Luận văn Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên

Người nghèo thường thiếu nguồn lực, hộ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của hộ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.

Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo, cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp là chính. Họ vẫn sử dụng những phương thức sản xuất truyền thống, sử dụng những phương pháp này dẫn đến giá trị sản phẩm không cao, năng xuất các loại cây trồng, vật nuôi thấp nên thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đưa họ vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói.

Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Nhiều những yếu tố đầu vào của sản xuất như giống, phân bón,. đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị sản phấm sản xuất ra.

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5704 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liên kết 14 sông lớn ở vùng Hi-ma-lay-a với 17 sông ở phía Nam, để phân bổ lại khoảng 173 tỉ m3 khối nước/năm, từ đó, đưa sản lượng lương thực của Ấn Độ từ hơn 200 triệu tấn hiện nay lên 450 triệu tấn vào năm 2050. Kết quả này sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói giảm nghèo. Đồng thời, Chính phủ đã chi 3,3 tỉ USD cho 300 dự án, chương trình chống lũ lụt ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Về năng lượng, Ấn Độ thực hiện ưu tiên điện khí hoá nông thôn và đang xây dựng hệ thống năng lượng cho khu vực này. Trọng tâm là khai thác năng lượng tái sinh như khí sinh học, năng lượng mặt trời, gió, thuỷ điện nhỏ, để trong 5 năm tới sẽ cung cấp điện cho 75 triệu nông hộ. Ấn Độ cũng đã tăng chi cho xóa đói giảm nghèo và coi đây là mục tiêu quan trọng, là chương trình lớn trong các kế hoạch dài hạn. Ngày 15-8-1995, Ấn Độ đã đưa ra Kế hoạch quốc gia về hỗ trợ xã hội cho những người sống dưới mức nghèo khổ: những người nghèo trên 65 tuổi sẽ được trợ cấp 2 USD/tháng; hỗ trợ từ 130 đến 250 USD cho những gia đình nghèo có người chết; hỗ trợ 10 USD cho những phụ nữ trên 19 tuổi trong 2 lần sinh đầu. Từ năm 1999, Ấn Độ đã thực hiện hỗ trợ 10 kg lương thực cho những người già không có lương hưu. Gần đây, chương trình này đã mở rộng cho cả những người có lương hưu. Ngày 25-9-2001, Ấn Độ đưa ra chương trình bảo đảm lương thực và việc làm cho nông thôn, chương trình nhà ở, chương trình bảo đảm lợi ích người lao động trong khu vực nông nghiệp… Năm 2006, Chính phủ đã đầu tư 800 triệu USD vào những vùng lạc hậu; năm 2007, lập quỹ 700 triệu USD giúp những vùng nông thôn lạc hậu. Trong kế hoạch lần thứ XI, Ấn Độ sẽ đưa ra chương trình đặc biệt để phát triển kinh tế cho 75 nhóm lạc hậu đang sống trong những điều kiện hết sức nghèo nàn. Cũng trong kế hoạch lần này, Ấn Độ sẽ chi 1 tỉ USD để xóa bỏ tình trạng lao động trẻ em. Tăng trợ cấp sản xuất nông nghiệp cũng là một biện pháp quan trọng để xóa đói giảm nghèo. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ X, Ấn Độ đã hỗ trợ sản xuất nông nghiệp là 18 tỉ USD và kế hoạch lần thứ XI là 27 tỉ USD. Trợ cấp trong từng ngành là rất cụ thể: tháng 3-2007, trợ cấp vận chuyển đường là 37USD/tấn; Ngành chè được trợ cấp 22 triệu USD; Mỗi ha chuối được trợ cấp 700 USD để tăng cường sản xuất và xuất khẩu. Chính phủ đã chi 11 tỉ USD để trợ giá phân bón trong năm 2007-2008 và năm 2008-2009 sẽ là 16 tỉ USD. Mỗi hộ nông dân sẽ được trợ cấp 150 USD tiền điện. Bảo hiểm nông nghiệp sẽ tăng từ 16% lên 80-90% số nông hộ. Năm 2008, Chính phủ sẽ xóa nợ cho nông dân 15 tỉ USD, giảm thuế cho những hộ có diện tích dưới 3 ha. Khoảng 30 triệu nông dân đang mắc nợ sẽ được lợi từ kế hoạch này. Tạo việc làm là một trong những biện pháp quan trọng để xóa đói giảm nghèo. Chính vì thế, chương trình việc làm luôn luôn là một nội dung quan trọng trong các kế hoạch của Chính phủ. Tháng 8-2005, Ấn Độ thông qua Luật Bảo đảm việc làm cho nông dân - một trong những văn bản pháp lý quan trọng nhất được ban hành từ khi Ấn Độ giành được độc lập. Luật này sẽ bảo đảm về pháp lý để mỗi nông dân có đủ 100 ngày có việc làm/năm, với mức lương 1,5 USD/ngày. Nếu không có việc làm, nông dân sẽ nhận được một khoản trợ cấp thất nghiệp. Giai đoạn đầu, chương trình này sẽ áp dụng trong 200 huyện; 4 năm tiếp theo sẽ mở rộng ra toàn Ấn Độ. Theo nhiều đánh giá, chương trình này được coi là có nhiều kì vọng nhất trên thế giới để xóa đói giảm nghèo. Triển khai Luật trên, năm 2005-2006 Ấn Độ đã chi 3 tỉ USD, năm 2006-2007 là 2,7 tỉ USD và năm 2007-2008 là 2,8 tỉ USD cho chương trình việc làm nông thôn. Gần đây, Ấn Độ đã mở rộng Luật trên, tăng chi tiêu để trong 7 năm tới tạo thêm 50 triệu việc làm. Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, Ấn Độ đã nhận được sự giúp đỡ hết sức tích cực của quốc tế. Ngân hàng thế giới (WB) đã cho Ấn Độ vay nhiều nhất, với 3,75 tỉ USD, bằng 15% tổng mức cho vay của WB trong năm 2007. Trong lượng vốn trên, một phần quan trọng đã được đưa vào nông nghiệp, nông thôn, vừa giúp Ấn Độ phát triển các lĩnh vực nói chung, vừa tăng cường công cuộc xóa đói giảm nghèo tại nông thôn. WB đã cấp 225 triệu USD để xóa đói giảm nghèo tại bang Mát-hi-a (Madhya). WB cũng giúp 463 triệu USD cho bang Bi-ha - bang nghèo nhất Ấn Độ, với 44% dân số nghèo khổ. Năm 2007, WB đã cho Ấn Độ vay thêm 600 triệu USD để trợ giúp các trang trại, 944 triệu USD để tăng cường hệ thống tài chính nông thôn, thực hiện bảo hiểm nông nghiệp và các dự án quản lý nguồn nước. Cùng với WB, không kể các khoản vốn đã cấp, từ 2007-2010 Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) sẽ cho các bang nghèo nhất của Ấn Độ vay 2,1 tỉ và sẽ đầu tư thêm 9,2 tỉ USD vào cơ sở hạ tầng, nhất là cho những bang nghèo như Bi-ha (Bihar), Giắc-hen (Jharkhand). Thủ tướng Anh, trong chuyến thăm Ấn Độ tháng 1-2008 đã tuyên bố viện trợ phát triển 1,6 tỉ USD cho những bang nghèo nhất của Ấn Độ. Nhờ những cố gắng trên, nghèo đói ở Ấn Độ đã giảm nhiều. Các chỉ số xã hội như thu nhập, giáo dục, y tế, giao thông, điện, nước uống… ở hầu hết những vùng nông thôn nghèo đã được cải thiện đáng kể từ năm 1991. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn đã giảm từ 45,76% trong năm 1983 xuống 37,26% trong năm 1994 và 29,18% trong năm 2005. Số lượng người nghèo tương ứng với các thời điểm trên là 252,05 triệu; 247,8 triệu và 232,16 triệu. Đa số nông dân đã có đủ lương thực, với tỷ lệ đủ ăn tăng từ 94,5% (năm 1994-1995) lên 97,1% (năm 2004-2005). Những thành tựu nông nghiệp đã giúp Chính phủ cung cấp lương thực cho những người nghèo nhất. Phân phối lương thực đã tăng từ 10 kg, lên 20 kg và đến tháng 7-2001 là 25 kg/gia đình/tháng. Chính phủ cũng đã bỏ ra hàng triệu tấn lương thực để cứu trợ những vùng bị thiên tai. Việc phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn đã giải quyết nhiều việc làm cho nông dân, qua đó, giúp họ cải thiện, ổn định đời sống. Một trong những thành tựu đáng kể của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Ấn Độ là đã thực hiện bữa ăn trưa miễn phí cho 120 triệu trẻ em, chủ yếu ở nông thôn. Chính phủ sẽ chi thêm 10,7 tỉ USD cho kế hoạch này. Về chương trình hỗ trợ xã hội, lương hưu cho người nghèo trên 65 tuổi sẽ tăng từ 1,5USD/tháng lên 4,5 USD/tháng. Sau 17 năm cải cách, mức tiêu dùng ở nông thôn Ấn Độ đã tăng lên. Số hộ dùng ga tăng gấp 6 lần. Chi tiêu cho giáo dục từ năm 1999-2000 đến năm 2004-2005 tăng từ 29% lên 44% 1.1.2.3 Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của Thái Lan Thông qua chính sách phát triển, Thái Lan thực hiện việc loại trừ đói nghèo ở vùng trọng điểm. Từ năm 1980 đến nay, Thái Lan áp dụng mô hình gắn liền chính sách quốc gia với chính sách phát triển nông thôn thông qua việc phát triển nông thon, phát triển các xí nghiệp ở các làng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp nhỏ, mở rộng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm bớt nghèo khổ. Chính phủ ban hành chính sách cải cách ruộng đất, theo đó người nông dân được quyền làm chủ về đất đai, Nhà nước tạo điều kiện để họ có khả năng tích tụ ruộng đất, mở rộng quy mô, hướng nông dân đi vào sản xuất hàng hoá. Thái Lan đã thực hiện tốt mô hình đổi mới Hợp tác xã nông nghiệp theo hình thức tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, hoạt động của Hợp tác xã chủ yếu mang tính chất dịch vụ. Kết quả là người