Luận văn Phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn lưu động và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp có nghĩa là sử dụng các biện pháp tổ chức kỹ thuật làm tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, giảm số ngày của kỳ luân chuyển bình quân, tiết kiệm tương đối vốn lưu động và nâng cao doanh lợi của vốn lưu động. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, việc tách riêng phần vốn lưu động để đánh giá hiệu quả sử dụng của nó chưa thể xem như là việc làm hoàn hảo.

 

doc69 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4462 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn lưu động và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thường trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải. Trong cơ chế thịi trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia vào hoạt động, cùng cạnh tranh, khi thị trường tiêu thụ không ổn định, sức mua của thị trường có hạn càng làm tăng thêm khả năng rủi ro của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải rủi ro do thiên nhiên gây nên như: hoả hoạn, lũ lụt… mà doanh nghiệp khó có thể lường trước được. Ngoài các nhân tố khách quan trên còn có rất nhiều các nhân tố chủ quan do chính bản thân doanh nghiệp tạo nên, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng như: - Do xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn sản xuất kinh doanh, đều ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng của doanh nghiệp. - Lựa chọn phương án đầu tư là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ chất lượng tốt, mẫu mã đẹp … được thị trường chấp nhận thì tất yếu hiệu quả thu về sẽ lớn và ngược lại. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng vốn ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. - Do cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý cũng như nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Bởi vì vốn đầu tư vào các tài sản không cần sử dụng chiếm tỷ trọng lớn thì không những nó không phát huy tác dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn bj hao hụt, mất mát dần làm hiệu quả sử dụng vốn giảm. - Do việc sử dụng lãng phí vốn, nhất là vốn lưu động trong quá trình mua sắm, dự trữ: mua các loại vật tư không phù hợp với quy trình sản xuất, không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quy định, không tận dụng hết được các loại phế liệu, phế phẩm cũng như tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Do trình độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, hoạt động sản xuất kinh doanh thu lỗ kéo dài làm cho vốn bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng bị suy giảm. 2.2.3- Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Khi nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn lưu động chủ yếu ta đánh giá trên góc độ: hiệu suất sử dụng đồng vốn, nghĩa là trong kế hoạch một đồng vốn tạo ra bao nhiêu đồng giá trị hàng hoá, bao nhiêu đồng lợi nhuận và hiệu suất sử dụng cảu nó. a. Chỉ tiêu trực tiếp: là những chỉ tiêu phản ánh khă năng sản xuất của vốn lưu động. Một đồng vốn có khả năng đem lại nhiều đồng lợi nhuận thì việc quản lý và sử dụng vốn đó được coi là có hiệu quả. Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra thu được mấy đồng doanh thu thuần. Sức sinh lợi của vốn lưu động, cho một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hai chỉ tiêu này càng cao càng tốt và chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. b. Chỉ tiêu gián tiếp : là những chỉ tiêu góp phần tăng khả năng sinh lợi của vốn lưu động một cách gián tiếp. * Chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn lưu động trong kỳ ( thường là 1 năm ) : VN công thức được tính như sau: ( vòng/kỳ) Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ càng lớn, trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao. * Kỳ luân chuyển bình quân NV ( số ngày trung bình của một vòng luân chuyển ) (ngày/vòng) Nếu kỳ tính toán là một năm thì: ( ngày/vòng ) Số dư bình quân vốn lưu động ( Vlđ) được xác định theo công thức: ở đây : số dư bình quân vốn lưu động trong năm ( đ) V1, V2,…V12 tổng số vốn lưu động ở đầu mỗi tháng ( đ) VK vốn lưu động ở mỗi năm. Thời điểm 31/12. Như vậy : ( đ) Tổng mức luân chuyển của toàn bộ doanh nghiệp là tổng giá trị sản phẩm tiêu thụ trong năm. Tổng mức luân chuyển của toàn Xí nghiệp cũng có thể chia thành ba bộ phận: - Mức luân chuyển riêng của giai đoạn cung cấp, là tổng lượng tiền đã bỏ vào sản xuất kinh doanh ( giá trị nguyên vật liệu … ) - Mức luân chuyển riêng của giai đoạn sản xuất. Đó là lượng giá trị thành phẩm ( cả nửa thành phẩm đã bán ra ) đã nhập kho tiêu thụ, tính theo giá thành sản phẩm. - Mức luân chuyển của giai đoạn tiêu thụ : đó là tổng giá trị sản phẩm đã tiêu thụ, giống như mức luân chuyển toàn doanh nghiệp. Hai chỉ tiêu VN và NV có thể tính chung cho toàn bộ Xí nghiệp hoặc có thể cho từng khâu cung cấp sản xuất và tiêu thụ, nhằm qui định nhiệm vụ và đánh giá kết quả sử dụng vốn riêng của từng khâu và toàn bộ Xí nghiệp. Điều đó cũng giúp cho việc hạch toán kinh tế nội bộ Xí nghiệp. * Chỉ tiêu doanh lợi vốn lưu động DVLĐ Chỉ tiêu này thể hiện: cứ sử dụng 100đ vốn lưu động, doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. * Chỉ tiêu mức độ đảm nhận của vốn lưu động ( Mđ): Chỉ tiêu " mức đảm nhận của vốn lưu động" chỉ rõ để có 100đ doanh thu thuần phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn lưu động. Ngoài ra để đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động trong kinh doanh không thể không nói đến hệ số khả năng thanh toán ( lần ) Hệ số này càng cao càng chứng tỏ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao thì điều này lại không tốt vì nó phản ánh sự việc là doanh nghiệp đầu tư quá mức vào tài sản lưu động so với nhu cầu của doanh nghiệp và tài sản lưu động dư thừa không tạo nên doanh thu. Do vậy nếu doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vốn của mình vào tài sản lưu động, số vốn đó sẽ không được sử dụng có hiệu quả. Hệ số thanh toán ngắn hạn chấp nhận được với hệ số k = 2. Nhưng để đánh giá hệ số thanh toán ngắn hạn của một doanh nghiệp tốt hay xấu thì ngoài việc đưa vào hệ số k còn phải xem xét 3 yếu tố sau: + Bản chất ngành kinh doanh + Cơ cấu tài sản lưu động + Hệ số quay vòng của một số loại tài sản lưu động như: hệ số quay vòng các khoản phải thu, hệ số quay vòng hàng tồn kho và hệ só quay vòng vốn lưu động. ( lần ) Hệ số thanh toán nhanh thể hiện giữa các loại tài sản lưu động có khả năng chuyển nhanh thành tiền để thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn. Các loại tài sản được sếp vào loại chuyển nhanh thành tiền gồm : các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu của khách hàng. Còn hàng tồn kho và các khoản ứng trước không được xếp vào loại tài sản lưu động có khả năng thành tiền. Hệ số thanh toán nhanh là một tiêu chuẩn đánh giá khắt khe hơn đối với khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn so với hệ số thanh toán ngắn hạn. 2.2.4- Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Phương pháp so sánh: so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu thế thay đổi, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. So sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch để thấy được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu trong doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp so