Luận văn Quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 21 - Thực trạng và triển vọng

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ 2

I/ Quan hệ kinh tế quốc tế 2

1. Khái quát về quan hệ kinh tế quốc tế 2

2. Các lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế 3

3. Lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại VN - TQ 4

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 8

I/ Điểm lại tình hình phát triển kinh tế thương mại giữaViệt Nam - Trung Quốc . 8

II/ Thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa việt nam - trung quốc 9

1/ Về xuất nhập khẩu chính ngạch 9

2.Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch 13

3. Khó khăn và tồn tại trong quan hệ thương mại Việt - Trung 15

IV/ Nhận xét, đánh giá chung về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. 17

1/Vấn đề đầu tư - liên doanh - hợp tác . 17

2/ Vấn đề xuất nhập khẩu buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch 18

3/. Ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO 21

V/. Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới tạo áp lực và thách thức nhất định đối với Việt Nam. 21

1. Ảnh hưởng đối với thương mại Trung – Việt 21

2. Ảnh hưởng đối với thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam và đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam 22

3. Ảnh hưởng đối với điều chỉnh và cải cách mở cửa 23

VI/. Trung Quốc gia nhập WTO mang đến cơ hội cho Việt Nam 23

CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HAI NƯỚC 25

I/ Một số dự báo phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới 25

II/ Một số ý kiến đề xuất nhằm phát triển quan hệ VN - TQ 29

1. Kiến nghị đối với nhà nước 29

2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp : 30

KẾT LUẬN 34

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

 

