Luận văn Nghiên cứu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thành Phố Đà Nẵng

Đà Nẵng đứng ở vị trí dẫn đầu cả nước trong ba năm 2008, 2009 và 2010 về

chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp

Việt Nam phối hợp với dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam thực

hiện.Các hoạt động triển lãm bất động sản Đà Nẵng 2010, diễn đàn Đối thoại Kinh

tế Việt Nam – Kansai lần thứ 5 năm 2011, 20 hội thảo ở nước ngoài nhân các

chuyến công tác của lãnh đạo thành phố tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài

Loan, Hồng Kông, Macao, Châu Âu ; kết hợp giới thiệu về môi trường và cơ hội

đầu tư của Đà Nẵng tại các diễn đàn xúc tiến đầu tư do Bộ Kế hoạch - Đầu tư và

Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam tổ chức tại Singapore, Đức, Hoa Kỳ, Ấn

Độ, Hàn Quốc đã tạo điều kiện cho việc thu hút vốn ĐTNN và nâng vị thế của Đà

Nẵng lên tầm cao mới. Chính vì vậy, dòng vốn đầu tư từ các nước phát triển như

Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, EU. đã có dấu hiệu chuyển nhiều vào miền Trung, trong đó

Đà Nẵng là địa phương có mức tăng khá cao. Chỉ tính riêng năm 2011, thành phố đã

thu hút 30 dự án FDI mới với tổng vốn đầu tư là 385,31 triệu USD và 02 dự án tăng

vốn với tổng vốn đầu tư tăng thêm là 16,5 triệu USD.