với toàn ngành. So sánh theo chiều dọc hay chiều ngang các báo cáo tài chính. Phương pháp phân tích tỷ lệ: phương pháp này dựa vào ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc cần phải xác định được các ngưỡng, các định mức để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu. Ngoài ra, có thể kết hợp hai phương pháp trên cùng một lúc để đánh giá các chỉ tiêu nhằm nâng cao tính chính xác và hợp lý. 2.3- Các phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp : Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp có nghĩa là sử dụng các biện pháp tổ chức kỹ thuật làm tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, giảm số ngày của kỳ luân chuyển bình quân, tiết kiệm tương đối vốn lưu động và nâng cao doanh lợi của vốn lưu động. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, việc tách riêng phần vốn lưu động để đánh giá hiệu quả sử dụng của nó chưa thể xem như là việc làm hoàn hảo. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có một số phương pháp: * Quản lý vốn lưu động khoa học và hiệu quả. Nếu quản lý vốn lưu động không tốt, hoạch định và kiểm soát vốn lưu động không chặt chẽ thì sẽ dẫn đến nguy cơ làm ăn thu lỗ, thâm chí doanh nghiệp sẽ bị phá sản, ngược lại nếu quản lý vốn lưu động tốt thì các doanh nghiệp sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tạo đà phát triển mạnh mẽ. Để quản lý vốn lưu động khoa học và hiệu quả thì doanh nghiệp cần phải áp dụng các phương pháp quản lý vốn lưu động phù hợp nhất với đặc điểm của từng khoản mục cấu thành vốn lưu động và hoạt động quản lý gồm các bội dung chính sau: + Lập kế hoạch xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh huy động quá nhiều không cần thiết sẽ dẫn tới lãng phí và đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Đồng thời tránh được tình trạng thiếu vốn lưu động làm gián đoạn sản xuất. Trên cơ sở này, doanh nghiệp chủ động tổ chức huy động vốn lưu động một cách kipự thời và hiệu quả nhất. Thực chất của nội dung quản lý là phải xác định lượng huy động tối ưu của từng khoản mục cấu thành tài sản lưu động như: Lượng tiền mặt tối ưu Lượng dự trữ tồn kho tối ưu Quy mô khoản phải thu hợp lý + Xác định và duy trì cơ cấu vốn lưu động tối ưu để tạo nền tảng tài chính vững chắc và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Doanh nghiệp cần điều chỉnh nhu cầu của từng khoản mục cấu thành của tài sản lưu động, để tạo ra mối tương quan hợp lý về tỷ trọng trong tổng tài sản lưu động. * Lựa chọn nguồn tài trợ vốn lưu động : Doanh nghiệp cần lựa chọn nguồn tài trợ vốn lưu động thích hợp theo hướng tích cực khai thác triệt để các nguồn vốn lưu động bên trong doanh nghiệp vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn lưu động một cách chủ động, vừa giảm được chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp, tránh tình trạng vốn tồn tại dưới hình thái tài sản không cần sử dụng, vật tư hàng hoá kém phẩm chất… mà doanh nghiệp phải đi vay để duy trì sản xuất với lãi xuất cao và phải chịu sự giám sát của chủ nợ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Tăng khả năng sinh lời từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để nâng cao khả năng sinh lời của vốn lưu động: Có nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận thu được như: + Tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất kinh doanh, tránh lãng phí. + Nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm, tạo ra sự đa dạng về sản phẩm mẫu mã và thường xuyên tạo sự đổi mới về mọi mặt gây hấp dẫn khách hàng. + Mở rộng thị trường kinh doanh thông qua việc thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng đối tượng khách hàng phục vụ. + Tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. + Thực