doc37 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 5900 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 21 - Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất đồng bộ : Dây chuyền sản xuất đường, dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng ... - Máy móc, thiết bị : Thiết bị y tế, thiết bị vận tải, máy nông nghiệp... -Nguyên nhiên liệu : Xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng ... - Mặt hàng nông sản : Lương thực, bột mì, Đường, hoa quả ôn đới (lêtáo ..) Hàng tiêu dùng : Sản phẩm điện tử, xe máy, quần áo, đồ chơi trẻ em ... Bảng 3 Một số mặt hàngViệt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2001 STT Tên hàng Tên đơn vị Lượng Trị giá USD 1 Chất dẻo nguyên liệu tấn 6.625 5.047.225 2 Linh kiện điện tử,vi tính USD 21.960.570 3 Máy móc, thiết bị phụ tùng USD 249.362.420 4 NPL dệt may da USD 74.122.246 5 ô tô nguyên chiếc các loại chiếc 337 4.297.67 6 Sắt thép các loại tấn 276.076 54.742.280 7 Tân dược USD 5.588.850 8 Xăng dầu các loại tấn 1.034.914 231.660.560 9 Xe máy dạng CKD bộ 1.955.134 433.227.256 10 Phân bón các loại tấn 427.433 62.316.320 Tổng Giá Trị 1.629.129.924 Nguồn : Cục thống kê hải quan- CNTT-2001 Nhiều năm qua, Chính phủ Trung Quốc đã cung cấp một khối lượng lớn ODA cho Việt Nam bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi. Hiện nay, một loạt các dự án lớn khác đang được phía Việt Nam triển khai trên cơ sở nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc như là nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn 710 triệu USD; đường sắt đô thị Hà Nội – Hà Đông 340 triệu USD; nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu 3 tuyến đường sắt phía Bắc và khu đầu mối Hà Nội 64 triệu USD; hiện đại hoá thông tin tín hiệu đường sắt Vinh – Thành phố Hồ Chí Minh 62 triệu USDnay, một loạt các dự án lớn khác đang được phía Việt Nam triển khai trên cơ sở nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc như là nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn 710 triệu USD; đường sắt đô thị Hà Nội – Hà Đông 340 triệu USD; nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu 3 tuyến đường sắt phía Bắc và khu đầu mối Hà Nội 64 triệu USD; hiện đại hoá thông tin tín hiệu đường sắt Vinh – Thành phố Hồ Chí Minh 62 triệu USD Từ cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá nêu trên có thể thấy rõ hoạt động ngoại thương đã khai thác được thế mạnh của cả hai bên . Hàng hoá xuất nhập khẩu như trên có tác dụng bổ sung cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hai nước và cũng phù hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế của hai nước . 2.Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch Buôn bán biên giới là một bộ phận đáng kể trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 10 năm qua, ở những năm đầu tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch thường ở mức 50-60%. Vào thời gian này, xuất nhập khẩu tiểu ngạch không chỉ chiếm tỷ trọng lớn mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân hai nước cải thiện nâng cao đời sống của dân khu vực biên giới, thậm chí một bộ phận dân cư ở các tỉnh biên giới hai nước đã có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, thoát khỏi cảnh đói nghèo của thời kỳ trước khi bình thường hoá . Điều này đã góp phần đáng kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ giữa hai bên. Buôn bán qua biên giới cũng diễn ra dưới nhiều hình thức như ký kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp, đổi hàng trực tiếp giữa các doanh nghiệp và cư dân, buôn bán trung gian ... và thu hút nhiều đối tượng tham gia, từ các công ty nhà nước, công ty cổ phần công ty tư nhân, cư dân vùng biên giới và cư dân ở các tỉnh khác. Việc thanh toán trong buôn bán biên mậu chủ yếu là bằng tiền mặt và bằng đồng nhân dân tệ, nên rất nhiều doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo mất hàng và mất tiền với số lượng lớn . Buôn bán biên giới là một bộ phận đáng kể trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 10 năm qua, ở những năm đầu tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch thường ở mức 50-60%. Vào thời gian này, xuất nhập khẩu tiểu ngạch không chỉ chiếm tỷ trọng lớn mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân hai nước cải thiện nâng cao đời sống của dân khu vực biên giới, thậm chí một bộ phận dân cư ở các tỉnh biên giới hai nước đã