Luận văn Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giáo dục cho giáo viên các trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chuẩn nghề nghiệp

 Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục

và đào tạo. Qua hàng loạt công trình tổng kết thực tiễn, chúng ta nhận thức rằng,

trong những năn tới, chúng ta chỉ có thể phát triển kinh tế- xã hội khi dựa vào và

bằng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Vì thế Đảng và Nhà nước đã coi

giáo dục và đào tạo là một trong những quyết sách hàng đầu để xây dựng và phát

triển đất nước. Đảng ta đã khẳng định: “ Phát triển khoa học công nghệ cùng phát

triển giáo dục và đòa tạo là quốc sách hàng đầu” và “ Đầu tư cho giáo dục và đào

tạo là đầu tư cho phát triển”. Như vậy, sứ mệnh lịch sử của ngành Giáo dục và đào

tạo rất nặng nề và lớn lao. Tuy nhiên để thực hiện được sứ mệnh đó, Giáo dục và

đào tạo phải nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu, yếu kém hiện nay; phải theo

kịp với trình độ, xu thế phát triển, hội nhập của khu vực và thế giới, nhất là phải đáp

ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của sự nghiệp công nghiệp

hóa- hiện đại hóa đất nước.

pdf32 trang | Chia sẻ: phuongchi2019 | Lượt xem: 811 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giáo dục cho giáo viên các trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chuẩn nghề nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dục. - Chuẩn hóa đội ngũ là chuẩn hóa về các mặt: Vững vàng về chính trị, tư tưởng; gương mẫu về đạo đức; trong sạch về lối sống; có trí tuệ, kiến thức và năng lực thực tiễn; gắn bó chặt chẽ với nhân dân. 1.1.1 Về hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên THCS. Giáo viên là nhân tố chủ đạo quyết định chất lượng và hiệu quả GD & ĐT. Để có được đội ngũ GV đủ mạnh, đáp ứng được nhu cầu đổi mới GD hiện nay, công tác đào tạo bồi dưỡng GV có ý nghĩa quyết định để nâng cao chất lượng giáo dục. Từ trước đến nay, vấn đề đào tạo bồi dưỡng GV được coi là một mối quan tâm của nhiều nhà khoa học nên đã có không ít các công trình của tập thể và các cá nhân (trong và ngoài nước) nghiên cứu vấn đề này. Ở nước ngoài: Ở Hàn Quốc, việc bồi dưỡng GV là bắt buộc. Bồi dưỡng GV là đương nhiên nhằm trang bị cho GV lý luận và phương pháp luận về giáo dục để nâng cao khả năng và hiệu quả giảng dạy trong lớp học. Mỗi chương trình bồi dưỡng thường kéo dài 182 giờ. Các chương trình bồi dưỡng được thiết kế riêng cho từng đối tượng. Chương trình cũng được phân loại cho phù hợp với mục đích bồi dưỡng, bao gồm: Bồi dưỡng về soạn thảo chương trình giảng dạy; đào tạo số hoá thông tin, dữ liệu; Bồi dưỡng chung; bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, Những người thực hiện chương trình này sẽ quyết định nội dung và thời gian cho mỗi khoá bồi dưỡng. Nội dung bồi dưỡng thường chú ý đến những kiến thức mới, những phương pháp giảng dạy tiên tiến và phổ biến trên thế giới. [20]. Ở Nhật Bản, có quy chế bắt buộc bồi dưỡng hàng năm đối với GV phổ thông mới vào nghề. Giáo viên đương nhiệm được bồi dưỡng bằng nhiều hình thức, ở nhiều cấp với phương thức đổi mới, đa dạng. Chính sách đãi ngộ GV chủ yếu thể hiện qua lương, phụ cấp, trợ cấp. Mức tăng lương dựa vào thành tích và thâm niên công tác, trung bình 1 năm hoặc 2 năm một lần. [21]. Ở Pháp: Đất nước có truyền thống coi trọng nghề dạy học. Họ quan niệm: “Giảng dạy là một nghề đòi hỏi có trình độ chuyên sâu và được đào tạo về nghề nghiệp rất cao” [30, tr.21]. Việc BD GV ở Pháp được thực hiện theo 3 hướng chính: Coi trọng việc tự nâng cao trình độ nghề nghiệp của GV. Tạo ra sự phù hợp với công việc đối với tất cả GV đặc biệt là đối với GV dạy các môn mà lĩnh vực đó luôn có sự phát triển mạnh mẽ và các thiết bị trở nên lạc hậu. Định kì xác định những kiến thức sẽ phải đưa vào tổng thể chương trình bồi dưỡng để tổ chức BD GV. Có thể nói ở Pháp luôn có sự chú trọng tới vấn đề BDGV, bởi họ luôn mong muốn có đội ngũ GV có chất lượng cao nhằm đảm bảo mục tiêu, kế hoạch GD & ĐT. Nhìn chung nhiều nước trên thế giới quan tâm đến hoạt BDGV và có hệ thống BDGV từ trung ương đến địa phương. Hình thức BDGV tuỳ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia, xây dựng quy trình phù hợp, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ GV. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục”. [29, tr.114]. Ngay sau khi đất nước thống nhất, để đáp ứng yêu cầu của cải cách giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương cấp bách về việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GV theo nhiều loại hình khác nhau, đặc biệt là đội ngũ GVTHCS như: Đào tạo chính quy, tại chức, ngắn hạn và cấp tốc theo các hệ khác nhau: 7+2, 10+2, 10+3,... dẫn đến trình độ của giáo viên THCS không đồng đều. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước hết sức coi trọng sự phát triển giáo dục nhằm tạo động lực phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề đào tạo, BDGV có những chuyển biến tích cực nhằm dần dần chuẩn hoá đội ngũ này. Qua ba chu kì bồi dưỡng thường xuyên 1992-1996, 1997-2000, 2003-2007 đã phần nào khẳng định được những kinh nghiệm bổ ích về hoạt động nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ GV phổ thông nói chung và GV THCS nói riêng. Bồi dưỡng giáo viên là công tác được Bộ GD&ĐT coi trọng và quan tâm chú ý trong nhiều năm qua. Công tác đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện hết sức linh hoạt, đa dạng, phong phú: đào tạo mới, đào tạo nâng chuẩn, trên chuẩn, bồi dưỡng thường xuyên theo chu kì, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, bồi dưỡng thay sách, 1.1.2. Về quản lý hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên THCS. Trong những năm gần đây, Chính phủ, Bộ Giáo dục và đào tạo đã có nhiều đề án , nhiều giải pháp nhằm tăng cường chỉ đạo phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Thủ tướng chính phủ đã ban hành “ Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020” (QĐ số 711/ QĐ- TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ) và đề án “ Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010” (QĐ số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ). Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu chủ yếu về mặt lý luận như: Quản lý và chức năng quản lý; Về tiêu chuẩn và các phẩm chất cần có của người quản lý; Vai trò của hiệu trưởng trường THCS; Về sự liên hệ giữa khoa học quản lý và khoa học khác. Trong các công trình đó các tác giả đã nhấn mạnh vai trò của quản lý trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Các nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục như: Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo, Bùi Minh Hiền, Trần Kiểm, Nguyễn Văn Lê...Các tác giả cũng đã nêu lên những nguyên tắc chung trong việc quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng đối với giáo viên như sau: -Giáo viên bộ môn chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng nói riêng và Nhà nước nói chung về chất lượng giảng dạy, giáo dục đối với học sinh lớp mình phụ trách. - Khẳng định trách nhiệm của mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp trước hiệu trưởng và Nhà nước về thực hiện các nhiệm vụ trong điều lệ trường phổ thông. - Giúp đỡ thiết thực và cụ thể cho giáo viên để họ hoàn thành tốt các nhiệm vụ của mình. Các tác giả đã chỉ rõ một số biện pháp quản lý: Để nâng cao chất lượng dạy học tác giả Nguyễn Văn Lê đã đề cập đến các biện pháp phòng ngừa, khắc phục hiện tượng HS học kém, các biện pháp giáo dục tư tưởng chính trị cho GV và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để xây dựng và phát triển đội ngũ GV. Để xây dựng và phát triển đội ngũ GV tác giả Bùi Minh Hiền đã quán triệt các yêu cầu nguồn nhân lực trong cuốn “Quản lý giáo dục” Nhà xuất bản Đại học sư phạm 2006 như sau: - Đủ về số lượng: Số lượng giáo viên nhìn trên sự điều hành vĩ mô phải cân đối với lao động xã hội trong nền kinh tế. - Đồng bộ về cơ cấu: Được xét