Luận văn Những giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản

NỘI DUNG TRANG

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối

1.1.2. Lý thuyết lợi thế so sánh

1.1.3. Lý thuyết về giá trị quốc tế, mối tương quan của cầu

1.1.4. Quan điểm của Các Mác về ngoại thương

1.2. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

1.2.1. Xu hướng chung của quan hệ thương mại quốc tế

1.2.2. Những yếu tố tương đồng và khác biệt chi phối quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản

1.2.3. Những yếu tố truyền thống văn hoá, chính trị 5

 

5

5

8

12

13

13

 

13

22

 

33

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

2.1. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

2.1.1. Sự điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại hướng về châu Á của Nhật Bản

2.1.2. Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam

2.1.3. Tác động của chính sách đối với sự phát triển hoạt động thương mại hai nước Việt Nam và Nhật Bản

2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

2.2.1. Xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản

2.2.2. Nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

2.3.1. Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản góp phần tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam

2.3.2. Những hạn chế, bất cập còn đang tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản 38

38

 

38

 

45

50

 

53

53

59

64

 

64

 

66

 

CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN.

3.1. BỐI CẢNH CHÍNH TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

3.1.1. Nhu cầu và khả năng phát triển quan hệ thương mại của Việt Nam và Nhật Bản

3.1.2. Tác động khách quan của các yếu tố môi trường khu vực và toàn cầu đến quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản

3.1.3. Những hoạt động xúc tiến thương mại đã thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Nhật

3.2. NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

3.2.1. Đổi mới căn bản nội dung cơ chế, chính sách

3.2.2. Về sự định hướng phát triển một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý và có hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững

3.2.3. Sự định hướng về thị trường, thông tin và xúc tiến thương mại

3.2.4. Các biện pháp cần triển khai về cả hai phía Việt Nam - Nhật Bản 70

 

70

 

70

 

71

 

73

 

80

 

80

85

 

 

87

89

KẾT LUẬN 91

TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

 