có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, thoát khỏi cảnh đói nghèo của thời kỳ trước khi bình thường hoá . Điều này đã góp phần đáng kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ giữa hai bên. Buôn bán qua biên giới cũng diễn ra dưới nhiều hình thức như ký kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp, đổi hàng trực tiếp giữa các doanh nghiệp và cư dân, buôn bán trung gian ... và thu hút nhiều đối tượng tham gia, từ các công ty nhà nước, công ty cổ phần công ty tư nhân, cư dân vùng biên giới và cư dân ở các tỉnh khác. Việc thanh toán trong buôn bán biên mậu chủ yếu là bằng tiền mặt và bằng đồng nhân dân tệ, nên rất nhiều doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo mất hàng và mất tiền với số lượng lớn . Đối với các tỉnh biên giới phía Bắc, trong mười năm qua, tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới của Đảng và Nhà nước và đặc biệt từ khi Chính phủ cho phép thực hiện các chính sách ưu đãi phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, các tỉnh đã nhanh chóng tiếp cận và triển khai thực hiện, thành lập ban chỉ đạo và giao mại giữa 2 nước để phòng chống nạn buôn lậu. Hiện nay chính phủ hai nước đang lập dự án xây dựng hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng mở ra khả năng tốt thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại hai nước . Trung Quốc và Việt Nam đã thảo luận và đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới. Theo đó 2 bên xác định mục tiêu kim ngạch trao đổi thương mại hoá đến 2010 là 15 tỷ USD, tập trung xuất nhập khẩu những mặt hàng lớn đảm bảo mức tăng trưởng kim ngạch mậu dịch 3. Khó khăn và tồn tại trong quan hệ thương mại Việt - Trung a, Quan hệ ngoại thương giữa hai nước chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (cả chính ngạch và tiểu ngạch ) chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc chỉ chiếm 5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung và chỉ bằng 0,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc . Là hai nước láng giềng, có truyền thống trao đổi buôn bán từ lâu đời nhưng Việt Nam mới chỉ là nước xuất khẩu 29 trong tổng số 220 nước xuất khẩu vào Trung Quốc. Còn Trung Quốc cũng chỉ là nước xuất khẩu lớn thứ 6 vào Việt Nam . b. Quan hệ xuất nhập khẩu giữa hai nước trong 10 năm qua phát triển dựa trên sự chênh lệch rất rõ về trình độ . Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc có năng lực cạnh tranh do ưu thế về chất lưọng và chủng loại có giá thành thấp hơn giá thành của Việt Nam vì các doanh nghiệp Trung Quốc đủ lực và có chính sách công nghệ tích cực . Hơn nữa, Chính phủ Trung Quốc có nhiều chính sách mạnh mẽ để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương đặc biệt là những chính sách phù hợp với thực tế của từng nước đối tác . VD : Đối với Việt Nam Trung Quốc có chính sách đặc biệt khuyến khích các hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua biên giới (như chính sách tiểu ngạch hoá ) “phi thương mại hoá” giảm 50% thuế đối với hàng nhập khẩu, chính sách thoái thuế đối với hàng xuất khẩu ... Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có giá trị thấp và thường bị tác động của giá thị trường thế giới theo xu hướng giảm, trong khi đó, hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc lại thường là những mặt hàng có giá trị cao hơn trên thương trường quốc tế . Do hạn chế trong qui định về hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến việc hạn chế Trung Quốc nhập khẩu một số mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như gạo . c.Nạn hàng giả, hàng kém chất lượng và buôn lậu qua biên giới đang rất phổ biến . Trốn lậu thuế là hiện tượng phổ biến trong xuất nhập khẩu tiểu ngạch, dẫn đến thất thu cho nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng (thông qua các thủ đoạn như nhập nhiều khai ít, nhập những hàng có mức thuế cao như xe đạp 75%, phụ tùng xe máy khai thành những loại hàng có mức thuế thấp như đồ chơi trẻ em 10%, vật liệu xây dựng 18%..) Gian lận thương mại chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ đã khiến cho nhiều doanh nhiệp Việt Nam tìm cách xuất khẩu (qua biên giới) những mặt hàng bị cấm, những mặt hàng quí hiếm gây xáo trộn thị trường, mất lòng tin, ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích quốc gia . d.Quản lý xuất nhập khẩu của cả hai nước, đặc biiệt là của Việt Nam còn nhiều yếu kém + Các văn bản pháp luật