nghèo ở Thái Lan từ 30% dân số trong thập niên 80 đã giảm xuống 23% vào năm 1990 (3 triệu người) 1.1.2.4 Tình hình nghèo đói của Việt Nam- Kinh nghiệm và giải pháp a. Tình hình nghèo đói của Việt Nam Ở Việt Nam, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn nước ta, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng kể, có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phòng, phát huy được bản chất tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong khoảng thời gian 5 năm từ 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ, đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. "Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế". Đó là đánh giá trong "Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân hàng thế giới. Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với định hướng chung là từng bước tiếp cận với trình độ của các nước đang phát triển trong khu vực, nên chuẩn nghèo đã được điều chỉnh lại, trong đó có tính đến các nhân tố ảnh hưởng. Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong nhiều năm qua, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Tình hình nghèo đói của Việt Nam trong những năm qua được thể hiện qua bảng sau: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới của Chính phủ giai đoạn 2006-2010 Đơn vị tính: % Khu vực Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Chung cả nước 18,1 15,5 13,4 I. Phân theo khu vực Thành thị - Nông thôn 1. Thành thị 8,6 7,7 6,7 2. Nông thôn 21,2 17,0 16,1 II. Phân theo vùng 1. Đồng bằn sông Hồng 12,7 10,0 8,6 2. Trung du và miền núi phía Bắc 29,4 27,5 25,1 3. Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung 25,3 22,2 19,2 4. Tây Nguyên 29,2 24,0 21,0 5. Đông Nam Bộ 4,6 3,1 2,5 6. Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13,0 11,4 Như vậy ta thấy theo chuẩn nghèo giai đoạn năm 2006-2010 của Chính phủ thì tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm từ 15,5% năm 2006 xuống mức 13,4% năm 2008. Vùng trung du và miền núi phía bắc là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất nước 25,1% (2008), vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ là 2,5% (2008). Theo dự báo tỷ lệ hộ nghèo của nước ta có thể giảm xuống mức 10% trong năm 2010. Tuy đạt được nhiều thành công, song nước ta vẫn còn một số tồn tại trong xoá đói giảm nghèo như: - Chuẩn nghèo của nước ta còn cách xa so với chuẩn nghèo thế giới. - Kết quả xoá đói giảm nghèo không mang tính bền vững, tỷ lệ hộ dân có thu nhập quanh mức chuẩn nghèo còn cao do đó khi có sự biến động về chuẩn nghèo hoặc những tác động của các yếu tố ngoại cảnh rất dễ dẫn đến tình trạng tái nghèo. - Hầu hết số người nghèo đói của nước ta đều tập trung ở khu vực nông thôn, nơi khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Điều này gây trở ngại cho công tác xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Ngân hàng thế gới Đơn vị tính: % Khu vực Năm 1998 Năm 2002 Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Chung cả nước 37,4 28,9 19,5 16,0 14,5 I. Phân theo khu vực Thành thị - Nông thôn 1. Thành thị 9,5 6,6 3,6 3,9 3,3 2. Nông thôn 44,9 35,6 25,0 20,4 18,7 II. Phân theo vùng 1. Đồng bằn sông Hồng 30,7 21,5 11,8 8,9 8,0 2. Trung du và miền núi phía Bắc 64,5 47,9 38,3 32,3 31,6 3. Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung 42,5 35,7 25,9 22,3 18,4 4. Tây Nguyên 52,4 51,8 33,1 28,6 24,1 5. Đông Nam Bộ 7,6 8,2 3,6 3,8 2,3 6. Đồng bằng sông Cửu Long 36,9 23,4 15,9 10,3 12,3 b. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của tỉnh Hà Giang Trong 62 huyện nghèo nhất nước thì Hà Giang có tới 6/11 huyện thị nằm trong danh sách này. Những năm qua nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cùng với công tác chỉ đạo sát sao, xã hội hoá các nguồn lực,  phát huy tinh thần tương thân, tương ái của đồng bào dân tộc trong tỉnh mà công tác xoá nhà tạm, xoá đói giảm nghèo của Hà Giang đã đạt được kết quả rất tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo trong tỉnh giảm nhanh từ 51,05% năm 2005 xuống còn 27,64% năm 2008, cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn đã có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trong đó, việc xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo là quan trọng và việc tác động làm thay đổi nhận thức của người dân về ý thức tự vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống, tránh trông chờ ỷ lại là điểm mấu chốt.  