trên các sự tương thích về giới nam nữ, tương thích về giảng dạy bộ môn, tương thích về tuổi đời, tương thích về trình độ nghiệp vụ sư phạm. Trong công tác quản lý và lãnh đạo nhà trường, tác giả Trần Kiểm đã bày tỏ quan điểm của mình: “ Người hiệu trưởng quản lý và lãnh đạo toàn diện: các hoạt động giáo dục trong nhà trường; phát triển đội ngũ giáo viên; nhân viên giáo dục; tổ chức bộ máy; tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; phát triển, sử dụng , bảo quản, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục của nhà trường; quản lý sử dụng ngân sách giáo dục, tổ chức nghiên cứu khoa học giáo dục... ” trong cuốn “ Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo dục, Nhà xuất bản Đại học sư phạm, 2008”[13;269]. Tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nhiều luận văn thạc sỹ của học viên đã đi sâu nghiên cứu tình hình, thực trạng của đội ngũ giáo viên, giảng viên ở một số cơ sở giáo dục, đề xuất nhiều giải pháp quan trọng nhằm phát triển đội ngũ giáo viên của cơ sở. Đó là các công trình: - Các giải pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên của trường THPT chuyên Chu Văn An tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay ( Luận văn thạc sỹ QLGD của tác giả Hà Thị Khánh Vân, ĐHSP Hà Nội – Trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo, 2005) . - Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay (Luận văn thạc sỹ QLGD của tác giả Nguyễn Tiến Dũng, khoa sư phạm–ĐHQG Hà Nội) . - Biện pháp quản lý giáo viên trường THPT Thịnh Long tỉnh Nam Định đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học (Luận văn thạc sỹ QLGD của tác giả Phạm Thị Ngọc, ĐHGD- ĐHQG Hà Nội) . Các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục đã nêu lên biện pháp quản lý của hiệu trưởng, song mới chỉ đề cập đến những biện pháp chung trong nhà trường phổ thông. Một số tác giả của các luận văn thạc sỹ chuyên ngành khoa học quản lý giáo dục đã đề cập đến các giải pháp bồi dưỡng GVTHCS. Luận văn đã nghiên cứu hoạt động quản lý của Hiệu trưởng trong việc bồi dưỡng GV; Bồi dưỡng và phát triển đội ngũ GVTHCS theo CNN; Bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ GVTHCS theo CNN; Quản lý giáo viên trường THCS theo CNN. Nhưng ít ai đề cập đến quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực giáo dục cho GV THCS theo CNN. Với quan điểm coi năng lực giáo dục là một bộ phận không thể thiếu của nghề dạy học, trước hiện trạng hoạt động giáo dục ở các trường THCS Huyện Yên Lập, Tỉnh Phú Thọ, tôi đã chọn nghiên cứu tập trung vào bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng năng lực giáo dục cho giáo viên các trường THCS trên địa bàn huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chuẩn nghề nghiệp. 1.2. Một số khái niệm cơ bản: 1.2.1. Quản lý. Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to lớn. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển điều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và điều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó. Theo F.W.Taylor (1856-1915): “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. [14, tr.11-12]. Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong suốt quá trình lao động”. [26, tr.8]. Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận động tối đa các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra”. [13, tr.1]. Từ các định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ, chúng ta thấy rằng tất cả các tác giả đều thống nhất về vấn đề cốt lõi của khái niệm quản lý, đó là trả lời câu hỏi: Ai quản lý? (chủ thể quản lý); quản lý ai? quản lý cái gì? (khách thể quản lý); quản lý như thế nào? (phương thức quản lý); quản lý bằng cái gì? (công cụ quản lý); quản lý nhằm làm gì (mục tiêu) và từ đó chúng ta cũng nhận thức được: Bản chất của quản lý là những hoạt động của chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý để đảm bảo cho hệ thống tồn tại, ổn định và phát triển lâu dài, vì mục tiêu và lợi ích của