 0,4 – 0,68 trung bình là 0,42. 2.2.1.3. Cơ sở khoa học về khả năng tiêu tốn thức ăn. Đối với gia cầm sinh sản, thường tính tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng hay 1 kg trứng. Hiện nay, nhiều cơ sở chăn nuôi trên thế giới đã áp dụng phương pháp tính mức tiêu tốn thức ăn bằn lượng chi phí thức ăn cho gia cầm từ lúc 1 ngày tuổi cho đến kết thúc 1 năm đẻ. Theo Phùng Đức Tiến, Nguyễn Thị Mười và cộng sự (1999) [18], gà Ai Cập tiêu tốn 2,33kg thức ăn/10 trứng trong 43 tuần đẻ. Nguyễn Huy Đạt, Trần Long và cộng sự (1996) [2] cho biết, tiêu tốn thức ăn/10 trứng trong 12 tháng của gà Goldline – 54 thương phẩm đạt 1,65 – 1,84. Đoàn Xuõn Trỳc, Nguyễn Huy Đạt và cộng sự (1999) [20] cho biết, tiêu tốn thứ ăn/10 trứng của gà BE43; ISA – MPK và AA lần lượt là: 3,3; 3,45; và 3,66. 2.2.1.4. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản của gia cầm. Một số đặc điểm sinh học của gia cầm đẻ trứng * Cơ quan sinh dục cái của gia cầm Gồm một buồng trứng và ống dẫn trứng. Buồng trứng có chức năng tạo lòng đỏ, còn ống dẫn trứng có chức năng tiết ra lòng trắng đặc, lòng trắng loãng, màng vỏ, vỏ mỏng và lớp keo mỡ bao ngoài vỏ trứng. Thời gian trứng lưu lại trong ống dẫn trứng từ 23 – 24 giờ. + Buồng trứng. Buồng trứng nằm bên trái xoang bụng được giữ bằng màng bụng, kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào tuổi va loại gia cầm. Ở gà 1 ngày tuổi có kích thước 1-2mm, khối lượng 0,03g, đến 4 tháng tuổi buồng trứng có dạng hình thoi khối lượng 2,66g. Gà thời kỳ đẻ, buồng trứng hỡnh chựm nho, chứa nhiều tế bào trứng, có khối lượng 45-55g, khi gà đẻ thay lông và gà dũ cú khối lượng buồng trứng 5g. Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998) [5] xác định trong thời kỳ đầu ấp trứng cả hai buồng trứng phải và trái đều hình thành và phát triển. Từ ngày ấp thứ 5 đến 7, buồng trứng trái phát triển hơn buồng trứng bên phải. Ở gia cầm trưởng thành chỉ có buồng trứng và ống dẫn trứng trái phát triển và hoạt động chức năng. Còn buồng trứng và ống dẫn trứng phải không phát triển. Buồng trứng gà có khoảng 586 đến 3605 tế bào trứng ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Theo Bùi Đức Lũng và cộng sự (2003) [10]. Sự phát triển của mỗi tế bào trứng gồm 3 thời kỳ: Tăng sinh, sinh trưởng và chín. - Thời kỳ tăng sinh: Trước khi bắt đầu đẻ trứng, trong buồng trứng gà mái đếm được 3500-4000 tế bào trứng. Trong tế bào trứng (phần noãn hoàng) có nhân to với những hạt nhỏ và nhiễm sắc thể. Trong noãn hoàng có chứa nhân tế bào. - Thời kỳ sinh trưởng: Tế bào trứng tăng trưởng nhanh, đặc biệt là lòng đỏ. Trong khoảng thời gian 3-14 ngày, lòng đỏ chiếm 90-95% khối lượng của tế bào trứng, thành phần gồm protit, photpholipit, mỡ trung hòa, các chất khoáng và vitamin. Đặc biệt lòng đỏ được tích lũy mạnh vào ngày thứ 9 và 4 ngày trước khi trứng rụng. Việc tăng quá trình sinh trưởng của tế bào trứng do ảnh hưởng của foliculin được chế tiết ở buồng trứng khi thành thục sinh dục. Vào cuối thời kỳ phát