Những năm qua, nhiều cơ quan, doanh nghiệp đã rất tích cực trong công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Ngoài ra, tỉnh cũng phát động nhiều cuộc vận động thu hút các ngành và đông đảo cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân trong tỉnh giúp dân giảm nghèo. Tiêu biểu như cuộc vận động ủng hộ giống gia súc nuôi luân chuyển và phản nằm, màn cho các hộ nghèo, thu hút 633 cơ quan, trên 5 nghìn cán bộ, đảng viên tự nguyện trích một phần tiền lương và thu nhập để tham gia ủng hộ. Qua đó, hỗ trợ được 184 con trâu, 302 con bò, 4.374 con dê và trên 5 nghìn tấm phản nằm, với tổng số tiền lên tới 4,24 tỷ đồng, bảo đảm ít nhất mỗi hộ nghèo được hỗ trợ 1 con trâu (bò), hoặc từ 2 - 3 con dê sinh sản. Để làm được điều đó, tỉnh vận động các đồng chí ủy viên, lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể nêu cao tinh thần gương mẫu, mỗi đồng chí ủng hộ ít nhất 1 hộ nghèo trở lên, mỗi hộ 2 con dê, 1 tấm phản nằm, 1 chiếc màn; cán bộ công nhân viên mỗi người trích một phần thu nhập để trợ giúp giống trâu, bò, dê, lợn cho các hộ nghèo theo đơn vị đã được phân công phụ trách. Ngoài ra, các hộ có điều kiện sẽ giúp giống gia súc cho các hộ nghèo nuôi rẽ. Các huyện ít hộ nghèo sẽ giúp các huyện, xã có nhiều hộ nghèo hơn. Việc thống kê các hộ cần hỗ trợ phải được nêu tên, địa chỉ cụ thể rõ ràng. Gắn với cuộc vận động này, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh việc xoá nhà tạm để đảm bảo cho người dân có nơi an cư lạc nghiệp, qua đề án hỗ trợ thêm 5.836 hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167. Quá trình thực hiện cũng mang tính xã hội hoá cao, ngoài nguồn vốn của Nhà nước, các doanh nghiệp Trung ương cũng đã hỗ trợ rất nhiều, cùng với nguồn tài chính của gia đình, dòng họ, thôn xóm giúp đỡ. Việc huy động các nguồn tiền đóng góp ủng hộ đồng bào xây dựng nhà cũng được tỉnh cho từng sở, ban, ngành, doanh nghiệp phụ trách từng xã đặc biệt khó khăn một cách cụ thể. Ví dụ như huyện Mèo Vạc chỉ trong một thời gian ngắn đã huy động được 3 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo xoá nhà tạm.  Đến nay, tỉnh Hà Giang đã xoá được khoảng 14.000 căn nhà tạm. Riêng năm 2009, xoá được 6.287 căn nhà tạm thì có 2.212 nhà xây, 1.312 nhà trình tường, 1.372 nhà sàn và 1.048 nhà gỗ. Trong tổng số gần 140 tỷ dùng xoá nhà tạm thì nguồn tiền xã hội hoá chiếm tới 2/5. Nhiều ngôi nhà vững chắc đã được dựng lên đảm bảo theo những tiêu chí đã đặt ra tạo điều kiện cho bà con có chỗ ở tốt hơn d. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo tại huyện Phú Ninh tỉnh Quảng Nam Hiện nay, toàn huyện Phú Ninh có diện tích tự nhiên 25.116ha, dân số trên 83 ngàn người. Cơ cấu của huyện nhiều năm qua phát triển theo hướng Nông nghiệp là chính. Tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao, năm 2007 là gần 16%. Nguyên nhân nghèo là do một số địa phương dân cư ở không tập trung, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, nhất là mùa mưa lũ, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân còn thiếu thốn, đầu tư chưa đồng bộ. Xuất phát điểm của huyện là nền kinh tế phát triển chậm, dân trí không đồng đều, tập quán canh tác nhiều địa phương còn lạc hậu, đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo ở cơ sở còn thiếu kinh nghiệm...  