hệ thống. Chúng ta có thể hiểu khái niệm quản lý theo nghĩa chung nhất: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý bằng những công cụ, phương pháp mang tính đặc thù trong việc thực hiện các chức năng quản lý để đạt được mục tiêu đề ra. Bốn chức chức năng cơ bản của quản lý: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra có quan hệ chặt chẽ, biện chứng, bổ sung cho nhau tạo thành một chu trình quản lý. Trong chu trình đó yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn với vai trò vừa là điều kiện vừa là phương tiện để thực hiện các chức năng quản lý. 1.2.2. Quản lý giáo dục. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”. [31, tr.35]. Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”. [3, tr.8]. Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “ Quản lý giáo dục là quản lý trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. [23, tr.26]. Như vậy, quản lý giáo dục được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong lĩnh vực giáo dục, nói một cách rõ ràng đầy đủ hơn, quản lý là hệ thống những tác động có mục đính, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục. Phương pháp quản lý nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển của xã hội. 1.2.3. Quản lý nhà trường. Quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhà trường đến đối tượng quản lý, thực hiện mục tiêu kế hoạch đào tào của nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục”. 1.2.4. Các chức năng quản lý. Chức năng quản lý ở trường THCS: Chức năng quản lý là các dạng hoạt động khác nhau của hoạt động quản lý, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. “Tổ hợp các chức năng quản lý sẽ tạo nên nội dung của quá trình quản lý, nội dung lao động của đội ngũ CBQL, là cơ sở cho việc phân công lao động quản lý giữa những người CBQL và là nền tảng để hình thành và hoàn thiện cấu trúc tổ chức của sự quản lý” [39, tr.55]. Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lý trường học là hệ thống gồm bốn chức năng cơ bản được thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau: Kế hoạch hóa hoạt động; Tổ chức thực hiện hoạt động; Chỉ đạo việc thực hiện hoạt động và kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho các hoạt động đạt tới các mục tiêu của tổ chức. Trong chu trình quản lý, cả bốn chức năng trên phải được thực hiện liên tiếp, đan xen vào nhau; phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối từ chu kỳ này sang chu kỳ sau theo hướng phát triển. Trong đó yếu tố thông tin luôn giữ vai trò xuyên suốt, không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở cho việc ra quyết định quản lý. Có thể biểu diễn mối liên hệ này qua sơ đồ sau: LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TRA TỔ CHỨC Hình 1. Sơ đồ quan hệ giữa các chức năng quản lý 1.2.5. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học là hệ thống các yêu cầu cơ bản đối với giáo viên trung học về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. - Chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS gồm 6 tiêu chuẩn với 25 tiêu chí. - Tiêu chuẩn là quy định về những nội dung cơ bản, đặc trưng thuộc mỗi lĩnh vực của chuẩn. - Tiêu chí là yêu cầu và điều kiện cần đạt được ở một nội dung cụ thể của mỗi tiêu chuẩn. - Minh chứng là các bằng chứng (tài liệu, tư liệu, sự vật, hiện tượng, nhân chứng) được dẫn ra để xác nhận một cách khách quan mức độ đạt được của tiêu chí. Nội dung của Tiêu chuẩn 4 Năng lực giáo dục ( ban hành tại Thông tƣ số 30/2009/TT- BGDĐT): Tiêu chuẩn 4: Năng lực giáo dục 1. Tiêu chí 16. Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục Kế hoạch các hoạt động giáo dục được xây dựng thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế, thể hiện khả năng hợp tác, cộng tác với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. 