triển của tế bào trứng, giữa lòng đỏ chứa đầy limpho. Trong đó noãn hoàng bơi tự do và các cực của nó nằm theo lực hướng tâm - cực anivan (cùng đĩa phôi) hướng lên trên, còn cực thực vật hướng xuống dưới. Đường kính lòng đỏ khoảng 35-40 mm. - Thời kỳ chín của noãn hoàng (thời kỳ cuối hình thành trứng): Trong thời gian phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi một tầng tế bào không có liên kết với biểu bì phát sinh, tầng tế bào này phát triển trở thành nhiều tầng và sự tạo thành tiến tới bề mặt buồng trứng, cấu tạo này gọi là follicun. Bên trong follicun có một khoảng hở chứa đầy dịch, bên ngoài follicun giống như một cái túi. Trong thời kỳ đẻ trứng, nhiều follicun chín dần làm thay đổi hình dạng buồng trứng trở về hình dạng ban đầu, các follicun trứng vỡ ra, quả trứng chín chuyển ra ngoài cùng với dịch của follicun và rơi vào phễu ống dẫn trứng. Sự rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự thành thục sinh dục, đó là quá trình đi ra của tế bào trứng chín. Từ buồng trứng, bình thường sự rụng trứng chỉ xảy ra một lần trong ngày, có những trường hợp đặc biệt có thể có hai hoặc ba tế bào trứng cùng rụng một lúc, trường hợp quả trứng của ngày hôm trước đẻ sau 4 giờ chiều thì phải sang ngày hôm sau mới xảy ra quá trình rụng trứng. Chu kỳ rụng trứng phụ thuộc vào các yếu tố như: Điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, lứa tuổi, trạng thái sinh lý của gia cầm. Song điều chung nhất là sự rụng trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của thần kinh và thể dịch. + Ống dẫn trứng: là một phần hình ống, ở đó xảy ra việc thụ tinh tế bào trứng và kết thúc ở lỗ huyệt. Kích thước của ống dẫn trứng thay đổi theo tuổi và hoạt hóa chức năng hệ sinh dục. Khi thành thục sinh dục, ống dẫn trứng trơn, thẳng, có đường kính đồng nhất trên chiều dài ống dẫn. Sau khi đẻ quả trứng đầu tiên ống dẫn trứng có chiều dài 68cm, khối lượng 77g. Khi đẻ với cường độ cao chiệu dài tăng tới 86 - 90cm, đường kính tới 10cm. Ở gà không đẻ ống dẫn trứng có kích thước tương ứng là 11 - 18cm và 0,4 - 0,7cm. Khi gia cầm thành thục, ống dẫn trứng gồm các phần sau: Phễu (hình loa kèn), phần tiết lòng trắng, phần eo, tử cung, âm đạo. - Phễu: phần mở rộng của phía đầu ống dẫn trứng dài 4 - 7cm, đường kính 8-9cm, nằm dưới buồng trứng. Bề mặt niêm mạc phễu gấp nếp, không có tuyến. Lớp niêm mạc cổ phễu có tuyến hình ống, chất tiết của nó tham gia vào tạo trứng và hình thành dây chằng lòng đỏ. Tại đây trứng được thụ tinh nếu gặp tinh trùng, trứng dừng lại ở đây khoảng 20 phút. - Phần tiết lòng trắng: Là bộ phận dài nhất của ống dẫn trứng. Ở thời kỳ gia cầm đẻ trứng với tỷ lệ cao, chúng có thể dài tới 20 – 30 cm, niêm mạc phần này có nhiều tuyến hình ống giống như cổ phễu tiết ra lòng trắng đặc hình thành dây chằng lòng đỏ và tiết ra lòng trắng loãng, trứng dừng ở đây khoảng 3 giờ. - Phần eo: Là phần hẹp hơn của ống dẫn trứng, dài khoảng 8cm, các tuyến ở đây tiết ra một phần lòng trắng và tiết ra một chất