doc96 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c ngoài của Nhật Bản bắt đầu tăng mạnh từ giữa thập niên 1980 chủ yếu là do đồng yên tăng giá nhanh kể từ sau hiệp ước Plaza, tháng 9-1985. Việc đồng yên tăng giá mạnh đã buộc các công ty Nhật Bản phải hướng các dòng vốn đầu tư của mình ra nước ngoài nhằm khai thác tối đa các lợi thế về lao động rẻ và thị trường tại chỗ ở các nước sở tại. Đặc biệt là khi tỷ suất lợi nhuận trên tổng số vốn bỏ ra tại các nước châu Âu và Bắc Mỹ giảm đi đáng kể, thì các công ty Nhật Bản đã hướng mạnh việc đầu tư vào châu á. Mặt khác, ngay cả khi đồng yên đã giảm giá so với đồng đô la, thì do sự trì trệ của nhu cầu trong nước cũng buộc các công ty Nhật Bản phải kiên trì và tích cực tìm kiếm các đối tác đầu tư ở nước ngoài. Thứ ba, động lực để các công ty Nhật Bản chuyển đổi chiến lược sang châu á còn do họ muốn thực hiện tốt sự dịch chuyển cơ cấu thị trường và công nghệ sang các nước đang theo đuổi chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu nhằm tạo dựng mô hình “đàn nhạn bay” mà Nhật Bản là “con nhạn” đầu đàn, có vị trí ngày càng chi phối tất cả các nền kinh tế châu á khác. Các công ty Nhật Bản cũng nhận thức rõ tiềm năng của các nước trong khu vực trong việc đáp ứng được những yêu cầu của họ. Đó là nguồn lao động rẻ, thị trường năng động có thể bán được sản phẩm với mức lợi nhuận cao, mua vật liệu và bán các thành phẩm với giá tương đối thấp, nguồn cung ứng dồi dào và ổn định. Thứ tư, cách thức tổ chức và quản lý của các công ty Nhật Bản mang phong cách á đông mà đặc trưng của nó là chủ nghĩa phường hội và quan hệ thân tộc là những thuộc tính rất dễ được các nước trong khu vực chấp nhận. Điểm tương đồng này cho thấy tính thích nghi cao hơn của các công ty Nhật Bản trong khu vực này so với thị trường Mỹ và EU, và do đó, Nhật Bản chủ trương phải dành lại được ảnh hưởng của mình ở châu á nơi mà họ có lợi thế hơn hẳn so với các nước Tây Âu và Mỹ. Trong những năm gần đây, sự tăng cường các hoạt động thương mại và đầu tư ở nước ngoài của các công ty Nhật Bản còn là kết quả tác động của một số nhân tố khác như: việc phi điều chỉnh kiểm soát ngoại hối và vốn đầu tư ở Nhật Bản đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động di chuyển vốn của các công ty ra nước ngoài. Trong một số ngành, các công ty Nhật Bản phải đẩy mạnh các hoạt động thương mại và đầu tư ở nước ngoài để đối phó với chính sách của Mỹ và EU buộc Nhật Bản phải hạn chế xuất khẩu sang các nước này; các công ty Nhật Bản đã có lợi thế cạnh tranh rất mạnh trên thế giới về một số sản phẩm công nghệ cao. Nhờ có sự đổi mới về quản lý theo hướng nhấn mạnh sự linh hoạt, chất lượng và hợp tác đã thúc đẩy các công ty Nhật Bản thâm nhập sâu hơn vào hệ thống sản xuất và dịch vụ của các quốc gia trong khu vực. Một số nội dung cơ bản trong chiến lược hướng về Châu á của Nhật Bản. Dưới tác động của những nhân tố như đã phân tích ở trên, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Nhật Bản trong khu vực châu á - Thái Bình Dương đặc biệt là Đông á, đã tăng lên rất đáng kể trong những năm 1990. Trên cơ sở của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập năm 1989 do đề nghị của Australia, Nhật Bản đã hết sức coi trọng tổ chức này và coi đây là mảnh đất chủ yếu để Nhật Bản có cơ hội phát huy tác dụng chủ đạo của mình. Vào những năm cuối của thập kỷ 90, hướng đi cơ bản của chiến lược đối ngoại của Nhật Bản đối với khu vực châu á - Thái Bình Dương,có thể nói một cách tổng quát là : thông qua hoạt động ngoại giao một cách tích cực, linh hoạt và có hiệu quả nhằm tạo ra một môi trường kinh tế và chính trị có lợi cho Nhật Bản ở khu vực, đặt cơ sở để Nhật Bản có thể trở thành một nước có vị trí quan trọng không chỉ về kinh tế mà còn về chính trị trên thế giới. Hướng đi này đã được cụ thể hoá thành một số nội dung chủ yếu như sau: Mở rộng viện trợ và quan hệ hợp tác kinh tế trong khu vực, đồng thời chú trọng ngoại giao chính trị, thực hiện chính sách đối ngoại toàn diện, nhiều tầng, nhiều nấc khác nhau. Duy trì và củng cố mối quan hệ Nhật - Mỹ theo hướng xây dựng một quan hệ bạn bè mới hướng tới thế kỷ thứ XXI. Coi Trung