hiện tốt các hoạt động xúc tiến hỗn hợp như: quảng cáo, khuyến mại… Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi áp dụng trong thực tế, các doanh nghiệp phải áp dụng linh hoạt các biện pháp trên sao cho phù hợp nhất với điều kiện và đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của mình. Phần III Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông 3.1- Phân tích khái quát về cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp: Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp được thể hiện quan bảng cân đối kế toán của Xí nghiệp qua các năm. - Phần tài sản bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. + Xét về mặt pháp lý tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng gắn với mục đích thu được các khoản lợi trong tương lai. + Xét về mặt kinh tế các chỉ tiêu thuộc phần tài sản của bảng cân đối kế toán thể hiện vốn của Xí nghiệp có ở thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Dựa vào chỉ tiêu phản ánh trong phần tài sản của bảng cân đối kế toán nhà quản trị có thể đánh giá khái quát quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Phần nguồn vốn phản ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp bao gồm: Công nợ và Vốn chủ sở hữu + Xét về mặt pháp lý, đây là chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất của doanh nghiệp đối với đối tượng cung cấp vốn cho doanh nghiệp (Nhà nước, ngân hàng, các cổ đông các bên liên doanh). Hay nói cách khác các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, về số tài sản đã hình thành bằng vốn vay ngân hàng, vốn vay của các đối tượng khác, cũng như trách nhiệm thanh toán các khoản nợ với người lao động, người cung cấp với Nhà nước. + Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần nguồn vốn của bảng cân đối kế toán thể hiện các nguồn hình thành tài sản mà doanh nghiệp hiện có. Căn cứ vào các chỉ tiêu phản ánh ở phần nguồn vốn, nhà quản trị có thể biết được tỉ lệ kết cấu của từng loại nguồn vốn trong tổng nguồn vốn hiện có. Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp trong 3 năm qua Chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch ( 1999 - 2000) Chênh lệch ( 2000 - 2001) 1000 đồng % 1000 đồng % 1000 đồng % ± % ± % I. Tài sản 28.484.262 100 88.892.956 100 96.700.000 100 60.408.694 212.1 7.807.044 8.8 1.Tài sản lưu động 27.196.542 95.5 40.433.379 45.5 53.000.000 54.8 13.236.837 48.7 12.566.620 31.1 2.Tài sản cố định 1.287.720 4.5 48.459.577 54.5 43.700.000 45.2 47.171.857 3663 -4.759.577 9.8 II. Nguồn vốn 28.484.262 100 88.892.956 100 96.700.000 100 60.408.694 212.1 7.807.044 8.8 1. Nợ phải trả 28.074.000 98.5 45.087.030 50.7 52.500.000 54.3 17.013.030 60.6 7.412.970 16.4 2. Vốn CSH 410.262 1.5 43.805.487 49.3 44.200.000 45.7 43.395.225 10577 394.513 0.9 (Nguồn số liệu trích trong bẳng cân đối kế toán năm 1999, 2000,2001 ) Qua bảng tóm tắt của bảng cân đôi kế toán trong 3 năm qua 1999, 2000, 2001 cho ta thấy : tổng tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp tăng lên một cách rõ rệt. Cho thấy Xí nghiệp đang có những nỗ lực trong việc huy động vốn để đảm bảo cho nhu cầu tăng quy mô tài sản sử dụng. Phần tài sản của Xí nghiệp cho thấy trong năm 1999 sự chênh lệch giữa tài sản cố định và tài sản lưu động là rất lớn. Tài sản lưu động chiếm tới 95.5% trong tổng tài sản trong khi đó tài sản cố định chỉ chiếm tỷ trong thấp có 4.5% trong tổng tài sản. Năm 2000 và 2001 Xí nghiệp đã có những biến chuyển tích cực trong cơ cấu tài sản, tỷ trọng giữa tài sản lưu động và tài sản cố định của Xí nghiệp đã dao động bình quân. Phần nguồn vốn, năm 1999 nợ phải trả của Xí nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn 98.5% trên tổng nguồn vốn trong khi vốn chủ sở hữu chỉ chiếm có 1.5% cho thấy Xí nghiệp đang vay nợ rất nhiều và khả năng rủi ro là rất cao. Tuy nhiên đến năm 2000 thì nợ phải trả của Xí nghiệp giảm nhanh xuống chỉ còn 50.7% đồng thời nguồn vốn chủ sở hữu của Xí nghiệp tăng vọt từ năm 1999 là 410.262.000 đ nhưng đến năm 2000 đã là 43.805.487.000 đ ( chiếm 49.3% trên tổng nguồn vốn ). Năm 2001 nợ phải trả của Xí nghiệp tăng nhưng bên cạnh đó vốn chủ sở hữu cũng tăng theo. Điều này chứng tỏ quy mô vốn đã mở rộng, Xí nghiệp chú trọng đến việc đầu tư tài sản nói chung và máy móc thiết bị nói riêng, đồng thời khả năng huy động vốn trong kỳ của doanh nghiệp cũng tăng lên. Như vậy có nghĩa là hoạt động sản xuất Xí nghiệp có hướng đi lên. Như vậy, để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định thì Xí nghiệp cần phải thường xuyên huy động các nguồn lực từ bên ngoài. Điều này dẫn đến nợ vay quá lớn, đó sẽ là gánh nặng cho Xí nghiệp trong việc trả nợ vay và lãi vay. Trong những năm gần đây, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của Xí nghiệp đang dần tăng đó là dấu hiệu rất tốt để cho Xí nghiệp tạo thế chủ động về tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.2- Phân tích cơ cấu nguồn vốn và nguồn hình thành vốn của Xí nghiệp: Cơ cấu vốn của có tác dụng rất lớn đến quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Để xác định được cơ cấu nguồn vốn Xí nghiệp sử dụng trong kỳ hoạt động ta tiến hành so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn giữa cuối năm và đầu năm. Qua sự so sánh này có thể cho thấy được sự biến động về quy mô, khả năng huy động vốncủa Xí nghiệp. Và từ đó cho phép chúng ta đánh giá thực chất quá trình hoạt sản xuất kinh doanh. Khả năng huy động vốn là khả năng tìm kiếm vốn của Xí nghiệp từ trong nội bộ Xí nghiệp, hoặc từ bên ngoài. Quá trình huy đông vốn là một khâu quan trọng nhằm đảm bảo luân chuyển nguồn vốn hợp lý cho sản xuất, tránh hiện tượng thiếu vốn và ứ đọng vốn. Việc huy động vốn có thể bằng các cách thức: huy động vốn từ hoạt động liên doanh, liên kết, hoạt động mua bán cổ phiếu, trái phiếu, vay mượn các tổ chức ngân hàng, tổ chức vay tín dụng. Ngoài ra Xí nghiệp còn thực hiện huy động vốn nhàn rổi của công nhân viên trong Xí nghiệp… Đối với Xí nghiệp giao thông sản phẩm là các công trình xây dựng luôn có sự khác biệt so với các sản phẩm của lĩnh vực hoạt động khác như: sản phẩm cố định, đơn chiếc… vốn đầu tư ban đầu rất lớn thời gian thu hồi chậm chính vì điều đó công tác huy động vốn đảm bảo cho tiến độ thi công được đặt lên hàng đầu . Vốn và nguồn vốn là hai mặt của một thể thống nhất, đó là một lượng tài sản của doanh nghiệp. Do đó ngoài việc phân tích tình hình phân bổ vốn, quy mô vốn cần tiến hành phân tích kết cấu nguồn vốn. Việc phân tích này sẽ giúp cho doanh nghiệp nắm được khả năng tự chủ về mặt tài chính, mức độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh và những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong khai thác vốn. Theo các quyết định của chính phủ và qui định của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông được bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Trong đó vốn chủ sở hữu là do ngân sách nhà nước cấp, Xí nghiệp tự bổ sung, các loại quỹ vốn khác… còn nợ phải trả là do Xí nghiệp vay ngắn hạn, vay dài hạn dưới mọi hình thức của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước, các khoản nợ phải trả khách hàng và nợ phải trả khác… Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn là rất quan trọng, nguồn vốn chủ sở hữu càng nhiều thì tính linh hoạt về nhu cầu vốn càng cao nhưng khi nguồn vốn chủ sở hữu không đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh thì doanh nghiệp được phép đi vay để bổ sung vốn kinh doanh loại trừ các khoản vay quá hạn thì các khoản vay ngắn hạn và dài hạn (của ngân hàng hay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước) chưa đến hạn trả, dùng cho mục đích kinh doanh đều được gọi là nguồn vốn vay hợp pháp. Vốn của Xí nghiệp thể hiện qua bảng sau: Cơ cấu nguồn hình thành vốn Đơn vị tính: 1000 đ Nguồn hình thành 1999 2000 2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % I. Nợ phải trả 28.074.000 98.5 45.087.030 50.7 52.500.000 54.3 Nợ ngắn hạn 28.074.000 98.5 43.138.000 48.5 43.600.000 45.1 Nợ dài hạn 0 1.913.000 2.1 8.863.970 9.15 Nợ khác 0 0 36.030 0.08 36.030 0.05 II. Vốn CSH 410.730 1.4 43.805.487 49.3 44.200.000 45.7 Vốn kinh doanh 0 0 43.210.000 48.6 43.200.000 44.7 Quỹ đầu tư và phát triển 5.022 5.022 5.022 Lãi chưa phân phối 405.710 1.4 523.285 0.6 942.801 1 Quỹ khen thưởng 0 0 67.180 0.1 52.177 0.1 Tổng nguồn vốn 28.484.732 100 88.892.517 100 96.700.000 100 Xét về tổng quan cơ cấu nguồn vốn của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông trong năm 1999 là chưa hợp lý, tỷ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn chiếm quá cao, không tốt đối với quá trình sản xuất kinh doanh, nhưng đến năm 2000 và 2001 thì tỷ lệ này đã tăng tương đối hợp lý. Qua bảng trên cho thấy nguồn hình thành vốn của Xí nghiệp. Nợ phải trả của Xí nghiệp bao gồm nợ ngắn hạn ( hay các khoản vay ngắn hạn ), nợ dài hạn (hay các khoản vay dài hạn ) và nợ khác, trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn. Năm 1999, nợ phải trả là 28.074.000.000 đ ( chiếm 98.5% trong tổng nguồn vốn) trong đó toàn bộ là nợ ngắn hạn. Năm 2000, nợ phải trả là 45.087.030.000 đ ( chiếm 50.7% trong tổng nguồn vốn) trong đó nợ ngắn hạn là chủ yếu chiếm 48.5% trong tổng nguồn vốn và nợ dài hạn chỉ chiếm 2.1% trong tổng nguồn vốn. Năm 2001, nợ phải trả là 52.500.000.000 đ ( chiếm 54.3% trong tổng nguồn vốn ) trong đó nợ ngắn hạn chiếm 45.1% trong tổng nguồn vốn và nợ dài hạn là 9.15% trong tổng nguồn vốn. Như vậy, các khoản nợ phải trả của Xí nghiệp vẫn chủ yếu là nợ ngắn hạn, nhưng các khoản nợ này đang có tỷ trọng giảm dần qua các năm. Đặc biệt là năm 1999 đến năm 2000 giảm từ 98.5% xuống còn 48.5% trong tổng nguồn vốn, và từ năm 2000 đến 2001 có giảm xuống đôi chút. Bên cạnh đó nợ dài hạn đang có xu hướng tăng lên đây là một dấu hiệu tốt, nhưng nợ dài hạn vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn, điều này cho thấy tỷ trọng nợ ngắn hạn và nợ dài hạn của Xí nghiệp chênh lệch quá lớn do đó không hợp lý. Nợ ngắn hạn của Xí nghiệp quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng rủi ro tài chính rất cao. Xí nghiệp nên có một số biện pháp thay đổi và tăng khả năng vay dài hạn hơn nữa và giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn xuống thấp hơn nưã. Nguồn vốn kinh doanh của Xí nghiệp trong hai năm qua chiếm tỷ trọng cao trong vốn chủ sở hữu, chủ yếu dựa vào nguồn vốn liên doanh và nguồn vốn tự bổ sung. Nguồn vốn vay ngân hàng chiếm tỷ trọng thấp khoảng 10% trong tổng nguồn vốn. Qua các năm khối lượng vốn tăng nhưng tỷ trọng vay ngân hàng giảm so với tổng nguồn vốn, nguyên nhân là do nguồn vốn liên doanh, viện trợ nước ngoài, tự bổ sung tăng, bên cạnh đó hình thức huy động khác được áp dụng tại Xí nghiệp. Trong tương lai nguồn vốn này sẽ phụ thuộc vào chính sách huy động vốn của các ngân hàng gắn với việc hình thành thị trường vốn ở Việt Nam. Chắc chắn sẽ mở ra khả năng mới phục vụ cho Xí nghiệp huy động vốn đầu tư tốt hơn. Nguồn vốn vay cán bộ công nhân viên, Xí nghiệp đã tận dụng tối đa nguồn vốn vay này để bù đắp cho sự thiếu hụt vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp có chính sách thích hợ huy động vốn đúng đắn, đảm bảo quyền lợi cho người gửi, với lãi suất cao. Nên Xí nghiệp đã thu hút được lượng cốn đáng kể. Nguồn vốn vay nước ngoài, qua các năm nguồn vốn này thực tế chiếm tỷ trọng khá cao và được hình thành chủ yếu từ nguồn viện trợ phát triển chính thức ( ODA ), nguồn tín dụng thương mại… khả năng thu hút vốn từ các nguồn này rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm và giá trị kinh tế của từng công trình xây dựng mà lượng vốn được tài trợ khác nhau. Qua vài năm gần đây nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm nguồn vốn kinh doanh và các quỹ được thể hiện như sau: Năm 1999 nguồn vốn này chiếm tỷ trọng quá thấp chỉ chiếm 1.5% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu là từ lợi nhuận chưa phân phối và quỹ đầu tư phát triển ODA. Năm 2000 và 2001, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng khá cao và tương đối hợp lý và dao động 45% đến 49% trong tổng nguồn vốn. Chủ yếu là vốn kinh doanh bao gồm ngân sách nhà nước tự bổ sung và phần lớn là nguồn vốn do liên doanh, liên kết… ở Việt Nam hiện nay, tích luỹ còn thấp nên vốn ngân sách cấp cho các ngành còn ít ỏi, với một kết cấu hạ tầng như ngành xây dựng. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông không chỉ dựa vào vốn ngân sách cấp mà phải sử dụng vốn do liên doanh, liên kết, vốn tự bổ sung và các quỹ của Xí nghiệp. Mặt khác cơ cấu nguồn vốn của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông được đánh giá qua các hệ số về cơ cấu tài chính cho thấy mức độ phụ thuộc hay độc lập tài chính của Xí nghiệp với các khoản vay hay tự tài trợ. Các hệ số cơ cấu tài chính của Xí nghiệp Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Hệ số nợ 0.98 0.50 0.54 Tỷ suất tự tài trợ 0.014 0.49 0.45 Hệ số nợ dài hạn 0 0.04 0.2 Nhìn vào biểu đồ ta thấy hệ số nợ của Xí nghiệp năm 1999 là rất cao, hệ số này cao tỷ lệ thuận với khả năng rủi ro tài chính, nhưng hệ số này đã giảm mạnh vào năm 2000 từ 0.98 xuống còn 0.5 và đến năm 2001 thì không có biến động gì lớn, điều này cho thấy Xí nghiệp đã có những thay đổi tích cực. Bên cạnh đó hệ số tự tài trợ của Xí nghiệp năm 1999 là rất thấp, hay nói cách khác nguồn vốn tự có của doanh Xí nghiệp quá thấp khó đảm bảo đủ vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Chính vì thế muốn đảm bảo hoạt động thì Xí nghiệp phải đi chiếm dụng vốn từ bên ngoài. Hệ số tự tài trợ năm 1999 là 0.014, nhưng đến năm 2000 hệ số này đã tăng lên 0.49 cho thấy Xí nghiệp đã có những sự phát triển rõ rệt về khả năng tự chủ về tài chính. Hệ số nợ dài hạn có tăng nhưng hệ số này vẫn rất thấp cho thấy Xí nghiệp đã không chú trọng lớn đến vay dài hạn ( vì Xí nghiệp không đầu tư dài hạn ). Mặt khác Xí nghiệp đã tập trung mua sắm đầu tư tài sản cố định nhiều, đặc biệt là trong năm 2000. Chính vì vậy, Xí nghiệp phải tìm cách nghiên cứu, lợi dụng đòn bẩy cân nợ và phần lớn vốn vay phải là vay dài hạn. Vay dài hạn một năm làm giảm nhu cầu vốn thường xuyên của Xí nghiệp, bên cạnh đó tiền lãi phải trả được thừa nhận như một khoản chi phí cần thiết để có doanh thu. 3.3- Phân tích cơ cấu và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Xí nghiệp: 3.3.1- Phân tích cơ cấu tài sản lưu động: Về cơ cấu tài sản lưu động của Xí nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác tài sản lưu động của Xí nghiệp bao gồm : vốn bằng tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho và một số tài sản lưu động khác. Các khoản mục đó của Xí nghiệp được thể hiện qua bảng sau: Tình hình tài sản lưu động của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông Chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12254.DOC
Tài liệu liên quan