hạt hình thành nên tấm màng dưới vỏ gồm 2 lớp, 2 lớp này tách nhau ra tại đầu lớn của vỏ trứng hình thành nên buồng khớ. Cỏc dung dịch muối và nước có thể thấm qua màng này đi vào lòng trắng. Trứng dừng ở đây 60 – 70 phút. - Tử cung: Là phần tiếp theo của quá trình tạo vỏ, là phần mở to ra tạo thành tử cung dài 8 – 12cm, tuyến vách tử cung tiết ra một chất dịch lỏng, chất dịch thẩm thấu qua màng vỏ đi vào trong lòng trắng làm tăng khối lượng lòng trắng, mặt khác một số tuyến ở tử cung tiết ra một chất dịch hình thành nên vỏ cứng, quá trình hình thành vỏ trứng diễn ra chậm chạp. Trứng dừng lại ở đõy khỏ lõu 18 – 20 giờ. - Âm đạo: Là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng, là cửa ngõ để trứng ra ngoài cơ thể. Thành âm đạo có nhiều lớp cơ lớn, niêm mạc nhăn nhưng không có các tuyến hình ống. Tại chớnh mộp biểu mô của âm đạo tiết ra một chất dịch tham gia hình thành lớp màng keo ở trên vỏ. Trứng đi qua phần âm đạo rất nhanh. * Những trường hợp trứng dị hình: - Trứng không có lòng đỏ: Do trong cơ thể có những tế bào chết rơi vào loa kèn và ống dẫn trứng không phân biệt được vì vậy vẫn có quá trình tạo trứng và hình thành trứng nhỏ. - Trứng 2 lòng đỏ: Do 2 trứng cùng rụng một thời điểm hoặc cách nhau không quá 20 phút vì vậy hình thành nên quả trứng rất to. - Trứng trong trứng: Thường ít gặp, do bị kích động đột ngột một quả trứng hoàn chỉnh bị ống dẫn trứng co lại gây ra nhu động ngược lên phía trên gặp tế bào trứng rụng mới, sẽ nằm cùng với lòng đỏ của trứng mới bên ngoài được bao bọc bằng lòng trắng và vỏ cứng. Ngoài ra còn có trứng méo mó, không vỏ do thiếu khoáng, vitamin D hoặc do co bóp của ống dẫn trứng... * Cơ quan sinh dục đực: Gồm: Tinh hoàn, dịch hoàn phụ, ống dẫn tinh và cơ quan giao phối. Tinh hoàn có hình ô van hoặc hạt đậu màu trắng hoặc hơi vàng nằm ở vị trí phía trên thuỳ trước của thận, cạnh tỳi khớ bụng, khối lượng tinh hoàn phụ thuộc vào tuổi và trạng thái sinh lý. Cơ quan giao cấu có cấu trúc khác biệt, nó không phát triển. Ở gà Tây hầu như không có cơ quan giao phối, ngỗng, gà, vịt có gai giao cấu nằm sâu ở dưới lỗ huyệt. Quá trình hình thành tinh trùng diễn ra tương tự như ở gia súc, tế bào sơ cấp bằng con đường phân chia hình thành tinh bào thứ nhất phát triển, mỗi tinh bào thứ nhất lại chia thành hai tinh bào thứ hai, tiếp tục phát triển sau đó hình thành tiền tinh trùng và cuối cùng hình thành tinh trùng. Số lượng một lần phóng tinh gà 0,6 – 2ml. Trong mỗi 1ml chứa 3,2 tỷ tinh trùng. Các phản xạ và cơ chế giao phối ở gia cầm giống động vật có vú, nhưng thời gian để tinh trùng từ cơ quan sinh dục đực đến loa kèn rất lâu từ 72– 75 giờ (3 ngày) nhưng tinh trùng gà sống được rất lâu trong đường sinh dục con cái. * Khả năng sinh sản của gia cầm Để duy trì sự phát triển của đàn gia cầm thì khả năng sinh sản là yếu tố cơ bản quyết định đến quy mô, năng suất và hiệu quả sản xuất đối với gia cầm. Sản phẩm chủ yếu là thịt và trứng, trong đó sản phẩm trứng được coi là hướng sản xuất