2. Tiêu chí 17. Giáo dục qua môn học LÃNH ĐẠO Thực hiện nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ thông qua việc giảng dạy môn học và tích hợp các nội dung giáo dục khác trong các hoạt động chính khoá và ngoại khoá theo kế hoạch đã xây dựng. 3. Tiêu chí 18. Giáo dục qua các hoạt động giáo dục Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng. 4. Tiêu chí 19. Giáo dục qua các hoạt động trong cộng đồng Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua các hoạt động trong cộng đồng như: lao động công ích, hoạt động xã hội... theo kế hoạch đã xây dựng. 5. Tiêu chí 20. Vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục Vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục học sinh vào tình huống sư phạm cụ thể, phù hợp đối tượng và môi trường giáo dục, đáp ứng mục tiêu giáo dục đề ra. 6. Tiêu chí 21. Đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh Đánh giá kết quả rèn luyện đạo dực của học sinh một cách chính xác, khách quan, công bằng và có tác dụng thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của học sinh. 1.2.6. Năng lực. Năng lực: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động [37]. Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả [28]. Năng lực có thể chia thành 2 loại cơ bản, chúng bổ sung, hỗ trợ nhau, đó là năng lực chung và năng lực riêng biệt: - Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác như những thuộc tính về thể lực, trí tuệ. - Năng lực riêng biệt hay năng lực chuyên môn riêng biệt là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao. Như vậy, có hai quan điểm về sự hình hành và phát triển của năng lực. Quan điểm thứ nhất cho rằng năng lực, đặc biệt là tài năng của con người mang tính bẩm sinh, tuy nhiên số người mang năng lực bẩm sinh thường không nhiều. Quan điểm thứ hai cho rằng năng lực hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn của con người. Nó là kết quả của quá trình giáo dục, tự rèn luyện của cá nhân [8]. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng quan điểm cho rằng năng lực là kết quả của quá trình giáo dục, tự phấn đấu và rèn luyện. 1.2.7. Hoạt động bồi dưỡng Bồi dưỡng: Khái niệm bồi dưỡng được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau: Theo Đại Từ điển Tiếng Việt cho rằng: “Bồi dưỡng là làm cho khỏe thêm, mạnh thêm” [50]. UNESCO định nghĩa: Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao trình độ nghề nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp [29]. Bồi dưỡng theo nghĩa rộng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn. Theo nghĩa hẹp là trang bị thêm kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong lĩnh vực cụ thể [16]. Tóm lại, bồi dưỡng là bổ sung, cung cấp thêm những thiếu hụt về tri thức, cập nhật thêm cái mới trên cơ sở những cái cũ đã có nhằm mở mang có hệ thống những tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả trong quá trình lao động. Bồi dƣỡng giáo viên: Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, “bồi dưỡng GV là việc nâng cao, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho các GV đang dạy học”; bên cạnh đó, “bồi dưỡng GV là sự tiếp tục phát huy năng lực tự học, tự đào tạo đã được tạo ra ở quá trình đào tạo ban đầu theo hình thức bồi duỡng từ xa, theo định hướng “tự đào tạo để dạy HS tự học” [20]. Tác giả Nguyễn Minh Đường quan niệm: “Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật những kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường xác nhận bằng một chứng chỉ” [29]. Trong bài quản lý nhân sự trong giáo dục - đào tạo, tác giả Mạc Văn Trang có nêu: “Bồi dưỡng GV là nâng cao trình độ về kiến thức và kỹ năng của GV lên một bước mới” [29]. Bồi dưỡng GV là làm tăng thêm trình độ hiện có của đội ngũ GV (cả về phẩm chất, năng lực, sức khỏe) với nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Bồi dưỡng không đòi hỏi chặt chẽ, chính quy như đào tạo và được thực hiện trong thời gian ngắn. Như vậy, chủ thể bồi dưỡng là giáo viên đã được đào tạo và đã có một trình độ chuyên môn nhất định. Bồi dưỡng GV là quá trình bổ sung kiến thức, kỹ năng (những nội dung liên quan đến nghề nghiệp) để nâng cao trình độ trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn nhất định, giúp GV có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công việc đang làm. Như vậy, bồi dưỡng GV là bổ sung những kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, cập nhật thêm những tri thức mới về các lĩnh vực của khoa học giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ GV nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp trồng người. 