Quốc là đối tượng ngoại giao quan trọng, thường xuyên điều chỉnh chính sách đối ngoại giành thế chủ động trong quan hệ ngoại giao với nước này. Coi đối tượng phòng thủ quan trọng ở khu vực Đông Bắc á là Nga và Bắc Triều Tiên, thực hiện chính sách vừa cảnh giác vừa cải thiện quan hệ với họ. Coi Đông Nam á là khu vực chiến lược quan trọng cần được ra sức mở rộng các quan hệ một cách toàn diện cả về kinh tế lẫn chính trị và an ninh Trước mắt, do quan hệ giữa các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ, với các quốc gia đang phát triển ở khu vực, trên những vấn đề then chốt vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất đồng, Nhật Bản chủ trương đóng vai trò là người trung gian trong việc tháo gỡ những trở ngại này. Chính vì lẽ đó, việc tự do hoá mậu dịch và đầu tư trong nội bộ khu vực là vô cùng quan trọng, và APEC cần trở thành hạt nhân của sự hợp tác kinh tế toàn khu vực. Nhật Bản dựa vào thực lực kinh tế hùng hậu và phương thức viện trợ chủ động của mình đang phát huy tác dụng lãnh đạo trong APEC nhàm tạo lập một kế hoạch cụ thể cho việc tự do hoá mậu dịch trong khu vực trước năm 2010. Trong những năm 1990, hoạt động kinh tế đối ngoại của Nhật Bản trong khu vực được thể hiện trên một số lĩnh vực cơ bản như sau: - Tăng cường hơn nữa các quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thương mại. Thông qua việc tự do hoá thị trường trong nước bằng cách dỡ bỏ hàng rào mậu dịch và phi mậu dịch để hàng hoá các nước có thể xâm nhập vào thị trường Nhật Bản, đồng thời cung cấp và trao đổi những thông tin cần thiết về thương mại và thị trường với các nước và các tổ chức trong khu vực. - Tăng cường đầu tư vào các nước trong khu vực, đặc biệt là vào dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trong các nước đang phát triển, đồng thời cung cấp các khoản viện trợ có hiệu quả phù hợp với nhu cầu thực tế của các nước nhận viện trợ. Có thể khẳng định rằng viện trợ tài chính cùng với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nhiều nước trong khu vực. Đặc biệt là khi đầu tư của Nhật Bản vào Mỹ và EU giảm đi thì đầu tư của Nhật vào các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương vẫn tiếp tục tăng lên, đặc biệt là NIEs, ASEAN và Trung Quốc. - Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo các kỹ thuật viên và các nhà khoa học nhằm từng bước chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển trong khu vực. - Thúc đẩy sự lưu thông mạnh mẽ của các dòng vốn và đóng vai trò tích cực trong việc khuyến khích sự hợp tác trong lĩnh vực tài chính của các nước trong khu vực. Là nước có nguồn dự trữ ngoại tệ lớn, Nhật Bản có thể thúc đẩy các tổ chức như Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển châu á đẩy mạnh việc cung cấp vốn cho các nước trong khu vực, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty và ngân hàng ở châu á phát hành tín phiếu hoặc tham gia vào thị trường chứng khoán Nhật Bản. Ngoài ra, vai trò của Nhật Bản trên các lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao cũng ngày càng gia tăng trong khu vực nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Châu á - Thái Bình Dương là một khu vực có lãnh thổ rộng lớn, dân số đông và tài nguyên giàu có. Các quốc gia trong khu vực này đang ở trong các giai đoạn khác nhau của sự phát triển kinh tế với những nét khác biệt lớn về hệ thống chính trị, các đặc trưng dân tộc và truyền thống văn hoá. Mặc dù nhiều nước trong khu vực vẫn còn đang trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu về kinh tế, nhưng tình hình ở châu á trong những năm 1990 là thuận lợi cho hoà bình, phát triển và thịnh vượng; tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều nước, trừ các năm khủng hoảng kinh tế tài chính (1997-1998) của một số nước, nói chung là cao hơn nhiều so với các nước phương Tây, một số nước châu á đã và đang ở giai đoạn “cất cánh”; thêm vào đó, tình hình chính trị ở châu á cũng khá ổn định. Trong những điều kiện thuận lợi như vậy, là một cường quốc kinh tế hàng đầu trong khu vực, vai trò của Nhật Bản trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, duy trì hoà bình và ổn định trong khu vực này đang ngày càng trở nên hết sức to lớn. 2.1.2. Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã có một bước chuyển biến quan trọng. Từ một nền kinh tế gần như khép kín dưới chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, Việt Nam đã chuyển sang phát triển một nền kinh tế mở, tăng cường các quan hệ và giao lưu kinh tế với tất cả các nước, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Điều này đã có tác động rất lớn đến các quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Từ đầu thập kỷ 80, Việt Nam đã có một loạt các chính sách và biện pháp cải tiến hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam chỉ thực sự diễn ra một cách căn bản kể từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20. Có nhiều lý do dẫn đến sự đổi mới căn bản này, trong đó, ngoài những lý do về tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực như đã đề cập đến ở các phần trên, còn một số lý do xuất phát từ tình hình thực tế của Việt Nam có thể kể đến như. Những điều kiện cho một cuộc cải cách kinh tế theo hướng thị trường đã chín muồi, điều này vừa tạo ra tiền đề vừa đòi hỏi phải cải tổ lĩnh vực kinh tế đối ngoại vì nền kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay tự nó đồng thời cũng có nghĩa là một nền kinh tế mở. Việc giảm dần và chấm dứt viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu cũ đòi hỏi Việt Nam phải tìm kiếm những bạn hàng và thị trường mới. Nhận thức mới của Đảng Cộng Sản và chính phủ Việt Nam về xu thế tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Một số nội dung chủ yếu về sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam: - Chính sách kinh tế gắn liền và phục vụ cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế mở: Một trong những điểm mới có tính chủ đạo trong chính sách kinh tế của Việt Nam đã được khẳng định trong các văn bản chính thức là: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”4; “Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp”5 Những đổi mới về chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã được khẳng định về mặt pháp lý và được thể hiện trong hiến pháp năm 1992. Một số điều khoản trong Hiến pháp này đã chỉ rõ: “Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước” (Điều 24): “Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, phát luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước” (Điều 25) Về nội dung, những đổi mới cơ bản trong chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam được thể hiện ở những điểm sau đây: - Xoá bỏ việc quy định tỉ giá kết toán nội bộ. Xoá bỏ bao cấp và bù lỗ cho kinh doanh xuất - nhập khẩu. - Ngân hàng ngoại thương kinh doanh mua, bán ngoại tệ với mọi đối tượng. thuộc các thành phần kinh tế. Xoá bỏ tình trạng độc quyền và tính cửa quyền trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. 4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc giá, Hà nội, 1996, tr ang 85. 5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr ang 90-91. - Tăng cường sự quản lý thống nhất và chặt chẽ của nhà nước đối với mọi hoạt động kinh tế đối ngoại bằng luật pháp và chính sách. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong việc xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuê đất, giải phóng mặt bằng, lắp đặt điện, nước, nhập máy móc thiết bị cho sản xuất. Theo các chuyên gia kinh tế, kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) vào năm 1996 đến nay, trong hệ thống pháp luật của Việt Nam đã xuất hiện nhiều bộ luật mới, nhiều quyết định mới của các cơ quan chính phủ có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lĩnh vực thu hút FDI. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trong việc thống nhất và cụ thế hoá các quy định pháp lý, cũng còn không ít những quy định vênh nhau, trái chiều hoặc hạn chế lẫn nhau khiến cho môi trường pháp lý đầu tư thiếu sự ổn định và nhất quán. Chính vì thế, để chủ động hội nhập quốc tế vừa có hiệu quả, bảo đảm chủ quyền quốc gia, vừa góp phần tích cực trong phân công lao động quốc tế, Việt Nam còn cần phải tiến hành sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh hơn nữa luật đầu tư nước ngoài. Mặc dù năm 2000, Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài đã được bổ sung và sửa đổi, song từ thực tiễn kinh nghiệm việc thu hút FDI của Việt Nam, các chuyên gia kinh tế và pháp luật cho rằng vấn đề hàng đầu hiện nay là tìm ra những giải pháp nhằm giảm chi phí đầu tư để có thể phát huy được những lợi thế so sánh của Việt Nam, làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam có sức hấp dẫn không thua kém so với các nước và thu hẹp một bước khoảng cách giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đó là danh mục các lĩnh vực đầu tư và địa bàn khuyến khích đầu tư của Việt Nam sẽ được mở rộng hơn nữa, và có nhiều chính sách ưu đãi thiết thực, có sức hấp dẫn cao đối với những dự án cần khuyến khích đầu tư. Những vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng, thế chấp quyền sử dụng đất, kinh doanh bất động sản, về ngoại hối và hỗ trợ tín dụng, về thuế, về chuyển giao công nghệ, môi trường, về chuyển đổi hình thức đầu tư, tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Thu hút các nguồn vốn tài trợ phát triển, chúng ta đã có những chính sách và biện pháp tích cực để giành được các khoản vốn lớn và phù hợp với yêu cầu của ta. Đồng thời chúng ta cũng đã tiến hành các khâu quy hoạch và luận chứng kinh tế, chuẩn bị tốt vốn đối ứng cũng như việc cung cấp những yếu tố sản xuất khác ở trong nước như: đất đai, nhân lực, nguyên vật liệu, thiết bị trong nước chế tạo được… Do hoạt động tích cực tại Liên Hợp Quốc, hợp tác chặt chẽ và sử dụng tốt viện trợ của các tổ chức chuyên môn thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, chúng ta đã tranh thủ được sự viện trợ quan trọng của Nhật Bản. Việt Nam là một trong hai nước được đánh giá là thực hiện tốt viện trợ quốc tế và được chọn làm mẫu mực cho các nước khác. - Tích cực chuẩn bị và chủ động từng bước tham gia tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế với khu vực trên thế giới. Mặc dù tình hình kinh tế thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, nhất là trong những năm gần đây, chúng ta vẫn từng bước thực hiện chủ trương hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới theo nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, hội nhập từng bước vững chắc, khai thác tốt các nguồn lực bên trong và bên ngoài, tận dụng các tiềm năng của phân công lao động quốc tế và các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi. Đảng ta đã sớm nhận thức được xu thế tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế và đã có chủ trương hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới cũng như hình thành một số quan điểm cơ bản về mặt lý luận và thực tiễn. Đại hội VIII của Đảng đã xác định : “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài ”. Để thực hiện chủ trương hội nhập khu vực và quốc tế, chúng ta đã tham gia tích cực mọi hoạt động của ASEAN, từng bước thực hiện các cam kết với AFTA. Trong lĩnh vực xã hội như xoá đói, giảm nghèo, hợp tác văn hoá, phong trào phụ nữ, thanh niên, nước ta đã có nhiều đóng góp cụ thể. Ta cũng đã đưa ra sáng kiến lập dự án phát triển các vùng nghèo liên quốc gia Việt Nam- Lào- Campuchia dọc hành lang Đông - Tây thuộc tiểu vùng sông Mêcông, và đã được nhiều nước tán thành ủng hộ. Tiếp theo, việc nước ta tham gia ASEAN và AFTA, trở thành thành viên chính thức của APEC tháng 11/1998 đựơc tổ chức tại Malaixia, là một bước tiến mới trong quá trình hội nhập, thể hiện vai trò ngày càng tăng của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới. Trong năm 1998, nước ta đã tiến hành hai vòng đàm phán để chuẩn bị cho việc tham gia WTO và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Ta và các nước thành viên WTO đã bước đầu thống nhất lịch trình các bước đi trong đàm phán. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta cần sớm xây dựng được một chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, gắn việc tham gia AFTA, APEC và hợp tác á- Âu (ASEM) với việc tham gia WTO, xác định rõ lộ trình, các bước đi và mức độ cam kết với từng tổ chức, cụ thể hoá kế hoạch và chuyển dịch cơ cấu, đặc biệt là phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bố trí, đào tạo cán bộ có đủ năng lực và kiến thức để đàm phán và thực hiện thành công quá trình hội nhập. Điều đặc biệt quan trọng là nâng cao nhận thức của các nhà doanh nghiệp Việt Nam về các cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập, những cam kết ta phải thực hiện đối với từng tổ chức, thời gian thực hiện để từ đó mỗi doanh nghiệp tích cực, chủ động tổ chức sản xuất, kinh doanh sao cho có hiệu quả. Việc chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có nghĩa là coi thị trường bên ngoài là một động lực quan trọng cho sự phát triển, đặc biệt là khi sức mua của thị trường nội địa còn hết sức nhỏ bé, nhằm thu hút các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời phát huy được những lợi thế so sánh của đất nước về các nguồn tài nguyên và nhân lực. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 của BCHTW Đảng Cộng Sản Việt Nam (khoá VII) đã chỉ rõ: “Đổi mới cơ cấu xuất nhập khẩu, tạo ra những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn theo hướng khai thác các lợi thế so sánh, nhất là lợi thế từ nguồn nhân lực, thực hiện chính sách tỉ giá hối đoái hợp lý để khuyến khích mạnh xuất khẩu, điều tiết nhập khẩu có hiệu quả, cải tiến các thủ tục xuất - nhập khẩu, nhất là về cấp giấy phép… Phát triển các tổ chức làm dịch vụ tiếp thị, các hiệp hội xuất nhập khẩu. Từng bước tham gia vào các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”. Trong hệ thống quản lý kinh tế của nhà nước, chúng ta đã thực hiện việc thay thế nguyên tắc nhà nước độc quyền các quan hệ kinh tế đối ngoại bằng việc cho phép các đơn vị sản xuất kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế tham gia hợp tác kinh tế và buôn bán với các bạn hàng nước ngoài, đa phương hoá thị trường nhằm mở rộng các quan hệ buôn bán và đầu tư với tất cả các nước trên thế giới, trong đó khu vực châu á - Thái Bình Dương được coi là khu vực có vị trí cực kỳ quan trọng. Đồng thời, chúng ta cũng từng bước tự do hoá thị trường trong nước bằng các biện pháp xoá bỏ hạn ngạch, giảm thủ tục hành chính phiền hà và thực hiện một chế độ thuế quan thống nhất theo các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Ngoài danh mục cấm xuất - nhập những mặt hàng còn thuộc diện quản lý của nhà nước, các mặt hàng còn lại được tự do xuất khẩu và nhập khẩu theo các quy định của Luật thuế xuất - nhập khẩu. Như vậy, có thể nhận thấy rằng nước ta đã và đang từng bước chuyển từ cơ chế quản lý theo mô hình nhà nước độc quyền về các quan hệ kinh tế đối ngoại sang cơ chế nhà nước thống nhất quản lý kinh tế đối ngoại bằng chính sách, pháp luật và kế hoạch theo hướng xây dựng và phát triển một nền kinh tế mở. Trong quá trình đó, chúng ta đã và đang thực hiện xoá bỏ tính độc quyền, cửa quyền của các công ty và các doanh nghiệp được quyền kinh doanh đối ngoại, phát triển nền kinh tế mở với nhiều thành phần kinh tế tham gia, khuyến khích mọi thành phần tham gia kinh tế đối ngoại, đa dạng hoá các chủ thể kinh doanh đối ngoại. Tuy nhiên, việc đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại đối với Việt Nam vẫn còn là vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian để hoàn thiện. - Tăng cường khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) bằng những biện pháp và chính sách thích hợp. Để làm được điều này, chúng ta đã chủ trương xây dựng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi có các chính sách, luật lệ, quy chế rõ ràng và nhất quán, thực hiện nghiêm minh để mọi người yên tâm đầu tư phát triển sản xuất và kinh doanh 2.1.3. Tác động của chính sách đối với sự phát triển hoạt động thương mại hai nước Việt Nam và Nhật Bản - Xét về phía Nhật Bản : Trong một thời gian dài, Mỹ đã luôn là thị trường lớn duy nhất thu hút các sản phẩm xuất khẩu của khu vực châu á- Thái Bình Dương nói chung và nhóm NIEs, ASEAN nói riêng. Nhưng từ năm 80 trở lại đây, tình hình đó đã giảm mạnh gây bất lợi cho Mỹ vì xuất hiện đối tượng cạnh tranh mới là Nhật Bản. Thực tiễn cho thấy, Nhật Bản đang dần trở thành thị trường tiêu thụ hàng hoá chủ yếu của các nước châu á -Thái Bình Dương mà trước hết là các NIEs và ASEAN. Không