chính của gà hướng trứng. Còn gà hướng thịt (cũng như gà hướng trứng) khả năng sinh sản hay khả năng đẻ trứng quyết định đến sự phân đàn di truyền giống mở rộng quy mô đàn gia cầm. Sinh sản là chỉ tiêu cần được quan tâm trong công tác giống của gia cầm. Ở các loại gia cầm khác nhau thì đặc điểm sinh sản cũng khác nhau rõ rệt. Trứng là sản phẩm quan trọng của gia cầm, đánh giá khả năng sản xuất của gia cầm người ta không thể không chú ý đến sức đẻ trứng của gia cầm. Theo Brandsch H. và Bilchel H (1978) [24] thì sức đẻ trứng chịu ảnh hưởng của 5 yếu tố chính. 1. Tuổi đẻ đầu hay tuổi thành thục 2. Chu kỳ đẻ trứng hay cường độ đẻ trứng 3. Tần số thể hiện bản năng đòi ấp 4. Thời gian nghỉ đẻ, đặc biệt là nghỉ đẻ mùa đông 5. Thời gian đẻ kéo dài hay chu kỳ đẻ (hay tính ổn định sức đẻ). Các yếu tố trờn cú sự điều khiển bởi kiểu gen di truyền của từng giống gia cầm. * Tuổi đẻ đầu Đó là tuổi bắt đầu hoạt động sinh dục và có khả năng tham gia quá trình sinh sản. Đối với gia cầm mái, tuổi thành thục sinh dục là tuổi bắt đầu đẻ quả trứng đầu tiên. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trứng. Đối với một đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là thời điểm tại đó đàn gà đạt tỷ lệ đẻ 5 %. Theo Hays (dẫn theo Brandsch và Bilchel, 1978 [24]) thì những gà có tuổi đẻ quả trứng đầu lớn hơn 245 ngày cho sản lượng trứng thấp hơn những gà có tuổi đẻ quả trứng đầu nhỏ hơn 215 ngày là 6,9 quả. Tuổi đẻ trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng các yếu tố môi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng. Thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm. Tuổi đẻ đầu sớm hay muộn liên quan đến khối lượng cơ thể ở một thời điểm nhất định. Những gia cầm thuộc giống bộ cú khối lượng cơ thể nhỏ tuổi thường thành thục sinh dục sớm hơn những gia cầm có khối lượng cơ thể lớn. Trong cùng một giống, cơ thể nào được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, điều kiện thời tiết khí hậu và độ dài ngày chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi thành thục sinh dục sớm hơn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh tuổi thành thục sinh dục sớm là trội so với tuổi thành thục sinh dục muộn. * Cơ sở di truyền của năng suất trứng Năng suất trứng hay sản lượng trứng của một gia cầm mái là tổng số trứng đẻ ra trên một đơn vị thời gian. Đối với gia cầm thì đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào loài, giống, hướng sản xuất, mùa vụ và đặc điểm của cá thể. Năng suất trứng là một tính trạng số lượng nờn nú phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Năng suất trứng được đánh giá qua cường độ đẻ và thời gian kéo dài sự đẻ. + Tỷ lệ đẻ Đây là chỉ tiêu đánh giá sức đẻ trứng của đàn gia cầm. Đỉnh cao của tỷ lệ đẻ có mối tương quan với năng suất trứng. Giống gia cầm nào có tỷ lệ đẻ cao và kéo dài trong thời kỳ sinh sản, chứng tỏ là giống tốt, nếu chế độ dinh dưỡng đảm bảo thì năng suất sinh sản sẽ cao. Gà chăn thả có tỷ lệ đẻ thấp trong vài tuần đầu của chu kỳ đẻ, sau đó tăng dần và tỷ lệ đẻ đạt cao ở những tuần tiếp theo rồi giảm dần và tỷ lệ đẻ thấp ở cuối kỳ sinh sản. Năng suất trứng/ năm của một quần thể gà mái cao sản được thể hiện theo quy luật, cường độ đẻ trứng cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm dần cho đến hết năm đẻ. Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn. Trong thời gian này có thể loại trừ ảnh hưởng của môi trường. Thời gian kéo dài sự đẻ có liên quan đến chu kỳ đẻ trứng. Chu kỳ đẻ kéo dài hay ngắn phụ thuộc vào cường độ và thời gian chiếu sáng. Đây là cơ sở để áp dụng chiếu sáng nhân tạo trong chăn nuôi gà đẻ. Giữa các trật đẻ, gà thường có những khoảng thời gian đòi ấp. Sự xuất hiện bản năng đòi ấp phụ thuộc nhiều vào yếu tố di truyền vì ở các giống khác nhau có bản năng ấp khác nhau. Điều này chịu ảnh hướng nhiều bởi yếu tố như: Nhiệt độ, ánh sáng dinh dưỡng...Theo Brandsch H. và Bilchel H. 1978 [24] thì nhiệt độ cao và bóng tối kích thích sự ham ấp, đồng thời yếu tố gen chịu tác động phối hợp giữa các gen thường và gen liên kết giới tính. Trên cơ sở tỷ lệ đẻ hằng ngày hoặc tuần cho phép đánh giá một phần nào về chất lượng giống và mức độ ảnh hưởng của chế độ ngoại cảnh đến sự sản xuất của đàn giống. Nguyễn Huy Đạt, 2000 [3] cho rằng gà thịt nặng cân đẻ ít hơn do tồn tại nhiều thể vàng nên lấn át buồng trứng thường xuyên hơn so với gà dòng trứng. Thời gian nghỉ đẻ ngắn hay dài có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng trứng cả năm. Gà thường hay nghỉ đẻ mùa đông do nguyên nhân giảm dần về cường độ và thời gian chiếu sáng tự nhiên. Ngoài ra sự nghỉ đẻ này còn do khí hậu, sự thay đổi thức ăn, chu chuyển đàn. Là một tính trạng số lượng có hệ số di truyền cao, do đó người ta có thể cải thiện di truyền bằng cách chọn lọc giống. Trong chọn lọc cần chú ý tới chỉ số trung bình chung. Khối lượng trứng phụ thuộc vào khối lượng cơ thể, giống, tuổi đẻ, tác động dinh dưỡng tới gà sinh sản. Đồng thời khối lượng trứng lại quyết định tới chất lượng trứng giống, tỷ lệ ấp nở, khối lượng và sức sống của gà con. Nó là chỉ tiêu không thể thiếu của việc chọn lọc con giống. Bandsch H. và Bilchel H, 1978 [24] cho rằng hiện nay chưa có cách nào tăng khối lượng của quả trứng mà không đồng thời tăng khối lượng cơ thể. Đó cũng là một trong những nguyên nhân phải hạn chế khối lượng trứng ở mức 55 – 60 gam để phù hợp với sinh lý của gà và kỹ thuật ấp nở. Ngoài ra tăng khối lượng trứng còn làm tăng chi phí thức ăn. Theo Lochus.G..P và Starstikov. N.L (1979) cho biết: trứng gia cầm khi bắt đầu đẻ nhỏ hơn trứng gia cầm lúc trưởng thành. Theo Awang (1984) khối lượng trứng phụ thuộc trực tiếp vào chiều dài, chiều rộng của quả trứng cũng như khối lượng lòng trắng, lòng đỏ và vỏ (dẫn theo Trần Huờ Viờn, 2001 [21]). Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [5] trong cùng một độ tuổi thì khối lượng trứng tăng lên chủ yếu do khối lượng lòng trắng lớn hơn nên giá trị năng lượng giảm dần. Khối lượng gà con khi nở thường bằng 62% - 78% khối lượng trứng ban đầu. Khối lượng trứng của các loại giống khác nhau thì khác nhau. * Một số đặc điểm sinh học của trứng gia cầm + Đặc điểm hình thái - Hình dạng quả trứng: Là một đặc trưng của từng cá thể, vì vậy nó được quy định di truyền rõ rệt. Theo Brandsch H. và Bilchel H, 1978 [24] thì tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng của quả trứng là một chỉ số ổn định 1 : 0,75. Hình dạng của quả trứng tương đối ổn định, sự biến động theo mùa cũng không có ảnh hưởng lớn. Nói chung, hình dạng quả trứng luôn có tính di truyền bền vững và có những biến dị không rõ rệt. - Vỏ trứng: Vỏ trứng là phần bảo vệ của trứng, nó cũng đồng thời tạo ra màu sắc bên ngoài quả trứng. Màu sắc vỏ trứng phụ thuộc vào giống, lá tai và từng loại gia cầm khác nhau. Phía ngoài được phủ một lớp keo dính do âm đạo tiết ra. Lớp keo dính này có tác dụng làm giảm độ ma sát giữa thành âm đạo và trứng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẻ trứng, khi đẻ ra nó có tác dụng hạn chế sự bốc hơi nước của trứng và ngăn cản sự xâm nhập của tạp khuẩn từ bên ngoài vào. - Độ dày của vỏ trứng có ảnh hưởng tới việc bảo quản trứng và sự phát triển của phôi. Thời gian, độ ẩm trong quá trình ấp cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố độ dày của vỏ trứng. Do đó, độ dày vỏ là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng quan trọng. Nó chịu ảnh hưởng của yếu tố môi trường và yếu tố di truyền. Ở mỗi loài gia cầm khác nhau vỏ trứng có độ dày khác nhau và ở mỗi thời điểm khác nhau, môi trường khác nhau vỏ trứng cũng có độ dày khác nhau. Trong thực tế ta có thể thấy hiện tượng vỏ trứng mỏng khi khẩu phần của thức ăn thiếu canxi. Chất lượng vỏ trứng thể hiện ở độ dày và độ bền của vỏ trứng. Nó có ý nghĩa trong vận chuyển và ấp trứng. Độ dày vỏ trứng gà đạt 0,311 mm và từ 0,229 – 0,373mm (dẫn theo Ngô Gia Luyện, 1994 [12]) xác định vỏ trứng gà dày từ 0,3 – 0,34mm, độ chịu lực là 2,44 – 3 kg/cm2. Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998) [5] thì chất lượng vỏ trứng không những chịu ảnh hưởng của các yếu tố như canxi (70% Canxi cần cho vỏ trứng là lấy trực tiếp từ thức ăn), ngoài ra vỏ trứng hình thành cần có photpho, vitamin D3, vitamin K, các nguyên tố vi lượng...khi nhiệt độ tăng từ 20 -300C thì độ dày vỏ trứng giảm 6- 10% khi đó gia cầm đẻ ra trứng không có vỏ hoặc bị biến dạng. - Lòng trắng: Là phần bao bọc bên ngoài lòng đỏ, nó là sản phẩm của ống dẫn trứng. Lòng trắng chủ yếu là Albumin giúp cho việc cung cấp khoáng và muối khoáng, tham gia cấu tạo lông, da trong quá trình phát triển cơ thể ở giai đoạn phôi chất lượng lòng trắng được xác định qua chỉ số lòng trắng và đơn vị Haugh. Hệ số di truyền của tính trạng này khá cao. Theo Trần Huờ Viờn, 2001 [21] thì Awang (1987) cho biết khối lượng trứng tương quan rõ rệt với khối lượng lòng trắng (r = 0,86) khối lượng lòng đỏ (r = 0,72) và khối lượng vỏ (r = 0,48). Theo Ngô Giản Luyện (1994) [12] thì Orlov. M. V (1974) cho