pdf91 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 591 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thành Phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược đa dạng hơn theo hướng đa phương hóa các quan hệ kinh tế quốc tế; chính sự hợp tác đầu tư này đã góp phần tạo vị thế của thành phố Đà Nẵng trên trường quốc tế khi quan hệ kinh tế và đối ngoại với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ; đồng thời tập trung vào các đối tác có tiềm lực tài chính, kỹ thuật, công nghệ cao, có uy tín và kinh nghiệm trong việc đầu tư vào thành phố Đà Nẵng như Mỹ, tập đoàn VinaCapital, Nhật Bản và ASEAN. Đà Nẵng hiện có 30 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư FDI tại Đà Nẵng. Tính hết năm 2011, British Virgin Island là vùng lãnh thổ dẫn đầu với 37,38 % tổng vốn đầu tư, tiếp theo là Hàn Quốc chiếm 21.50 % tổng vốn đăng ký; Hoa Kỳ chiếm 11,862% tổng vốn đăng ký; Nhật Bản chiếm 7,682% tổng vốn đăng ký[15] Ngoài ra, các quốc gia và vùng lãnh thổ như Bỉ, Đảo Cayman, Barbados có ít dự án, những vốn đầu tư đăng ký dự án khá cao. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 41 So sánh về quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trên phạm vi cả nước ta thấy, nguồn vốn FDI vào Đà Nẵng chủ yếu là từ các quốc gia và vùng lãnh thổ có nền kinh tế phát triển, giữ vai trò đầu tầu của các khu vực và thế giới: Mỹ, Nhật, EU, Hàn Quốc...theo đó, chất lượng và quy mô của các dự án có nhiều ưu thế. Như vậy, xét về quốc gia đầu tư, cơ cấu nguồn vốn của Đà Nẵng mang tính tiến bộ rõ rệt. 2.3.3. Những đóng góp của nguồn vốn FDI vào phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng * FDI bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Phát triển doanh nghiệp FDI là yêu cầu khách quan, xuất phát từ khả năng tận dụng lợi thế sẵn có của thành phố (đất đai, lao động, môi trường kinh doanh...) và những ưu thế, cơ hội to lớn mà thời đại tạo ra (vốn, công nghệ, thị trường...) để phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Doanh nghiệp FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương tuy tỷ lệ vốn FDI trong cơ cấu vốn phát triển trên địa bàn thành phố chưa cao. Trong điều kiện đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, các doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn, vốn tiềm ẩn trong dân chưa huy động được nhiều thì việc huy động một lượng vốn lớn FDI trong những năm qua đã bổ sung kịp thời nhu cầu vốn cho việc phát triển kinh tế của thành phố. Bảng 2.9 Tỷ trọng vốn FDI trong cơ cấu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Năm 2008 2009 2010 2011 Vốn đầu tư phát triển toàn địa bàn (Tỷ đồng) 14.228,3 16.858,2 19.936,4 25.211,4 Vốn đầu tư FDI (Tỷ đồng) 2.139,6 1.973,3 2.373,4 2.913,5 Tỷ lệ (%) 15.04 11.71 12.53 11.56 (Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2011) ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 42 Tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng dần qua các năm. Thu ngân sách từ các doanh nghiệp FDI ngày một tăng tạo khả năng giảm mức bội chi, chủ động hơn trong cân đối ngân sách. Thế mạnh của FDI trong xuất khẩu cộng với đóng góp tiềm năng của FDI vào các lĩnh vực thu ngoại tệ khác như khách sạn, du lịch đã góp phần cải thiện cán cân vãng lai. Khu vực FDI có tác động tích cực đến các cân đối chung của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao của thành phố (xem bảng 2.10, 2.11) Bảng 2.10 Đóng góp của FDI vào GDP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Năm 2008 2009 2010 2011 GDP trên địa bàn (Tỷ đồng) 20.255,4 24.388,8 30.754,7 39.0217 Doanh nghiệp FDI (Tỷ đồng) 1.337,7 1.785,8 2.723,8 3.676,9 Tỷ lệ (%) 6,6 7,32 8,86 9,42 (Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2011) Bảng 2.11 Đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào ngân sách Đà Nẵng Năm 2008 2009 2010 Ước 2011 Tổng thu ngân sách (Tỷ đồng) 12.509,5 14.109,7 16.580,8 21.318,6 Doanh nghiệp FDI 492,6 500,7 760,4 896,9 Tỷ lệ (%) 3,94 3,55 4,59 4,21 (Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2011) Như vậy, FDI đã có những đóng góp quan trọng, có tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy mức đóng góp của khu vực FDI vào tốc độ tăng trưởng chung của kinh tế thành phố chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng và còn thiếu ổn định. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 43 * Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ; góp phần tích cực nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; tăng sức cạnh tranh cho nhiều sản phẩm, doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ. Cơ cấu thu hút vốn ĐTNN vào thành phố theo chiều hướng ngày càng phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Phần lớn các dự án tập trung vào các lĩnh vực: du lịch-dịch vụ, sản xuất công nghiệp, nhất là các dự án về xây dựng các khu du lịch, biệt thự, khu nghỉ dưỡng, sân golf... Đến nay, ở hầu hết các ngành trên địa bàn thành phố đều có sự đóng góp của doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Số lượng các dự án ĐTNN vào các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng đã nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế, góp phần làm cho cơ cấu kinh tế của thành phố dịch chuyển theo hướng CNH, HĐH. * Doanh nghiệp FDI góp phần nâng cao năng lực quản lý, trình độ công nghệ, tay nghề người lao động Nhờ tham gia trực tiếp vào các doanh nghiệp có vốn ĐTNN mà cán bộ của thành phố đã tiếp cận, học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm về quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp, phong cách làm việc của các nhà đầu tư, nhà quản lý ở các nước phát triển. Nhiều doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã tạo cho người lao động có điều kiện được đào tạo, nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN góp phần đổi mới công nghệ, phát triển các ngành công nghiệp điện tử, giày da... nhất là công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, có hàm lượng công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế thông qua hình thức góp vốn bằng máy móc, thiết bị... vì thế mà thành phố đã tiếp nhận thêm những kỹ thuật và công nghệ mới tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở địa phương. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 44 Tuy nhiên, cũng có thể thấy chính sách sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói chung còn mang tính khá thực dụng. Với những vị trí quan trọng, doanh nghiệp thường sử dụng và đào tạo trình độ, kỹ năng lao động, quản lý cao; ít quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lao động ở những ngành, những công việc giản đơn. Vì vậy, ở một số ngành sử dụng nhiều lao động thì trình độ của doanh nghiệp FDI thấp hơn với mức chung trong ngành của thành phố. * Doanh nghiệp FDI góp phần tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động Doanh nghiệp FDI góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Nếu như số lao động năm 2008 là 26.645 người thì tính đến hết năm 2010, khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Đà Nẵng đã thu hút được 33.230 người [9], góp phần tạo ra thị trường lao động với đầy đủ yếu tố cung cầu và cạnh tranh thúc đẩy sự quan tâm của xã hội đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo; đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động và từng bước hình thành một đội ngũ công nhân lành nghề. Tạo việc làm đồng nghĩa với việc tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động. Mức thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI ở thành phố Đà Nẵng là 2.769.000 đồng/tháng [14]. Mức thu nhập này có sự chênh lệch rất lớn giữa các vị trí làm việc và trình độ đào tạo: vị trí lao động cấp cao, sinh viên đại học, cao đẳng mới ra trường, công nhân và lao động giản đơn. Thông qua hợp tác đầu tư, người lao động Việt Nam có điều kiện nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ và quản lý tiên tiến, tác phong lao động công nghiệp. Lương bình quân của các công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cao hơn so với khu vực khác tuỳ theo ngành nghề khác nhau là do: năng suất lao động của các doanh nghiệp này thường cao hơn các doanh nghiệp trong nước; lao động được tuyển dụng là lao động có trình độ và có tính kỷ luật cao, hơn nữa, những doanh nghiệp có vốn ĐTNN thường là những doanh nghiệp có uy tín và quy mô lớn. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 45 * FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Thông qua việc đẩy mạnh các mặt hàng xuất khẩu, các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu của toàn thành phố. Trong điều kiện hàng hoá sản xuất trong nước dành cho xuất khẩu chưa phong phú về chủng loại, chưa đa dạng về mẫu mã, thị trường xuất khẩu còn nhỏ hẹp thì sự gia tăng hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước của các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một điều rất có ý nghĩa. Kim ngạch xuất nhập khẩu có xu hướng tăng liên tục, cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo chiều hướng tích cực: nâng dần tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến, giảm dần tỷ trọng xuất khẩu ở dạng thô, nguyên liệu. Bảng 2.12. Giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của thành phố đà nẵng trong 4 năm (2008-2011) Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Ư. 2011 Kim ngạch xuất khẩu Đà Nẵng (Triệu USD) 575 509 633 770 Doanh nghiệp FDI 169 196 338 418 Tỷ lệ (%) 29,39 38,5 53,4 54,28 Kim ngạch nhập khẩu Đà Nẵng (Triệu USD) 638 651 704 785 Doanh nghiệp FDI 171 161 267 340 Tốc độ phát triển (%) 26,8 24,73 37,92 43,31 (Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2011) Qua bảng trên ta thấy, kim ngạch xuất khẩu của các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có chiều hướng tăng dần qua các năm, năm sau luôn cao hơn năm trước và hai năm 2010, 2011 chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thành phố. Sản ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 46 phẩm xuất khẩu chủ yếu hàng năm của các doanh nghiệp FDI: sản phẩm may mặc; động cơ thiết bị điện, điện tử; hải sản đông lạnh; đồ chơi trẻ em Cùng với việc tăng đều kim ngạch xuất khẩu thì kim ngạch nhập khẩu luôn dao động ở mức tương đối ổn định và thấp hơn nhiều so với kim ngạch xuất khẩu. Điều này cho thấy tình trạng nhập siêu đã được khắc phục, cán cân thanh toán của các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN luôn ở mức dương, đóng góp đáng kể vào việc cải thiện cán cân thanh toán của thành phố. 2.4. Đánh giá về môi trường đầu tư và chính sách đầu tư của thành phố Trong điều kiện cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng gay gắt, môi trường đầu tư và chính sách đầu tư được đánh giá là có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN. Thời gian qua, kinh tế Việt Nam nói chung và kinh tế Đà Nẵng nói riêng tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, có nhiều chuyển biến tích cực về cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; thành phố đã và đang đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, trên cơ sở đó tạo thuận lợi để thu hút ĐTNN. Từ bài học thực tiễn trong những năm qua và yêu cầu, mục tiêu phát triển của thành phố trong xu thế hội nhập, Đà Nẵng đã rút được một số kinh nghiệm quý báu cho mình, đặc biệt là những hạn chế ở một số cơ chế, chính sách trong khu vực kinh tế có vốn ĐTNN. Sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư; việc tổ chức gặp gỡ định kỳ giữa chính quyền thành phố với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc của các nhà đầu tư nhằm tạo sự thông cảm, hiểu biết lẫn nhau giữa các bên là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển của khu vực kinh tế này trong thời gian đến. Với hàng loạt chủ trương, chính sách và giải pháp thiết thực của Trung ương và địa phương, môi trường đầu tư ở Đà Nẵng được cải thiện đáng kể. Đến nay, thủ tục thành lập doanh nghiệp đã được đơn giản hóa, việc phân cấp giấy chứng nhận đầu tư được mở rộng hơn cho địa phương, một số chính sách ưu đãi được chi tiết. Cụ thể để triển khai nhanh dự án, thành phố chịu trách nhiệm về công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân nằm trong khu vực dự án; Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được cung cấp đến chân tường hàng rao dự án; Doanh nghiệp được ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 47 giao đất miễn phí để xây dựng chung cư cho công nhân Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của thành phố đã được chỉnh trang, xây dựng ngày càng khang trang và hiện đại; Đà Nẵng đã đầu tư bằng nguồn ngân sách thành phố để xây dựng hoàn chỉnh KCN Hòa Khánh, KCN dịch vụ thủy sản Thọ Quang. Riêng các KCN Đà Nẵng (liên doanh Malaysia), Hòa Cầm, Liên Chiểu, Hòa Khánh mở rộng, thành phố đã kêu gọi xã hội hóa. Đến nay, các KCN này đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, góp phần thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, là địa chỉ tin cậy để họ an tâm đầu tư. Cụ thể, các KCN đã lấp đầy từ 80% trở lên, đây là tín hiệu đáng mừng