Trước thực trạng trên, Đảng bộ và chính quyền của huyện Phú Ninh sau khi được thành lập đã tập trung tuyên truyền giáo dục, nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện để mọi người, mọi ngành hiểu rõ tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo, tích cực tham gia thực hiện các biện pháp xoá đói giảm nghèo trên địa bàn. Huyện còn tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện bằng những chủ trương, giải pháp đồng bộ trong sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, phát triển trang trại, phát triển thủ công nghiệp; tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội công cộng có liên quan trực tiếp đến sản xuất, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển và cải thiện đời sống nhân dân như: công trình thuỷ lợi kênh mương nội đồng, công trình nước sinh hoạt, hệ thống điện lưới quốc gia, làm đường giao thông, tổ chức đào tạo nghề; đẩy mạnh xuất khẩu lao động... Mục tiêu được đề ra đến năm 2010 toàn huyện phải giảm được số hộ nghèo xuống dưới 10%. Mỗi năm phấn đấu giải quyết việc làm mới cho từ 150-200 lao động thuộc diện hộ nghèo, giới thiệu từ 30-40 lao động được đi xuất khẩu lao động v.v... Thực tế cho thấy, sau gần 4 năm thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, đến nay, số hộ nghèo trên địa bàn huyện từ 15.99% năm 2007 giảm xuống còn hơn 14 % năm 2008. Hiện nay, số hộ nghèo do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự biến động của giá cả thị trường đang là một trong những thách thức lớn đối với huyện. Làm sao để tỷ lệ hộ đói nghèo của huyện giảm xuống nhanh chóng cũng là sự trăn trở đối với các cấp lãnh đạo địa phương ở huyện nhà. Để làm được điều đó, huyện uỷ Phú Ninh đã ra ban hành nhiều Đề án, Nghị quyết, chủ trương về xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng thâm canh tăng năng xuất và chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng mùa vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để đạt hiệu quả cao trên một đơn vị diện tích. Nhờ có các giải pháp khả thi và do làm tốt các chủ trương về xoá đói giảm nghèo của tỉnh, huyện, xã nên năm 2008, đời sống của nhân dân trên địa bàn được nâng cao hơn. Cạnh đó, trong công tác này, huyện còn đề ra một số chương trình, dự án để phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo trên địa bàn như: dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, chương trình xã hội hóa trường học; đầu tư nâng cấp trạm y tế, chương trình giao thông nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường với tổng số tiền hàng tỷ đồng. Đặc biệt là từ sau khi thành lập đến nay, được sự quan tâm của Chính phủ và các cấp, các ngành, huyện Phú Ninh đã được đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân, làm thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn. Đến Phú Ninh hôm nay, nhiều xã đã có đường giao thông liên xã, có tuyến đường nhựa chạy qua, 6/10 xã đạt chuẩn về y tế, nhiều xã được đầu tư các công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, có đường điện lưới quốc gia... Kết thúc năm 2008, tổng sản lượng lương thực tăng 5,1% so với năm 2007, giá trị thu nhập bình quân đạt 36,86 triệu đồng/ha canh tác hằng năm. Cơ cấu nội bộ ngành chuyển biến tích cực; diện tích cánh đồng cho thu nhập cao trên 80 triệu/ha đạt 454ha. Sản lượng cây lương thực có hạt tăng; năng suất lúa bình quân đạt 52.9 tạ/ha; công tác xây dựng cánh đồng cho thu nhập trên 80 triệu đồng/ha được tập trung triển khai thực hiện với diện tích hơn 450ha; nhiều xã khó khăn như Tam Lộc, Tam Lãnh, Tam Thành… đã được Đảng uỷ và chính quyền xã chỉ đạo các đoàn thể như: hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên... tín chấp vay vốn ngân hàng chính sách xã hội và tổ chức các lớp tập huấn đưa cây trồng, vật nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để giúp các hội viên có vốn, có kiến thức phát triển kinh tế gia đình. Để tiếp tục thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo các tháng còn lại của năm 2008 và những năm tiếp theo, Phú Ninh đang tập trung phát triển nguồn lực, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển các thành phần kinh tế nhất là phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, xuất khẩu lao động phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại; đồng thời thực hiện có hiệu quả chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình, nhất là giảm tỷ lệ dân số; đồng thời vận động nhân dân thực hiện chính sách tiết kiệm, góp phần giảm nghèo ở các địa phương bằng các giải pháp mang tính khả thi cao như: Phát huy tốt nội lực trong nhân dân, tích cực tuyên truyền nhằm làm thay đổi nhận thức, nhằm xóa bỏ lối suy nghĩa trông chờ, ỷ nại vào sự giúp đỡ của Nhà nước, tự giác chuyển đổi cách nghĩ, cách làm, nhằm khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương để phát triển kinh tế, từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo làm giàu cho gia đình và cho quê hương. 