rằng: Chỉ số lòng trắng ở mùa đông cao hơn ở mùa xuân và mùa hè. Trứng gà mái tơ và gà mái già có chỉ số lòng trắng thấp hơn gà mái đang độ tuổi sinh sản. Trứng bảo quản lâu, chỉ số lòng trắng cũng bị thấp đi. Chất lượng lòng trắng còn kém đi khi cho gà ăn thiếu protein và vitamin nhóm B. Để đánh giá chất lượng lòng trắng người ta quan tâm đến chỉ số lòng trắng. Nó được tính bằng tỷ lệ chiều cao lòng trắng đặc so với trung bình cộng đường kính nhỏ và đường kính lớn của lòng trắng trứng. Chỉ số lòng trắng chịu ảnh hưởng của giống, tuổi, chế độ nuôi dưỡng và thời gian bảo quản. - Lòng đỏ: Là tế bào trứng có dạng hình cầu đường kính 35 – 40 mm và được bao bọc bởi màng lòng đỏ có tính đàn hồi nhưng sự đàn hồi này giảm theo thời gian bảo quản, ở giữa có hốc lòng đỏ nối với đĩa phôi lấy chất dinh dưỡng từ nguyên sinh chất để cung cấp cho phôi phát triển. Lòng đỏ có độ đậm đặc cao nằm giữa lòng trắng đặc, được giữ ổn định nhờ dây chằng là những sợi protein quy tụ ở hai đầu lòng đỏ, phía trên lòng đỏ là mầm phôi. Lòng đỏ cung cấp dinh dưỡng chủ yếu cho phôi. Thông qua nguồn năng lượng dự trữ cho phôi mà người ta có thể đánh giá được chất lượng lòng đỏ. Chất lượng lòng đỏ được đánh giá dựa trên chỉ số lòng đỏ. Chỉ số lòng đỏ được tính bằng tỷ lệ giữa chiều cao lòng đỏ so với đường kính của nó. Lòng đỏ bao gồm: Nước, protein, các axit amin không thay thế, các loại vitamin...Tạ An Bình, (1979) [1] cho biết: khi chỉ số này xuống 0,33 tức lòng đỏ bị biến dạng. Theo Ngô Giản Luyện (1994) [12] thì: Chỉ số lòng đỏ ít biến đổi hơn lòng trắng. Chỉ số lòng đỏ nó bị giảm từ 0,25 – 0,29 nếu bị tăng nhiệt độ và bảo quản lâu (Nguyễn Quý Khiêm, 1999) [7]. Màu lòng đỏ phụ thuộc vào sắc tố màu và caroten có trong thức ăn. Màu lòng đỏ ổn định trong suất thời gian đẻ trứng, nó thay đổi khi khẩu phần ăn của gà mái thay đổi trước vài tuần. Tuy không biểu thị giá trị dinh dưỡng của trứng nhưng nó có giá trị thương phẩm lớn. * Chỉ số Haugh (HU) Là chỉ số đánh giá chất lượng trứng xác định thông qua khối lượng trứng và chiều cao lòng trắng đặc. Chỉ số HU càng cao thì chất lượng trứng càng cao, trứng đạt chất lượng tốt. Chỉ số này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động: Thời gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm, bệnh tật, nhiệt độ môi trường, sự thay lông, giống, dòng. * Tỷ lệ ấp nở Tỷ lệ ấp nở của gia cầm được xác định bằng tỷ lệ (%) số con nở ra so với số trứng cú phụi. Đây là tính trạng đầu tiên biểu hiện sức sống ở đời con, tỷ lệ nở của trứng không những chứng minh có đặc tính di truyền về sinh lực của giống mà còn là sự xác minh về sự liên quan đến tỷ lệ nở với cấu tạo của trứng. Nguyễn Quý Khiêm và cộng tác viên (1999) [7] cho rằng: Khối lượng trứng, sự cân đối giữa các thành phần cấu tạo và cấu trúc vỏ trứng ảnh hưởng tới tỷ lệ ấp nở. Những quả trứng quá lớn hoặc quá nhỏ đều có khả năng nở kém hơn những quả trứng có khối lượng trung bình. Khi khối lượng trứng từ 45 – 64g thì khả năng nở là 87%, khối