minh chứng việc đầu tư hạ tầng trong thời gian qua của thành phố đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần tạo thuận lợi để thu hút đầu tư. Thành phố cũng đang tích cực triển khai đầu tư khu công nghệ cao và khu công nghệ thông tin tập trung nhằm thúc đẩy nhanh việc thu hút các dự án đầu tư có công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ thông tin, tạo ra những sản phẩm tốt, chất lượng cao phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. [31] Đà Nẵng đứng ở vị trí dẫn đầu cả nước trong ba năm 2008, 2009 và 2010 về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam thực hiện.Các hoạt động triển lãm bất động sản Đà Nẵng 2010, diễn đàn Đối thoại Kinh tế Việt Nam – Kansai lần thứ 5 năm 2011, 20 hội thảo ở nước ngoài nhân các chuyến công tác của lãnh đạo thành phố tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan, Hồng Kông, Macao, Châu Âu; kết hợp giới thiệu về môi trường và cơ hội đầu tư của Đà Nẵng tại các diễn đàn xúc tiến đầu tư do Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam tổ chức tại Singapore, Đức, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Hàn Quốc đã tạo điều kiện cho việc thu hút vốn ĐTNN và nâng vị thế của Đà Nẵng lên tầm cao mới. Chính vì vậy, dòng vốn đầu tư từ các nước phát triển như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, EU... đã có dấu hiệu chuyển nhiều vào miền Trung, trong đó Đà Nẵng là địa phương có mức tăng khá cao. Chỉ tính riêng năm 2011, thành phố đã thu hút 30 dự án FDI mới với tổng vốn đầu tư là 385,31 triệu USD và 02 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư tăng thêm là 16,5 triệu USD. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 48 Những kết quả đạt được trên phản ánh tính năng động, sáng tạo và quyết tâm cao của Đảng bộ và nhân dân thành phố trong việc mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt là lĩnh vực ĐTNN. Nhưng so với thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và một số địa phương khác trên cả nước, cũng như so với tiềm năng, vị thế của mình thì dòng vốn đầu tư vào Đà Nẵng còn thấp, chưa đáp ứng những gì mà nhân dân địa phương mong đợi. Có thể thấy những hạn chế này ảnh hưởng đến dòng vốn ĐTNN vào Đà Nẵng: chính sách ưu đãi về giá thuê đất, thuế và cải tiến thủ tục đầu tư chưa thật sự hấp dẫn; nguồn nguyên liệu và các ngành công nghiệp hỗ trợ cung cấp cho các nhà máy còn thiếu và chất lượng không cao; giá thành sản phẩm và các dịch vụ khác như: khách sạn, bệnh viện, trường học, khu vui chơi, giải trí chưa phát triển; hệ thống pháp luật, chính sách và một số Nghị định liên quan đến đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ và còn nhiều vướng mắc; việc triển khai các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư của thành phố chưa thật sự nhanh chóng; việc phối hợp giữa các sở, ban ngành chưa chặt chẽ làm cho dự án triển khai chậm tiến độ. Đây là những lý do chính làm cho môi trường đầu tư chưa thật sự hấp dẫn. Nhằm khắc phục tình trạng trên, tạo sức hút mạnh cho lĩnh vực FDI của Đà Nẵng, thành phố sẽ tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc nói trên, đồng thời xem xét, đề xuất các cơ chế, chính sách mới cho phù hợp với tình hình thực tế. 2.5. Những khó khăn, hạn chế trong quá trình thu hút vốn ĐTNN ở Đà Nẵng trong thời gian qua 2.5.1. Những khó khăn hạn chế Với những nỗ lực của bản thân thành phố, cùng với sự giúp đỡ có hiệu quả của Trung ương và sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương, việc thu hút vốn ĐTNN ở Đà Nẵng đã có bước phát triển đang kể. Tuy nhiên, so với tiềm năng, lợi thế và yêu cầu của thực tiễn thì sự phát triển đó vẫn còn hạn chế: - Quy hoạch không đồng bộ, thay đổi quy hoạch trong thời gian ngắn đã tác động không nhỏ đến môi trường đầu tư, gây ra phản ứng dây chuyền cho nhà đầu tư trong và ngoài nước, không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất mà còn gây tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư. Chính sách đền bù, giải tỏa khi nhà đầu tư phải di dời cơ sở sản ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 49 xuất, di dời nhà xưởng từ địa điểm cũ đến nơi sản xuất mới do thay đổi quy hoạch được áp dụng thiếu linh hoạt và còn cứng nhắc, tạo tâm lý lo sợ cho nhà đầu tư. - Việc triển khai thực hiện cơ chế mới và chính sách ưu đãi đầu tư của thành phố còn thiếu linh