Luận văn Phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC NỮ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6

1.1 Nguồn nhân lực nữ và những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay 6

1.2 Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ và yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực nữ trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay 23

Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NỮ VÀ VIỆC PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HÀ NỘI HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 36

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Nội ảnh hưởng đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ 36

2.2 Thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội hiện nay 39

2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội hiện nay 64

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HÀ NỘI HIỆN NAY 69

3.1. Phương hướng phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay 69

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay 74

KẾT LUẬN 94

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97

PHỤ LỤC

 

 

doc106 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2430 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tích cực, chủ động của lao động nữ. Do vậy, không chỉ hạn chế khả năng cống hiến của phụ nữ mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sức cạnh tranh của nguồn nhân lực nữ khi tham gia vào thị trường lao động khu vực và thế giới. Thực trạng phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội hiện nay 2.2.2.1. Thực tiễn tạo việc làm và hiệu quả sử dụng lao động nữ ở Hà Nội Sự chuyển đổi cơ chế quản lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình đổi mới đất nước đã có những tác động rất lớn đến tình hình việc làm của lao động nam và lao động nữ. Thành phố đã có nhiều chủ trương, biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động. Số lượng việc làm mới được tạo ra hàng năm tăng nhanh (thời kỳ 1995 - 2000 là 49.300, những năm gần đây là 50.000 - 55.000 chỗ làm mới). Lao động nữ đã có thể nắm bắt được những cơ hội mới để tạo ra việc làm. Chủ trương khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đã đóng vai trò rất quan trọng trong thu hút lao động. Năm 2000, các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Hà Nội chỉ thu hút 202.099 lao động nữ, trong khi các doanh nghiệp ngoài nhà nước thu hút 466.939 lao động nữ, gấp 2,3 lần. Từ năm 1996 đến năm 2000 việc làm trong thành phần kinh tế Nhà nước chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 27% - 32% tổng số việc làm), trong khi đó việc làm cho lao động nữ chủ yếu được thực hiện trong thành phần kinh tế ngoài nhà nước (chiếm từ 43% - 65% tổng số việc làm). Trong khối doanh nghiệp ngoài nhà nước thì tự tạo việc làm của bản thân lao động nữ với cách thức để sinh tồn, kinh doanh cá thể và siêu nhỏ thuộc khu vực phi chính thức đóng vai trò chủ đạo thu hút lao động nữ Hà Nội. Đó là bộ phận lao động nữ dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước và bộ phận lao động nữ bị phân công vào các công việc có thu nhập không ổn định do cơ cấu kinh tế thay đổi trong khi nhu cầu đời sống gia đình ngày một tăng. Đây là khu vực hoạt động với đặc trưng là trình độ tổ chức và công nghệ thấp, là tầng trung gian giữa lao động giản đơn và lao động có kỹ thuật tay nghề cao, góp phần ổn định đời sống nhân dân, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, đáp ứng nhu cầu tăng thu nhập. Chương trình vay vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm được thực hiện hiệu quả trong những năm qua đã có tác dụng lớn trong tạo việc làm cho lao động nữ. Chỉ tính từ năm 1992 - 1999 thành phố đã xét duyệt 2880 dự án với tổng số vốn cho vay 223.261 triệu đồng; thu hút 143.556 lao động, trong đó lao động nữ được giải quyết việc làm chiếm gần 48% tổng số lao động được sắp xếp việc làm. Nguồn vốn này đã góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lao động khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, kinh tế hộ gia đình có sự chuyển dịch rõ nét, tận dụng được nội lực trong mỗi gia đình và doanh nghiệp trong phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao mức sống và ổn định xã hội. Hoạt động tạo việc làm của hệ thống dịch vụ việc làm thành phố Hà Nội đã và đang thu được những kết quả nhất định.Trong đó số lượng phụ nữ được tư vấn, dạy nghề, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động chiếm tỷ cao (46,81% - 53,28%). Khả năng nắm bắt thông tin thị trường và hoạt động của các trung tâm, nhất là các trung tâm dành riêng cho nữ đã và đang có tác dụng thiết thực tạo việc làm cho lao động nữ Hà Nội. Tuy đã có nhiều cố gắng trong giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng, nhưng nhìn chung Hà Nội vẫn chưa khai thác, sử dụng tối đa nguồn nhân lực nhân lực nữ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, lực lượng lao động nữ thất nghiệp ở Thủ đô còn rất lớn với số lượng trung bình 1996 - 1999 là 24.162 người/năm và có xu hướng tăng lên từ 3,47% (20.365 người vào năm 1996) lên 5,20% (35.531 người vào năm 2000). Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn (8,8% so với 1,4%). Đại bộ phận lao động nữ thất nghiệp ở độ tuổi trẻ và thất nghiệp cao nhất thuộc nhóm tuổi 15 - 24 tuổi với tỉ lệ trung bình từ 1996 - 1999 là 35,92%. Thực tế này đặt ra vấn đề cần quan tâm giải quyết việc làm cho nhóm tuổi này nhiều hơn để góp phần ổn định trật tự xã hội. Bên cạnh thất nghiệp hoàn toàn thì bộ phận lao động nữ thiếu việc làm (có số giờ làm việc dưới 40 giờ/tuần) khá cao (năm 1999 là 96.507 người) và cũng có xu hướng tăng với tỉ lệ 11,98% (năm 1998) lên 15,25% (năm 1999), đặc biệt lực lượng lao động nữ nông thôn thiếu việc làm tới 22,33%. Điều này phản ánh thực trạng sử dụng thời gian lao động ở nông thôn rất thấp do đất đai canh tác bị thu hẹp, dân số tăng, việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn từ lao động thủ công sang lao động cơ khí trong quá trình thực hiện CNH, HĐH...Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng vào làm việc của lực lượng lao động nói chung và của lực lượng lao động nữ nói riêng chỉ đạt từ 67,36% đến 84,14%. Xét trong tổng thể chung của thành phố, tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm ngày càng trở nên căng thẳng. Trong thời kỳ 1996 - 2000 trung bình tỷ lệ thất nghiệp của thành phố là 5,2% với số lượng 63.683 người, số người thiếu việc làm trung bình một năm là 183.496 người chiếm 14,3% lực lượng lao động. Cho nên số người thất nghiệp và thiếu việc làm của thành phố trung bình là 247.159 người/năm. Đại bộ phận những người thất nghiệp ở độ tuổi trẻ. Thất nghiệp ở khu vực thành thị hàng năm cao gấp nhiều lần so với khu vực nông thôn (8,23% so với 1,83%) và cao hơn so với Thành phố Hồ Chí Minh (7,04%) và mức trung bình của cả nước (7,4%) [47, tr.94] Theo giới tính, thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động nữ (thời kỳ 1996 - 2000) thấp hơn lực lượng lao động nam (4,65% so với 5,81%) trong khi trình độ học vấn, chuyên môn của nam cao hơn nữ. Điều đó không có nghĩa là sự bất bình đẳng về giới dưới góc độ việc làm nghiêng về phía nam giới mà là do để có việc làm, lao động nữ đã dễ dàng chấp nhận các công việc có kỹ thuật giản đơn, điều kiện lao động kém, thu nhập thấp, ảnh hưởng đến sự phát triển của nguồn nhân lực nữ . Nguyên nhân thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động nữ trước hết là do cung lao động nữ vượt quá cầu lao động nữ. Trong các nguyên nhân làm tăng cung lao động nữ Hà Nội phải nói đến hiện tượng tăng cơ học dân số. Người lao động ở các tỉnh, số sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học ở lại Hà Nội tìm việc làm đã làm cho tổng số người cần sắp xếp việc làm trung bình một năm của Hà Nội lên tới 123.000 người. Trong khi đó số người được giải quyết việc làm mới đạt khoảng 35%. Cơ cấu trình độ lao động nữ hiện có không phù hợp với cơ cấu lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (thiếu lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn, thừa lao động giản đơn, thiếu CNKT) đã dẫn đến tình trạng thất nghiệp cơ cấu do người lao động không đáp ứng được yêu cầu của ngành nghề mới, các kỹ năng kiến thức mới và thị trường lao động. Chỉ tính riêng số lao động dôi dư do tinh giản biên chế và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (thời kỳ 1996 - 1999) thì lao động nữ đã chiếm tới 85,14% tổng số lao động dôi dư. Tình hình này sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn đối với lao động nữ khi đất nước và Thủ đô đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Lao động nữ ít cơ hội tiếp cận các thông tin về thị trường lao động trong khi công tác này của Thành phố vừa chậm, vừa thiếu lại phải trải qua các khâu trung gian nên người lao động nhất là lao động nữ không nắm bắt kịp thời thông tin thị trường lao động để tìm kiếm và chuyển đổi việc làm phù hợp. Tóm lại, tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động nữ Hà Nội đang là một vấn đề bức xúc cần có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Thất nghiệp và thiếu việc làm không chỉ là một sự lãng phí nhân lực mà mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống do giảm thu nhập, tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của người lao động do thiếu môi trường để khẳng định mình. Thất nghiệp, thiếu việc làm của lao động nữ còn ảnh hưởng lớn tới vị thế bình đẳng của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Thứ hai, hiệu quả sử dụng lao động nữ có chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Hà Nội hội đủ các yếu tố tạo nên sức hút đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời lại tập trung phần lớn các trường Đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu của cả nước. Hà Nội có lợi thế hơn các địa phương về số lượng nữ cán bộ khoa học kỹ thuật, kể cả cán bộ đầu đàn trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, việc sử dụng và thu hút lực lượng cán bộ nữ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao vào công cuộc phát triển Thủ đô thời gian qua còn nhiều hạn chế do chưa có cơ chế và chính sách rõ ràng. Sự phân bố nguồn nhân lực nữ có chất lượng cao còn bất hợp lý giữa các thành phần kinh tế, các ngành, khu vực: chủ yếu tập trung trong khu vực kinh tế nhà nước, trong công nghiệp, trong lĩnh vực sản xuất phi vật chất. Ngược lại, đang thiếu trầm trọng số lao động này trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong nông nghiệp và trong lĩnh vực sản xuất vật chất trực tiếp. Lực lượng lao động nữ đã qua đào tạo chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị. Hiện nay ở Hà Nội chưa thiết lập được mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan hoạt động thực tiễn, các tổ chức kinh tế - xã hội với các cơ quan nghiên cứu đóng trên địa bàn Thủ đô. Không ít những trường hợp các tổ chức kinh tế - xã hội làm công tác chỉ đạo thực tiễn tự nghiên cứu các đề tài khoa học, ngược lại, việc thâm nhập thực tiễn của các cơ quan nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn, công tác xã hội hoá các sản phẩm khoa học còn nhiều hạn chế. Tình trạng này đã và đang cản trở việc đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và chứng tỏ hiệu quả sử dụng lực lượng cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn chưa cao. Chính sách tiền lương chưa tạo động lực khuyến khích cán bộ khoa học kỹ thuật tập trung vào nghiên cứu chuyên sâu dẫn đến sự lãng phí một cách nghiêm trọng "chất xám" trong thời gian qua. 2.2.2.2. Tình hình quản lý nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội Để phát huy hiệu quả nguồn lực con người thì việc quản lý nguồn nhân lực với những cơ chế chính sách tuyển dụng, bố trí sắp xếp, đánh giá, đãi ngộ có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường khai thác và phát huy khả năng sáng tạo của người lao động. Việc theo dõi, quản lý nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố tương đối chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp cho ngành chuyên môn theo từng khu vực, đối tượng như: lao động ở khu vực hành chính, sự nghiệp, lao động ở khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực tập thể và cá thể...Lực lượng lao động ở khu vực hành chính, sự nghiệp được quản lý cụ thể đến từng người, việc tuyển dụng công chức được thực hiện theo chế độ thi tuyển. Đây cũng là khu vực mà các quyền lợi, nghĩa vụ của lao động nữ được đảm bảo và giải quyết đầy đủ theo quy định của Nhà nước. Việc quản lý lao động ở khu vực sản xuất kinh doanh là do các doanh nghiệp tự chủ cả về tuyển dụng và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật và có trách nhiệm báo cáo định kỳ với Sở Lao động - Thương binh và xã hội. Việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lợi và chế độ chính sách cho người lao động do đoàn kiểm tra liên ngành Lao động - Thương binh - Xã hội, Liên đoàn lao động, Bảo hiểm xã hội chịu trách nhiệm chính. Thực tế đã cho thấy đây là khu vực mà lao động nữ gặp nhiều bất lợi hơn lao động nam liên quan đến việc trả công và một số chế độ chính sách khác, trong đó có chính sách thai sản và bảo hiểm xã hội. Kết quả khảo sát ngành công nghiệp ở Hà Nội cho thấy tổng chi phí của doanh nghiệp cho việc sử dụng lao động nữ chỉ bằng 82,5% so với chi phí sử dụng lao động nam, tiền lương bình quân của lao động nữ bằng 72% so với lao động nam, mức đóng bảo hiểm xã hội cho lao động nữ chỉ bằng1/3 so với mức đóng cho lao động nam, một bộ phận khá lớn lao động nữ không được chủ doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội... Mặc dù quyền lợi của lao động nữ trong khu vực này chưa được quan tâm đảm bảo đầy đủ, nhưng công tác kiểm tra, giám sát lại chưa đạt hiệu quả mong muốn, chưa được tiến hành thường xuyên. Tôn trọng lợi ích người lao động là một nguyên tắc cơ bản trong quản lý, sử dụng lao động, nguyên tắc này ngày càng trở lên đặc biệt đối với lao động nữ, những người phải thực hiện chức năng mang thai, sinh nở, nuôi con nhỏ. Tình hình quản lý nguồn nhân lực ở Hà Nội đã cho thấy những chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của các cấp, ngành đối với việc phát huy nguồn lực con người, trong đó có nguồn nhân lực nữ. Tuy nhiên, điểm yếu trong quản lý nhân lực là việc phân công, bố trí cán bộ chưa căn cứ vào nhu cầu công việc, còn nặng về giải quyết nhân sự do vậy chất lượng cán bộ còn có những bất cập so với công việc thực tế; việc tuyển dụng lao động ở một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự khách quan, công bằng, nghiêm túc, thậm chí còn có những định kiến phân biệt trong tuyển dụng đối với lao động nữ; chính sách thu hút nhân tài chậm được cụ thể hoá, thiếu những cơ chế đồng bộ trong thực hiện nên chưa thực sự phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô. 2.2.2.3. Công tác giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ với việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội Thứ nhất, giáo dục - đào tạo ở Hà Nội với việc phát huy nguồn nhân lực nữ Hà Nội là thành phố duy nhất đứng đầu cả nước về tất cả các chỉ số giáo dục cơ bản và là địa phương đầu tiên trong cả nước đạt phổ cập tiểu học, đến năm 1999 đã phổ cập trung học cơ sở. Chất lượng giáo dục đạo đức và văn hóa được dần dần củng cố và có bước phát triển tốt, trong đó chất lượng đại trà được giữ vững và chất lượng mũi nhọn được nâng cao. Các hoạt động giáo dục văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao nhằm góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, nâng cao ý thức xây dựng lối sống văn minh thanh lịch của người Hà Nội được quan tâm phát triển. Hà Nội đã đi trước các tỉnh, thành phố khác trong việc nâng cao trình độ học vấn của người dân Thủ đô. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những thành tựu về giáo dục và đào tạo của Thủ đô là sự tập trung đầu tư cho giáo dục từ phía thành phố. Chi tiêu công bình quân đầu người cho giáo dục ở Hà Nội liên tục gia tăng, tốc độ gia tăng cao hơn so với các thành phố lớn khác. Nếu năm 1991, chi bình quân cho giáo dục ở TP Hồ Chí Minh là 17.000đ, Hà Nội 16.000đ và Hải Phòng 9.600đ thì đến năm 1998, Hà Nội đã đạt mức chi 197.000đ trong khi ở TP Hồ Chí Minh là 139.000đ và Hải Phòng là 107.000đ [52,tr.45]. Tỷ lệ giáo viên phổ thông Hà Nội đạt trình độ chuẩn hoá khá cao với các tỉnh thành: giáo viên tiểu học, giáo viên THCS đạt 99%, giáo viên THPT đạt 100%, cán bộ quản lý trường các cấp học được chuẩn hoá nghiệp vụ quản lý đạt 80,6%. Việc giảm khoảng cách bất bình đẳng giới trong giáo dục - đào tạo đã đạt được những kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục phổ thông. Những năm gần đây, tỷ lệ nữ tốt nghiệp ở các cấp học trên tổng số học sinh tốt nghiệp ở cùng trình độ đạt mức cao. Năm 2000 - 2001, tỷ lệ nữ trên tổng số học sinh tốt nghiệp tiểu học là 50,5%, ở cấp trung học cơ sở là 48,2% và cấp trung học phổ thông là 50,8%. Việc đảm bảo tỷ lệ tốt nghiệp các cấp cao và cân bằng của cả nam và nữ là rất quan trọng, đặc biệt là đối với nữ. Đây không chỉ là cơ sở nâng tỷ lệ nữ ở bậc cao đẳng, đại học mà còn là điều kiện để phụ nữ tham gia vào các hình thức đào tạo nghề, đào tạo CNKT sau này, giúp phụ nữ nắm bắt được cơ hội và tham gia vào đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn lành nghề để tìm việc làm và có vị thế trong xã hội . Hà Nội là nơi cung cấp các hình thức và cơ hội học tập, đào tạo đa dạng và phong phú về chuyên môn, nghiệp vụ cho tất cả mọi người, trong đó có phụ nữ. Trên địa bàn thành phố có 21 trường đào tạo CNKT, 38 trường THCN, 49 trường cao đẳng, đại học với trên 18.000 giáo viên, giảng viên, hàng năm đào tạo trên 400. 000 sinh viên. Chất lượng đào tạo chuyên môn ở Hà Nội đã có chiều hướng phát triển tốt dần tiếp cận với trình độ kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho Thủ đô và cho cả nước, công tác giáo dục - đào tạo ở Hà Nội còn rất nhiều bất cập. Đố là: chất lượng không đồng đều giữa giáo dục chuyên môn với giáo dục tư tưởng- đạo đức, giữa nội thành với ngoại thành. Chất lượng giáo dục hướng nghiệp dạy nghề phổ thông thấp. Tình trạng bất cập giữa việc phân bố co cụm mật độ lớn các trường đại học, cao đẳng, THCN, dạy nghề của Trung ương và địa phương ở khu vực nội thành với yêu cầu quy hoạch tổng thể, dài hạn của Thủ đô cả về quản lý đô thị và đào tạo nhân lực cho các khu vực, ngành nghề. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ, kỹ năng của đội ngũ giáo viên, nội dung, chương trình giảng dạy nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Còn chưa có sự gắn bó chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng lao động dẫn đến chất lượng và nội dung đào tạo, cơ cấu đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Thành phố cũng chưa hình thành được các trường, các trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao theo ngành nghề và công nghệ mới. Việc phát triển nguồn nhân lực nữ thông qua giáo dục - đào tạo đã đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện ở tỷ lệ lao động nữ được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ ngày một tăng. Tuy nhiên, việc tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, giảm khoảng cách về giới trong đào tạo nguồn nhân lực đang ngày càng trở nên khó khăn hơn. Không chỉ trong gia đình mà cả trong xã hội còn có những trở ngại đối với việc đẩy nhanh công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với lực lượng lao động nữ. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với các hình thức đào tạo và tiếp tục có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn so với nam giới. Có thể khẳng định rằng chính sách của thành phố hoàn toàn không có sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong vấn đề giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên chính sách chung mới chỉ tạo được môi trường chung cho cả phụ nữ và nam giới. Trong khi đó, phụ nữ có những khó khăn trở ngại riêng mà nếu thiếu các chính sách và biện pháp cụ thể, phù hợp thì bản thân họ khó có thể nắm bắt được các cơ hội do chính sách chung tạo ra. Đây là điểm mà Hà Nội có thể đã quan tâm song, có lẽ còn thiếu các biện pháp mang tính hệ thống tác động cả trong gia đình, cơ quan quản lý và xã hội cũng như các hình thức kiểm tra đôn đốc nhằm khuyến khích lao động nữ nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng các yêu cầu phát triển của thành phố. Thứ hai, vấn đề chăm sóc sức khoẻ với việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội Đối với mỗi cộng đồng và mỗi quốc gia, sức khoẻ (thể lực) của các thành viên là một nguồn lực đặc biệt. Mặc dầu chúng ta thường nhấn mạnh khía cạnh nguồn vốn tri thức khi đề cập đến nguồn vốn con người song, không thể coi nhẹ khía cạnh sức khoẻ, vì một lẽ đơn giản là nếu thiếu sức khoẻ thì không thể phát huy vốn tri thức, thậm chí không thể thực hiện nhu cầu lao động sản xuất thông thường của con người. Mối liên hệ giữa sức khoẻ của phụ nữ với sự phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện ở ba điểm sau: Sức khoẻ của phụ nữ liên quan mật thiết đến sức khoẻ của trẻ em và có ảnh hưởng đến khả năng lao động của thế hệ tương lai. Sức khoẻ của phụ nữ có quan hệ chặt chẽ với năng suất lao động của lực lượng lao động nữ. Sức khoẻ của phụ nữ có tác động đến sức khoẻ của các thành viên trong gia đình, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của lực lượng lao động. So với nam giới thì mối quan hệ giữa sức khoẻ của phụ nữ với các thành viên khác trong gia đình mật thiết hơn, một mặt là do đặc điểm sinh sản chi phối, mặt khác do phụ nữ thực hiện nhiều công việc chăm sóc gia đình hơn. Nhận thức được tầm quan trọng của sức khoẻ phụ nữ, nên trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Thành phố đã quan tâm đến việc chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ ở cả hai góc độ: người mẹ và người lao động. Hà Nội là một trong các thành phố dẫn đầu cả nước về việc chăm sóc sức khoẻ của người dân nói chung và của bà mẹ và trẻ em nói riêng. Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở Hà Nội năm 1999 (11%) ở vào mức thấp nhất (trung bình cả nước 33%) tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản năm 2004 là 15/100.000 người. Điều cần nhấn mạnh là thành phố đã tập trung vào các biện pháp y tế trực tiếp và đã thu được những thành công lớn so với cả nước. Số lần khám thai trung bình của bà mẹ năm 1999 đạt hơn 3 lần, trong khi cả nước mới đạt trung bình là 1 lần, tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiêm phòng uốn ván đạt 94%. Trong vòng 5 năm (1994 - 1999), tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em giảm một nửa (từ 40% xuống còn 20,7%), năm 2004 còn 14,7%, tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tiếp cận với dịch vụ y tế đạt 93%. Hà Nội dẫn đầu cả nước về chỉ số tuổi thọ, đạt 0,95 (chỉ số tuổi thọ trung bình cả nước là 0,83). Tuổi thọ trung bình của phụ nữ Hà Nội năm 1999 là 78,4 năm, của nam là 72,6 năm (tuổi thọ trung bình cả nước vào cùng thời điểm là 74 đối với nữ và 67,4 đối với nam. Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc nâng cao khả năng tiếp cận của người dân với các dịch vụ y tế, nâng cao chất lượng phục vụ, việc chăm sóc sức khoẻ của bà mẹ và trẻ em ở Hà Nội vẫn chưa đạt được những mục tiêu mong muốn. Là một đô thị phát triển nhanh, Hà Nội đang phải đối diện với nhiều vấn đề xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của phụ nữ và trẻ em. Đó là vấn đề nạo hút thai (với tỉ lệ cao gấp rưỡi số ca sinh) nhất là ở lứa tuổi vị thành niên, tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tăng nhanh chóng; sự chênh lệch về chất lượng chăm sóc sức khoẻ giữa đô thị và nông thôn, tốc độ giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trong bụng mẹ còn chậm và vẫn duy trì ở mức độ tương đối cao (5,3%/năm). Thực trạng này tất yếu ảnh hưởng tiêu cực đến tầm vóc và thể lực của lao động Hà Nội trong những năm tới. Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của phụ nữ là vấn đề mang tính chiến lược, có quan hệ đến chất lượng nguồn nhân lực của Hà Nội. Vì vậy, chăm sóc sức khoẻ phụ nữ cần được đặt thành một trong những ưu tiên của Thành phố. Lực lượng lao động nữ ở Hà Nội chiếm khoảng 49% tổng số lao động. Từ góc độ chính sách của thành phố, chăm sóc sức khỏe của lao động nữ là một sự đầu tư trực tiếp nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực một cách lâu dài. Tuy nhiên, nhận thức lợi ích của việc chăm sóc sức khoẻ lao động nữ với việc thực hiện trong thực tế đang còn có những bất cập lớn. Các cuộc khảo sát và nghiên cứu gần đây cho thấy thể lực của lao động nữ đang chịu những ảnh hưởng tiêu cực của nhiều yếu tố: - Đó là việc tăng ca dẫn đến thời gian lao động kéo dài. Theo khảo sát tuy rằng lương tăng ca được tính 150% - 200% so với định mức, nhưng do mức khoán cao và phải làm liên tục, nhiều công nhân không đảm bảo mức khoán dẫn đến việc làm thêm giờ chỉ tính phụ vào giờ khoán đủ, thu nhập của công nhân không cao, không cho phép công nhân tái tạo sức lao động một cách hợp lý chưa nói đến việc bồi dưỡng để nâng cao thể lực nói chung. Thời gian lao động kéo dài còn tác động tiêu cực đến việc bố trí sắp xếp công việc gia đình, chăm sóc các thành viên trong gia đình của nữ công nhân, hạn chế các nhu cầu nâng cao năng lực và đời sống tinh thần. - Điều kiện,vệ sinh an toàn lao động chưa đảm bảo. Trong khu vực thành thị, ngoại trừ một số cơ sở được trang bị mới, tại nhiều cơ sở công nhân hiện đang làm việc trong môi trường ô nhiễm nhưng không được trang bị bảo hộ lao động đầy đủ, việc chăm sóc sức khoẻ cho công nhân chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức. Sức khoẻ của nữ công nhân bị giảm với tốc độ nhanh, tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh nghề nghiệp cao. Trong khu vực nông thôn, phụ nữ cũng đang phải làm việc trong những điều kiện môi trường ô nhiễm bởi thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, chất kích thích tăng trưởng...mà hầu như không được sử dụng các trang bị bảo hộ lao động, hoặc nếu có thì cũng rất thô sơ. Phụ nữ ngoại thành đang là nhóm đối tượng rất cần được quan tâm từ góc độ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của người lao động. - Bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện đầy đủ đối với nữ công nhân. Một số doanh nghiệp còn có sự phân biệt thực hiện bảo hiểm xã hội và các chế độ khác đối với công nhân làm việc lâu năm và công nhân mới vào nghề, giữa nam và nữ, việc thực hiện chế độ thai sản tuỳ thuộc vào từng chủ doanh nghiệp. Với xu thế cạnh tranh ngày càng cao, các doanh nghiệp có xu hướng cắt giảm các chi phí liên quan đến chế độ của người lao động càng làm cho vấn đề bảo vệ sức khoẻ của lao động nữ trở nên cấp bách hơn. Như vậy, mặc dù việc chăm sóc sức khoẻ cho người dân nói chung và cho phụ nữ ở Hà Nội nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng trước tình hình phát triển nhanh dân số cơ học và các vấn đề cấp bách về tệ nạn xã hội, môi trường lao động, việc duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, phụ nữ Hà Nội là một trong những thách thức to lớn của Thủ đô. 2.2.2.4. Chính sách xã hội với việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội Có thể khẳng định rằng bất kỳ chính sách nào mà mục đích cuối cùng là phục vụ con người đều liên quan hoặc có tác động trực tiếp đến phụ nữ. Tuy nhiên, mức độ tác động của các chính sách đối với phụ nữ có thể khác nhau. Căn cứ vào hình thức thể hiện và mức độ tác động, có thể phân loại các chính sách đối với phụ nữ như sau: những chính sách chung không trực tiếp nhằm vào vấn đề phụ nữ, song lại ảnh hưởng tới phụ nữ và tương quan hai giới trong việc tiếp cận và sử dụng các nguồn lực; những quy định pháp lý chung đối với cả nam và nữ khi bước vào quan hệ hôn nhân gia đình; những chính sách dành riêng cho phụ nữ bao gồm những quy định riêng đối với phụ nữ trong một văn bản chung (chươn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLvan.doc
  • docMục lục.doc
Tài liệu liên quan