diều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc chưa đầy đủ, chưa phù hợp . +Quản lý cửa khẩu, hoạt động hải quan còn nhiều khó khăn và tiêu cực. + Gian lận thương mại diễn ra ở nhiều nơi trên dọc tuyến biên giới . e. Khả năng đáp ứng cũng như năng lực cạnh tranh của hàng hoá và của bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn hạn chế . Lượng hàng hoá Việt Nam xuất sang Trung Quốc còn nhỏ bé, tham chi co mặt hàng cung không đủ cầu . Một số mặt hàng từng được độc chiếm thị trường TQ nay đang phải cạnh tranh với một số đối thủ đáng gờm mới xuất hiện như hạt điều ấn Độ Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược xuất khẩu cụ thể theo mặt hàng, theo thị trường sang Trung Quốc Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin, từ đó dẫn đến nhiều doanh nghiệp thiếu hiểu biết cụ thể về thị hiếu người tiêu dùng, về thị trường và về các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc IV/ Nhận xét, đánh giá chung về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Những thành tựu trong quan hệ Việt Nam –Trung Quốc thời gian qua cho thấy lãnh đạo hai nước rất quyết tâm đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, nhằm góp phần phát triển công cuộc xây dựng kinh tế của mỗi nước đồng thời góp phần củng cố quan hệ hữu nghị toàn diện giữa hai dân tộc . Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được quan hệ kinh tế thương mại VN-TQ còn gặp rất nhiều khó khăn . 1/Vấn đề đầu tư - liên doanh - hợp tác . Hiện nay đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam so với các nước Đông Nam á còn thấp. Có một số lý do khiến cho đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam ít về dự án đầu tư đặc biệt là tổng kim ngạch đầu tư . Phía Trung Quốc cho rằng: Trung Quốc vẫn còn là nước đang phát triển, đang tiến hành xây dựng “Bốn hiện hoá” trên qui mô lớn nên cần thu hút nhiều đầu tư trực tiếp. Hơn nữa Lĩnh vực mà phía Việt Nam muốn thu hút đầu tư thì ở Trung Quốc lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó vẫn cần đầu tư . Nhưng theo em nhận thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong những năm qua còn ít là giới đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc chưa thực sự tin tưởng và coi trọng thị trường đầu tư ở Việt Nam. Thứ hai là trong những năm qua các nhà đầu tư Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư trực tiếp hầu như là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiền vốn có hạn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa thật tiên tiến và hiện đại, do đó sức cạnh tranh yếu, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn . Thứ ba, Qui mô các dự án đầu tư của Trung Quốc đã thực hiện tại Việt Nam thời gian qua là nhỏ, tính trung bình khoảng 2 triệu USD cho một dự án đầu tư, nhỏ hơn nhiều cho các dự án đầu tư của các nước khác tại Việt Nam . Thứ tư, về hình thức đầu tư, các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam 10 năm qua đều được triển khai dưới hai hình thức chủ yếu là dự án liên doanh với phía đối tác Việt Nam chiếm đa số và dự án 100% tiền vốn của phía các doanh nghiệp Trung Quốc. Thứ năm, như đã nêu ở trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư vào tương đối nhiều và đa dạng nhưng phần lớn đều thuộc vào ngành công nghiệp nhẹ, gia công chế biến sản phẩm nông lâm hải sản và sản xuất hàng tiêu dùng, kỹ thuật và công nghệ sản xuất đòi hỏi không cao lắm, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ ở trong nước, không cần nhiều tiền vốn đầu tư lại thu hồi vốn nhanh . Tuy nhiên cũng phải nhận định rằng, môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thật hấp dẫn và thông thoáng như chế độ giá cả, lệ phí đối với các doanh nghiệp liên doanh cao hơn đối với các doanh nghiệp trong nước ( giá quảng cáo chênh nhau đến 4-5 lần khiến các doanh nghiệp liên doanh gặp khó khăn trong việc quảng bá sản phẩm), cũng có thể là các đối tác liên doanh phía Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước có đặc trưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp không phải là các đối tác hấp dẫn các doanh nghiệp TQ... Đó đều là những lý do khiến Việt Nam thu hút chưa nhiều vốn đầu tư . Song nếu như người Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản ... vẫn vượt trở ngại đầu tư có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực tại Việt Nam thì có lẽ việc đầu tư TQ thấp còn lý do hai phía . Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra những gợi ý để các cấp, các ngành, chính quyền và các doanh nghiệp hai nước tham khảo. Nên chăng khuyến khích TQ hợp doanh với VN lập các doanh nghiệp khai thác và chế biến nguyên liêụ như sắt, nhôm, thiếc, than ... tại Việt Nam rồi vận chuyển sang tiêu thụ tại TQ, hoặc lập các doanh nghiệp sản xuất đồ gia dụng, máy móc, linh kiện xe máy, gia công nông sản phẩm... để tiêu thụ tại chỗ. 2/ Vấn đề xuất nhập khẩu buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch Sau khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, hàng xuất khẩu chủ yếu của VN sang TQ là nông sản và một vài loại khoáng sản. Các sản phẩm xuất khẩu nói chung là nguyên nhiên liệu thô chưa qua chế biến, hàng công nghiệp và chế biến chiếm tỉ lệ nhỏ. TQ nhập khẩu các loại nguyên liệu thô của VN phục vụ sản xuất cho các ngành sản xuất, chế biến trong nước. Sử dụng được giá lao động rẻ, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động và sản xuất thành phẩm xuất khẩu với hiệu quả cao. Cơ cấu mặt hàng trao đổi buôn bán giữa hai nước rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là buôn bán qua đường nhập khẩu chính thức và buôn bán tiểu ngạch qua biên giới theo đường chính thức hoặc không chính thức. Đối với Việt Nam trong khi cán cân buôn bán chính ngạch luôn nhập siêu thì cán cân tiểu ngạch laị luôn xuất siêu. Phía TQ có một chính sách nhất quán và mềm dẻo khuyến khích buôn bán qua biên giới với biện pháp chủ yếu là đánh thuế hàng xuất nhập khẩu thấp hơn so với đường chính ngạch. Ngược lại, chính phủ VN hiện đang thực hiện chính sách buôn bán chính ngạch và hạn chế buôn bán tiểu ngạch. Hoạt động buôn bán tiểu ngạch bị kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều ngành khác nhau. Cho đến nay, cơ cấu hàng VN xuất khẩu sang TQ đã có những biến chuyển bước đầu, tỉ lệ hàng nguyên liệu đã qua chế biến và hàng công nghiệp tiêu dùng đã tăng lên. Một số mặt hàng như cao su, dầu thô, hải sản, hàng rau quả, hạt điều, may mặc, giầy dép, than đá vẫn chiếm tỉ trọng đáng kể trong xuất khẩu của hai nước. TQ là khách hàng số một về cao su với xấp xỉ 40% lượng xuất khẩu, đứng thứ hai về mua than đá VN và là nhà tiêu thụ thuỷ sản thứ tư sau Nhật Bản, Hồng Kông, Mĩ. Còn hàng TQ sang VN là sắt thép, nông nghiệp cơ khí, thiết bị dụng cụ y tế, ngành dệt, phương tiện vận tải, dược liệu, thuốc bảo vệ thực vật, hàng tiêu dùng công nghệ. Cơ cấu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc (triệu USD Cơ cấu hàng hoá của Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam (triệu USD) Tuy nhiên có một thực trạng đáng lưu ý là hàng chế biến với trình độ và chất lượng trung bình hoặc thấp thậm chí có nhiều hàng là sản phẩm thứ cấp do công nghệ địa phương sản xuất. Với tình trạng như vậy song hàng TQ đã xâm nhập dễ dàng cả vào những trung tâm sản xuất hàng tiêu dùng của VN như thành phố Hồ Chí Minh. Chủng loại hàng hoá của TQ rất phong phú, sát thị hiếu. Hàng liên doanh trong nước tung ra sản phẩm gì TQ có ngay sản phẩm đó. Một vấn đề cũng cần lưu ý là hàng qua đường tiểu ngạch chủ yếu là hàng công nghiệp tiêu dùng như xe đạp, phụ tùng, đồ điện, điện tử, quần áo may sẵn...Do giá thành thấp lại được hưởng các chính sách ưu đãi xuất khẩu của TQ nên các loại hàng này có sức cạnh tranh rất mạnh trên thị trường VN gây ra nhiều tác động đến hàng sản xuất trong nước, kể cả khi có những chính sách bảo hộ. Hàng tiểu ngạch cũng là những loại hàng chủ yếu nằm trong luồng hàng nhập lậu và trốn thuế do khối lượng phân tán, phương thức đa dạng khó quản lý. Nói chung các mặt hàng mà phía TQ xuất sang VN trong những năm qua kể cả tiểu ngạch và chính ngạch rất phong phú và đa dạng có đến trên 200 nhóm và mặt hàng cụ thể, gấp đôi số mặt hàng mà VN xuất sang TQ. Mặc dù có những ảnh hưởng tiêu cực như đã nêu ở trên, sức ép của hàng TQ cũng có những ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới công nghệ, đầu tư phát triển của một số ngành của VN. Một số ngành đã phải vươn lên để tồn tại như dệt may, da giầy, xe đạp, bóng đèn, phích nước, bánh kẹo, bột giặt. Để tăng cường thương mại Việt - Trung về mặt xuất khẩu, VN nên xem trọng khía cạnh hợp tác, nhằm vào những mặt hàng ta có lợi thế so sánh, kết hợp hài hoà giữa ngoại thương chính ngạch với mậu dịch tiểu ngạch; xây dựng quan hệ lâu bền và tin cậy lẫn nhau. Với những mặt hàng xuất khẩu số lượng lớn phải có chiến lược phát triển ổn định. Hoàn thiện tuyến giao nhận kho để tăng cường hiệu quả xuất dầu thô và than. Thiết lập cầu hàng không chuyên chở thuỷ sản tươi sống thẳng từ thành phố Hồ Chí Minh sang TQ để tăng nhanh xuất khẩu mặt hàng này. 3/. ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO Đối với kinh tế Việt Nam và Quan Hệ Việt – Trung Trải qua cố gắng 15 năm, cuối cùng Trung Quốc đã bước vào cánh cửa lớn của Tổ chức Thương mại thế giới. Là một nước láng giềng của Trung Quốc, tiến hành cải cách sau Trung Quốc, Việt Nam rất quan tâm đến tiến trình gia nhập WTO của Trung Quốc, và ảnh hưởng của nó đối với kinh tế Việt Nam và quan hệ Trung – Việt. Vậy phải đánh giá chính xác vấn đề này như thế nào? Dưới đây xin đưa ra một vài ý kiến của cá nhân. V/. Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới tạo áp lực và thách thức nhất định đối với Việt Nam. 1. ảnh hưởng đối với thương mại Trung – Việt Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc được hưởng các chính sách ưu đãi mậu dịch đa phương của tổ chức này, nhất là ưu đãi về thuế quan và cắt bỏ hạn ngạch. Điều này sẽ tác động mạnh đến xuất khẩu của các ngành nghề truyền thống, nhất là các ngành tập trung nhiều lao động như ngành dệt, ngành may, giầy da, hoá chất của Trung Quốc; đồng thời Trung Quốc cũng mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao còn yếu kém ở các nước phát triển như hàng điện tử. Về lý luận, sự mở rộng xuất khẩu của Trung Quốc tất nhiên sẽ tạo nên áp lực nhất định đối với Việt Nam, nước có cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và bố cục thị trường khá giống Trung Quốc. Nhưng chúng ta không thể chỉ đơn giản nhìn vào hai nước đều xuất khẩu giầy dép, quần áo sang thị trường Âu Mỹ đã cho rằng sau khi Trung Quốc được hưởng ưu đãi về mặt thuế quan, tăng cường xuất khẩu sẽ cạnh tranh với hàng hoá Việt Nam . Hiện nay, sự gia tăng của hàng hóa Trung Quốc trong thời gian ngắn không thể ảnh hưởng đến kim ngạch hàng hoá tương tự của Việt Nam ở các nước Âu Mỹ. Về lâu dài, với tốc độ tăng trưởng khá cao hiện nay, hai nước sẽ thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cũng đang không ngừng điều chỉnh, thời gian tới không thể vẫn ở giai đoạn hàng hoá xuất khẩu cấp thấp và hàng hoá giá trị phụ gia thấp. Do vậy, đối với Trung Quốc và Việt Nam, nên suy nghĩ đến việc hình thành ưu thế hỗ trợ lẫn nhau trong tương lai như thế nào. Còn về thương mại Trung-Việt, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc không giống so với hàng hoá của các nước phương Tây, do đó sẽ không chịu ảnh hưởng của chúng. Có thể những mặt hàng như cao su, dầu thô, nguyên liệu... của Việt Nam sẽ đẩy mạnh xuất khẩu nhờ Trung Quốc mở rộng thị trường , thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại Trung - Việt hướng đến phát triển cao hơn, đi đầu trong việc xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN đến năm 2010, cố gắng sớm thành lập khu mậu dịch tự do Trung Quốc - Việt Nam, trước hết tìm một khu vực để hoạt động mậu dịch tự do là vô cùng quan trọng. 2. ảnh hưởng đối với thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam và đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam Gần đây, Trung Quốc đã tiến hành chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đãi ngộ thị trường ngày càng lớn, vì vậy thu hút đầu tư nước ngoài liên tục đứng đầu trong các nước đang phát triển; trong khi đó mấy năm gần đây đầu tư nước ngoài của Việt Nam lại giảm. Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO tất sẽ phải tuân theo cam kết trong đàm phán, mở cửa rất nhiều lĩnh vực kinh tế có dự báo lợi nhuận tương đối lớn mà trước đây bị hạn chế hoặc không mở cửa như ngân hàng, viễn thông, dịch vụ... hơn nữa dự báo tốt trong tương lai do thị trường rộng lớn và tốc độ tăng trường kinh tế nhanh của Trung Quốc mang lại sẽ thu hút vốn đầu tư lớn vào Trung Quốc. Có thể nói, thu hút đầu tư nước ngoài không có quan hệ với việc gia nhập WTO, vấn đề mấu chốt là ở mức độ thuận lợi và lợi nhuận hoặc là tương lai của nó, mức độ rủi ro và thu hồi vốn của môi trường đầu tư, có điều khác là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO thì mức độ mở cửa thị trường sẽ tăng lên, các qui tắc tương ứng sẽ tiếp cận hơn nữa với quốc tế, đây thực chất là đang chuyển một áp lực khách quan thành động lực và ưu thế. Việt Nam nên tích cực nghiên cứu về thu hút đầu tư của mình, cải thiện thủ tục hành chính rườm rà, chủ nghĩa quan liêu, tham