1.1.2.5 Nguyên nhân dẫ đến đói nghèo ở Việt Nam Có thể nói có rất nhiều những nguyên nhân gây ra đói nghèo cho người dân, ở đây chúng tôi chỉ xin đưa ra một số nhóm nhừng nguyên nhân cơ bản nhất: a. Nguồn lực hạn chế Người nghèo thường thiếu nguồn lực, hộ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của hộ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo, cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp là chính. Họ vẫn sử dụng những phương thức sản xuất truyền thống, sử dụng những phương pháp này dẫn đến giá trị sản phẩm không cao, năng xuất các loại cây trồng, vật nuôi thấp nên thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đưa họ vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Nhiều những yếu tố đầu vào của sản xuất như giống, phân bón,.... đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị sản phấm sản xuất ra. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Sự hạn chế của các nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ mới. Mặc dù trong chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã được tăng lên rất nhiều song vẫn còn khá nhiều người nghèo không có khả năng tiếp cận được tín dụng. Một mặt họ không có tài sản để thế chấp, mặt khác họ không xây dựng được kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng đồng vốn không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận nguồn vốn và cuối cùng càng làm cho họ nghèo hơn. b. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định Người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do đó không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp có ảnh hưởng tới các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái... đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thê hệ tương lai. Trình độ học vấn hạn chế cũng ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. c. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt. Mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư.. hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã... chi phí dịch vụ pháp lý còn cao. d. Các nguyên nhân về nhân khẩu học Quy mô gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong gia đình. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo đói còn rất cao. Đông con, ít lao động là một trong những đặc điểm của các gia đình nghèo. Quy mô gia đình lớn làm tỷ lệ người ăn theo cao. e. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng thiên tai và các rủi ro khác Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với các bến cố xảy ra trong cuộc sống (như: thiên tai, mất mùa, mất việc làm, mất sức khoẻ, tai nạn ...). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình trong nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống gia đình của họ và gây ra tình trạng nghèo đói cho hộ. Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh cũng rất cao đối với người nghèo, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn chế làm cho hộ mất khả năng phục hồi rủi ro và có thể gặp rủi ro hơn nữa. f. Bệnh tất, sức khoẻ yếu cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Vấn đề bệnh tật và sực khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn đói nghèo, Họ phải gánh chịu 2 gánh nặng: Một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là chịu chi phí khám chữa bệnh, kể cả chi phí trực tiếp và gián tiếp. g. Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách (tự do hoá thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước...) đến đói nghèo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới mức giảm nghèo. Việt Nam đã đạt được những thành tựu giảm nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên quá trình phát triển và mở của nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đền người nghèo. - Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý: Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_cuong_luan_van_thac_sy_9364.doc
Tài liệu liên quan