lượng trứng nhỏ hơn 45g thì khả năng nở giảm xuống còn 80% còn những trứng có khối lượng vượt quá 64g thì khả năng nở là 71%. * Những yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng của gia cầm Sức sản xuất trứng là đặc điểm phức tạp và biến động, nó chịu ảnh hưởng bởi tổng hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài. - Giống, dòng: Ảnh hưởng đến sức sản xuất một cách trực tiếp. Cụ thể giống Leghorn trung bình có sản lượng 250 – 270 trứng/ năm. Về sản lượng trứng, những dòng chọn lọc kỹ thường đạt chỉ tiêu cao hơn những dòng chưa được chọn lọc kỹ khoảng 15% - 30% về sản lượng. - Tuổi gia cầm: Có liên quan chặt chẽ tới sự đẻ trứng của nó. Như một quy luật, ở gà sản lượng trứng giảm dần theo tuổi, trung bình năm thứ hai giảm 15- 20% so với năm thứ nhất (so với gà), còn vịt thì ngược lại, năm thứ hai cho sản lượng trứng cao hơn 9 - 15%. - Tuổi thành thục sinh dục: Liên quan đến sức đẻ trứng của gia cầm, nó là đặc điểm di truyền cá thể. Sản lượng trứng của 3 – 4 tháng đầu tiên tương quan thuận với sản lượng trứng cả năm. - Mùa vụ: Ảnh hưởng đến sức đẻ trứng rất rõ rệt. Ở nước ta, mùa hè sức đẻ trứng giảm xuống nhiều so với mùa xuân, đến mùa thu lại tăng lên. - Nhiệt độ môi trường xung quanh: Liên quan mật thiết đến sản lượng trứng. Ở điều kiện nước ta nhiệt độ chăn nuôi thích hợp với gia cầm đẻ trứng là 14 - 220C. Nếu nhiệt độ dưới giới hạn thấp thì gia cầm phải huy động năng lượng chống rét và trên giới hạn cao sẽ thải nhiệt nhiều qua hô hấp. -Ánh sáng ảnh hưởng đến sản lượng trứng của gia cầm. Nó được xác định qua thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng. Yêu cầu của gà đẻ thời gian chiếu sáng 12 - 16h / ngày, có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên và ánh sáng nhân tạo để đảm bảo giờ chiếu sáng và cường độ chiếu sáng 3 - 3,5 w/m2. Theo Letner và Taylor, 1987 [26], cho biết thời gian gà đẻ trứng thường từ 7 - 17 giờ, nhưng đa số đẻ vào buổi sáng. Cụ thể số gà đẻ 7 – 9 giờ đạt 17,7% so với tổng gà đẻ trong ngày. Ở nước ta do khí hậu khác với các nước, cho nên cường độ đẻ trứng ở gà cao nhất là khoảng từ 8 - 12 giờ chiếm 60% gần 70% so với gà đẻ trứng trong ngày. - Cường độ đẻ trứng: Liên quan mật thiết với sản lượng trứng, nếu cường độ đẻ trứng cao thì sản lượng trứng cao và ngược lại. - Chu kỳ đẻ trứng: Chu kỳ đẻ trứng được tính từ khi đẻ quả trứng đầu tiên đến khi ngừng đẻ và thay lông, đó là chu kỳ thứ nhất và lặp lại tiếp tục chu kỳ thứ hai. Chu kỳ đẻ trứng liên quan tới vụ nở gia cầm con mà bắt đầu và kết thúc ở cỏc thỏng khác nhau thường ở gà là một năm. Nú cú mối tương quan thuận với tính thành thục sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng. Sản lượng trứng phụ thuộc vào thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng. - Thay lông: Sau mỗi chu kỳ đẻ trứng gia cầm nghỉ đẻ và thay lông, ở điều kiện bình thường, thay lông lần đầu tiên là những

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 244.doc
Tài liệu liên quan