hoạt, nhạy bén và chưa thật sự đồng bộ. Việc phối hợp giữa các sở, ban ngành chưa thành quy chế, nên việc triển khai dự án chưa thể biểu hóa về mặt thời gian. Thời gian xử lý để có chủ trương cho phép tiến hành dự án còn chậm so với địa phương khác. - Mặc dù trong những năm qua sự phát triển nhiều mặt của thành phố đã có những tiến bộ vượt bậc, nhưng nếu nhìn nhận Đà Nẵng về hướng phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, bền vững cho một thành phố công nghiệp về đích sớm trước năm 2020 vẫn gặp những giới hạn của nó như: còn dàn trải về đầu tư cho công trình xây dựng kết cấu hạ tầng. Toàn cảnh thành phố như một công trình luôn dang dở, thiếu sự tập trung dứt điểm, đang làm ảnh hưởng đến cơ hội và kế hoạch thực hiện các dự án đầu tư. Nhiều con đường lớn vừa làm xong lại phải đào bới, chỉnh sửa rất tốn kém, trong khi đó có những đường phố còn đất đá nhưng lại bị lãng quên hoặc không có kinh phí để cải tạo nâng cấp. Các cửa ngõ phía Nam, phía Bắc cũng như trong lòng thành phố nhiều công trình đã xây dựng xong nhưng còn phải tiếp tục hoàn thiện, chấn chỉnh về quản lý để tăng tính hiệu quả, nhiều nơi quy hoạch treo gần chục năm nhưng vẫn chưa thấy tiến hành đã làm thất vọng bao người dân và nhà đầu tư. Chính sách ưu đãi đầu tư tạo môi trường thuận lợi để thu hút FDI vào Đà Nẵng chưa được cụ thể hoá và thực thi nhất quán, có trường hợp còn vận dụng tuỳ tiện ẩn chứa nhiều tiêu cực. Đây là những giới hạn cần được khắc phục, nếu chậm trễ sẽ mất cơ hội thu hút vốn ĐTNN để phát triển thành phố. - Đà Nẵng có cảng biển lớn và có nhiều ưu thế so với các cảng biển khác của đất nước, nhưng do cơ chế, chính sách thu hút FDI chưa thật sự thông thoáng, chi phí vận tải cao nên lượng tàu và lượng hàng hoá xuất, nhập cảng còn ít gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động FDI. Trong nhiều trường hợp để kịp thời có đủ nguyên liệu sản xuất cũng như giao đúng hợp đồng, doanh nghiệp phải nhập hoặc ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 50 xuất tại nơi khác sau đó mới chuyển về Đà Nẵng làm cho giá thành sản phẩm cao gấp hai đến ba lần. Điều này làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khi đầu tư vào Đà Nẵng. Điều kiện đi lại không thật sự thuận lợi, thiên tai, lũ lụt cũng thường xuyên xảy ra cũng làm ảnh hưởng đến tình hình đầu tư vào Đà Nẵng. - Với môi trường cạnh tranh gay gắt, để thu hút FDI, các địa phương đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi đầu tư về giá thuê đất, thuế, tăng cường cải tiến thủ tục đầu tư... nhằm tạo ra lực hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, trong khi sức hấp dẫn của Đà Nẵng trong lĩnh vực này chưa cao. Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Thái Lan... tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo ra lực hấp dẫn mới, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình đầu tư vào Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng. - Nguồn nguyên liệu và các ngành công nghiệp hỗ trợ cung cấp cho các nhà máy tại Đà Nẵng chưa phong phú, chất lượng không cao. Thành phố hiện có 6 KCN thu hút FDI nhưng công nghiệp phụ trợ còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngành dệt may là thế mạnh nhưng có gần 80% nguyên liệu vải, phụ liệu may phải nhập khẩu, chỉ có 5% được cung ứng tại thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra, các dịch vụ phục vụ đời sống, sinh hoạt của nhà ĐTNN và gia đình họ như trường học, bệnh viện, khách sạn, khu vui chơi giải trí chưa phát triển. - Đa số các doanh nghiệp Việt Nam tham gia liên doanh đều gặp khó khăn trong việc xác định, giải trình nguồn vốn góp và chọn người có đủ năng lực tham gia đàm phán với đối tác nước ngoài. Lực lượng cán bộ chuyên trách và cán bộ tham gia trực tiếp trong lĩnh vực này còn yếu về kiến thức và năng lực tổ chức. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của nhiều DNCVĐTNN còn thấp. Một số doanh nghiệp có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao nhưng do biến động về giá cả trên thị trường thế giới bất lợi dẫn đến phải thu hẹp quy mô hoặc chỉ sản xuất cầm chừng. - Điều kiện và môi trường đầu tư chưa thật sự hấp dẫn, thị trường Đà Nẵng và các vùng lân cận sức mua có hạn, dân cư còn nghèo, thu nhập chưa cao, tỷ lệ số người có việc làm ổn định thấp nên dẫn đến tình hình kinh doanh tại Đà Nẵng kém ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 51 hiệu quả hơn so với một số tỉnh, thành phố khác. Các điều kiện về sản xuất phụ trợ, gia công cho các ngành công nghiệp cơ khí, dệt may, sản phẩm phụ chưa phát triển mạnh, hầu như phải mua từ các địa phương khác như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hoặc nhập khẩu từ nước ngoài dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, làm giảm sức cạnh tranh so với các địa phương khác ... 