ô, tham nhũng, tính tuỳ tiện của chính sách, thực hiện không triệt để, cơ sở hạ tầng còn kém, giá thành kinh doanh cao... hoàn toàn có thể chủ động mở cửa hơn nữa khi chưa gia nhập WTO, cải thiện môi trường đầu tư, như vậy vừa cải thiện tốt môi trường đầu tư vừa có thể giảm bớt tác động khi gia nhập WTO. Việt Nam chỉ cần tăng cường nghiên cứu vấn đề này, làm tốt một số công việc cụ thể, chính xác. Với thị trường không quá lớn như của Việt Nam, việc thu hút đầu tư nước ngoài không nhất thiết phải làm toàn diện, chỉ cần nắm vững mấy điểm này thì có thể kéo theo toàn cục. 3. ảnh hưởng đối với điều chỉnh và cải cách mở cửa Gia nhập WTO đã thúc đẩy cải cách mở cửa toàn diện của Trung Quốc. Có người tổng kết ảnh hưởng này là ảnh hưởng ngắn hạn đối với thương mại, ảnh hưởng trung hạn đối với cơ cấu kinh tế, ảnh hưởng dài hạn đối với thể chế. Đối với Việt Nam đang học tập kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc ở rất nhiều phương diện, ngoài ảnh hưởng về thương mại, đầu tư còn có vấn đề ở cấp độ sâu xa tương tự như điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Trong mục tiêu và xu thế gia nhập WTO chung hiện nay, cải cách mở cửa đã đẩy nhanh tốc độ dưới tác dụng hai chiều bị động và chủ động, phát triển cả độ rộng và chiều sâu. Cải cách mở cửa khá muộn, tiến triển tương đối chậm chạp của Việt Nam sẽ đứng trước áp lực mới, không thể không đẩy nhanh cải cách khiến rất nhiều vấn đề khi cải cách chậm chạp không bộc lộ thì nay sẽ bộc lộ nhanh chóng. VI/. Trung Quốc gia nhập WTO mang đến cơ hội cho Việt Nam áp lực và thách thức của việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy Việt Nam cải cách mở cửa nhanh chóng, phát triển kinh tế, từ đó tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển nhanh trong thế kỷ mới. Đối với mở cửa ở Việt Nam chậm hơn cải cách mở cửa ở Trung Quốc mức độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế thấp hơn Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây lại thấp hơn Trung Quốc. Bình quân tăng trưởng năm của Việt Nam từ 2000 - 2004 là 7,23% còn của Trung Quốc là 8,7%. Đối với Việt Nam, Việt Nam còn là 1 nước lạc hậu thì phải đẩy nhanh cải cách mở cửa, đẩy nhanh phát triển kinh tế mới. Vì vậy Đảng và Nhà nước đưa ra kế hoạch 5 năm mới và quy hoạch 10 năm của Việt Nam chính là quyết tâm đẩy nhanh phát triển kinh tế trong thế kỷ mới. Điều này cũng là dự báo cho một tương lai tốt đẹp. Sức kéo sau khi gia nhập WTO cùng với sự thúc đẩy của các nhu cầu trong nước và thế giới. Chiến lược khai thác phát triển miền Tây Trung Quốc sẽ thúc đẩy kinh tế Trung Quốc phát triển.Chiến lược này có thể là mấu chốt cho kinh tế Trung Quốc cất cánh trong bối cảnh kinh tế thế giới đang còn nhiều biến động. Thực hiện kế hoạch thành lập Khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN sẽ tạo thuận lợi cho việc hình thành môi trường nhỏ trong khu vực, tạo cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam. Gia nhập WTO thúc đẩy Trung Quốc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, Việt Nam có thể lợi dụng cơ hội này chủ động cùng điều chỉnh với Trung Quốc, đón nhận phát triển mới. Việt Nam đã đặt công cuộc xây dựng 1 đất nước phát triển là một vị trí vô cùng quan trọng, nhưng muốn thành công phải giải phóng tư tưởng hơn nữa, phải có biện pháp cải cách mạnh hơn, hiệu lực hơn mới có thể giải quyết vấn đề này. Về lý luận tất phải có đột phá lớn. Tóm lại, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đã tạo áp lực cũng như động lực, có thách thức cũng như cơ hội cho Việt Nam,đây là động lực chính và là mục tiêu chính của Đảng nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Chỉ cần hai nước cùng cố gằng phát triển mối quan hệ thì có thể tạo một cơ hội tốt để phát triển kinh tế Việt Nam và quan hệ thương mại Trung – Việt, làm cho nó phát triển đến mức cao hơn trong tương lai. Chương III: Phương hướng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại hai nước I/ Một số dự báo phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới Mặc dù còn nhiều tồn tại nhưng hoạt động ngoại thương giữa hai nước đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đặc biệt trong cuộc cạnh tranh với hàng Trung Quốc, nhiều sản phẩm của Việt Nam đã được nâng cao về chất lượng, đã cải tiến về mẫu mã và đã có những thị phần nhất định ở Trung Quốc. Nhiều h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7326.doc
Tài liệu liên quan