những thế NIEs và các nước ASEAN đã và đang nổi lên với vai trò như là một thị trường tiêu thụ quan trọng nhiều loại hàng hoá của khu vực. Trong đó, chủ yếu là hàng Nhật, hàng Trung Quốc và hàng hoá trao đổi nội bộ giữa các nước. Và ngược lại, tại thị trường Nhật từ những năm 90 lại đây, đồng yên tăng giá do áp lực của nhu cầu tiêu dùng trong nước đối với nhiều loại hàng hoá ngày càng đa dạng hơn về chất lượng, chủng loại và kể cả về giá cả, và do áp lực của làn sóng tự do hoá thương mại toàn cầu, nên Nhật Bản đã buộc phải mở rộng thị trường. Do đó trên thị trường Nhật hiện nay đã xuất hiện nhiều loại hàng hoá của NIEs và ASEAN và Trung Quốc. Người Nhật vẫn khó tính trong tiêu dùng nhưng giờ họ đã chấp nhận được hàng hoá của các nước này do sự đa dạng và giá cả rẻ hơn nhiều so với hàng hoá cùng chủng loại nhưng chất lượng cũng tỏ ra là phù hợp. Thực trạng này đã phản ánh khá rõ đối với các mặt hàng chế tạo do Nhật Bản nhập khẩu từ các NIEs và ASEAN, trong đó phần lớn hàng dệt, may mặc và các công nghệ phẩm tiêu dùng khác, riêng với các nước ASEAN còn có các sản phẩm kim loại mầu cũng là loại hàng xuất khẩu chủ lực được đưa sang Nhật Bản. Cụ thể, hàng chế tạo nhập khẩu đã tăng từ 31,0% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 1985 lên 49,0% năm 1988 và 52,1% năm 1995, trong đó chỉ tính riêng hàng nhập khẩu từ các NIEs và ASEAN và có cả của Trung Quốc là 46,4%, 53,3% và 57,8% năm 1988 và 48,2%, 54,1% và 58,2% năm 1995. Đối với việc nhập khẩu các hàng máy móc từ NIEs và ASEAN vào Nhật Bản cũng tăng nhanh đáng kể, năm 1988 đã tăng với tốc độ 57,1% và 60,1% và đến năm 1995 đã tăng với tốc độ tương ứng là 38,2% và 42,1%. Trong hoạt động xuất khẩu của Nhật Bản đối với NIEs và ASEAN tình hình cũng xảy ra tương tự, nghĩa là xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước này cũng có động thái gia tăng liên tục và đều tăng nhanh hơn so với xuất khẩu của Mỹ vào các nước này. Tính đến năm 1995, xuất khẩu của Nhật Bản vào khu vực này tăng liên tục 13 năm liền. Trong khi nhập khẩu tăng 9 năm liền. Đây không phải là điều dễ xảy ra đối với các khu vực khác trên thế giới. Thêo Bộ Tài Chính Nhật Bản (MOF), trong năm tài chính 1995-1996, xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước Trung Quốc, Malaixia và Thái Lan lên tới 192,78 tỷ USD, trong khi xuất khẩu của Nhật cùng năm đó sang Mỹ và châu Âu là 188,8 tỷ USD. Và nếu năm 1989 là 93,9 tỷ USD chiếm 34% nhưng đến năm 1995 mặc dù tăng lên tới 122 tỷ USD nhưng chỉ chiếm 27,5% trong tổng giá trị xuất khẩu. Về nhập khẩu cũng có những biến đổi tương tự. Trước thập niên 90, nhập khẩu của Nhật Bản từ Mỹ và châu Âu còn trong xu hướng tăng lên qua từng năm, nhưng vài năm gần đây và hiện nay đã giảm mạnh. Năm 1989, nhập khẩu của Nhật Bản từ Mỹ là 48,3 tỷ USD, chiếm 23% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng năm 1995 mặc dù lượng giá trị tuyệt đối tăng lên đến 75,9 tỷ USD nhưng tỷ phần trong tổng giá trị nhập khẩu của Nhật Bản chỉ còn chiếm khoảng 22%. Trong khi đó, cùng kỳ tương ứng với khu vực châu á mà các bạn hàng Trung Quốc, NIEs và ASEAN diễn biến như sau: năm 1989 là 64,9 tỷ USD chiếm 31% trong tổng giá trị nhập khẩu, vượt xa lượng hàng nhập khẩu từ Mỹ. Lý giải về động thái phát triển thương mại này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, song không thể không nói đến một nguyên nhân rất quan trọng đó là thực lực của NIEs và ASEAN đã đạt đến vị thế “đáng nể” mà trong đó chắc chắn có những tác động tích cực từ vai trò Nhật Bản thông qua các quan hệ hợp tác đầu tư và viện trợ phát triển chính thức (ODA). - Xét về phía Việt Nam : Kể từ khi công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986, quá trình cải cách kinh tế toàn diện của Việt Nam đã thực sự đem đến một giai đoạn đổi thay sâu sắc về môi trường chính sách và định chế phục vụ cho phát triển kinh tế. Trong số các chính sách kinh tế đã đem lại những thành tựu vượt bậc của Việt Nam, nhóm chính sách tác động đến thương mại quốc tế đã đóng một vai trò không nhỏ, nếu không nói là rất quan trọng. Hoạt động ngoạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.DOC
Tài liệu liên quan