2.5.2. Những nguyên nhân chính Hiệu quả hoạt động thu hút vốn ĐTNN ở thành phố đến nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, chưa thật sự tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong việc đóng góp cho tăng trưởng kinh tế ở địa phương là do một số nguyên nhân sau: - Trước hết, vấn đề nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo ở các cấp, các ngành trong thành phố về vai trò của kinh tế có vốn ĐTNN đối với việc góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội chưa thật sự sát thực tế và chưa nhất quán, trong khi đó việc đánh giá quá cao và quá lớn nguồn vốn ĐTNN đã làm nảy sinh tâm lý thụ động, chờ đợi kêu gọi đối tác nước ngoài. - Hệ thống pháp luật nói chung và những chủ trương của thành phố nói riêng, tuy có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện, trước hết là thủ tục và việc phân cấp quản lý, cấp giấy phép, vẫn còn tình trạng chồng chéo nhau. Việc giải thích luật và các văn bản dưới luật còn chậm, nghèo về hình thức chuyển tải thông tin đến các nhà đầu tư. Các chính sách về lĩnh vực ưu tiên của thành phố cũng như lĩnh vực cấm đầu tư, đặc biệt là chính sách thuế, thủ tục hải quan, quản lý ngoại tệ, thủ tục xuất nhập khẩu còn nhiều vướng mắc. - Một số chính sách chưa đồng bộ, tính khả thi thấp. Thành phố chưa có hệ thống chính sách tạo ra sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN về việc xử lý nhiều mối quan hệ đối với sản xuất, kinh doanh, nhất là vật tư, nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra trên thị trường. Việc quy hoạch cụ thể đầu tư cho một số ngành mũi nhọn, chưa ổn định, thiếu tập trung, hiệu quả thấp. - Mặc dù là thành phố thuộc vùng trọng điểm kinh tế của cả nước, song việc ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 52 chỉ đạo và những điều kiện ưu đãi của Trung ương dành cho thành phố Đà Nẵng chưa nhiều. Điều kiện và môi trường đầu tư ở Đà Nẵng còn chưa hấp dẫn, thị trường Đà Nẵng và các vùng lân cận sức mua có hạn, chi phí vận tải cao, điều kiện đi lại không thuận lợi. Các cơ quan chức năng liên quan đến khu vực kinh tế có vốn ĐTNN và đội ngũ cán bộ làm việc trong khu vực đó còn nhiều hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, chưa đáp ứng đầy đủ đòi hỏi thực tiễn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 53 CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THU HÚT FDI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 3.1. Bối cảnh trong nước và triển vọng của Đà Nẵng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 3.1.1. Bối cảnh Việt Nam trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, đến nay, cơ bản nước ta đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Với lợi thế là một quốc gia có dân số khá lớn (thứ 14 thế giới); môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định; tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định trong thời gian dài, Việt Nam đã trở thành một điểm sáng trong thu hút FDI. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều thách thức đang đặt ra cho nước ta khi nước ta vẫn là một nước đang phát triển ở trình độ trung bình. Bối cảnh đó đưa lại cho Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng những thuận lợi và khó khăn nhất định trong thu hút FDI * Thuận lợi: - Trong bối cảnh của thế giới hiện nay, các hoạt động xuất khẩu, liên doanh, đầu tư ra nước ngoài đã trở thành những yếu tố chi phối, quyết định khả năng tồn tại và phát triển của công ty xuyên quốc gia. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một trong những điều kiện chủ yếu để các công ty xuyên quốc gia thực hiện việc chiếm lĩnh và mở rộng thị trường , chuyển giao công nghệ để kéo dài chu kỳ kỹ thuật, chu kỳ sản phẩm nhằm thu lợi nhu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_thu_hut_von_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_o_thanh_pho_da_nang_2233_1912262.pdf
Tài liệu liên quan