1.3. Lý luận về hoạt động giáo dục Hoạt động giáo dục: Sự hình thành và phát triển nhân cách con người chịu tác động của nhiều yếu tố như di truyền, môi trường, giáo dục và quan trọng nhất là hoạt động của cá nhân – hình thức biểu hiện quan trọng nhất các mối quan hệ tích cực, chủ động của con người với thực tiễn xung quanh. Hoạt động còn là phương thức tồn tại đồng thời là điều kiện, là phương tiện, là con đường hình thành và phát triển nhân cách của con người, trong đó hoạt động giáo dục giữ vai trò chủ đạo, được thể hiện ở 2 cấp độ: - Theo nghĩa rộng: Hoạt động giáo dục là loại hình giáo dục đặc thù của xã hội loài người nhằm tái sản xuất những nhu cầu và năng lực của con người để duy trì phát triển xã hội, để hoàn thiện các mối quan hệ xã hội thông qua các hình thức, nội dung, biện pháp tác động có hệ thống, có phương pháp, có chủ định đến đối tượng nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách trên tất cả các mặt đức, trí, thể, mĩ. - Theo nghĩa hẹp: Hoạt động giáo dục của nhà giáo dục được tổ chức theo kế hoạch chương trình nhằm hình thành nhân sinh quan, phẩm chất đạo đức, đồng thời bồi dưỡng thị hiếu thẩm mĩ và phát triển thể chất của học sinh thông qua hệ thống tác động sư phạm tới tư tưởng, tình cảm, lối sống của các em kết hợp với các biện pháp giáo dục gia đình và xã hội, phát huy mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế, tiêu cực trong suy nghĩ và hành động của người học. Có thể nói, các hoạt động giáo dục trong nhà trường được xác định theo mục tiêu giáo dục. 1.4. Lý luận về bồi dƣỡng và quản lí hoạt động bồi dƣỡng giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp. - Xác định các lĩnh vực cần bồi dưỡng: Đây là khâu đầu tiên nhưng có vai trò rất quan trọng trong kế hoach hóa công tác bồi dưỡng giáo viên trung hoc theo chuẩn. Theo lý thuyết của “Quản lý sự thay đổi trong giáo dục” thì “trạng thái mong muốn” của đội ngũ giáo viên trung học đã được xác định rõ ràng qua các tiêu chí, yêu cầu của chuẩn đã đặt ra. Qua kết quả đánh giá giáo viên trung học theo Chuẩn, có nghĩa là biết được “Trạng thái hiện hành” ta xác định được “ Khoảng cách cần rút gọn”. Dó chính là lĩnh vực cần bồi dưỡng và cụ thể hơn là yêu cầu nào, tiêu chí nào trong Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cần được quan tâm. Kết quả của câu hỏi này đối với mỗi địa phương, mỗi nhà trường và mỗi giáo viên là rất khác nhau vì “Khoảng cách cần rút gọn” của mỗi giáo viên, mỗi nhà trường là rất khác nhau. Chính vì thế xác định các lĩnh vực cần bồi dưỡng là cơ sở cho việc xây dựng chương trình, kế hoạch tự rèn luyện, tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên. - Xác định nội dung, hình thức bồi dưỡng: + Cũng theo lý thuyết “Quản lý sự thay đổi trong giáo dục” thì xác định nội dung, hình thức bồi dưỡng là xác định lộ trình để đi đến “trạng thái mong muốn”. Do đó “Khoảng cách cần rút gọn” ở mỗi địa phương, mỗi nhà trường và mỗi GV là khác nhau cho nên lộ trình cũng phải khác nhau. Từ việc xác định lĩnh vực cần bồi dưỡng, các nhà quản lý giáo dục và mỗi giáo viên lựa chọn nội dung cần bồi dưỡng cho phù hợp. + Hình thức bồi dưỡng cần phong phú, linh hoạt dưới nhiều hình thức phù hợp với nội dung bồi dưỡng như: Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn theo chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn liên trường, hội giảng, hội thảo, tự bồi dưỡng - Tổ chức bồi dưỡng tại chỗ, tự bồi dưỡng: Đây là một hình thức bồi dưỡng rất quan trọng và cần được nhấn mạnh vì nó có tính quyết định trong việc đem lại hiệu quả bồi dưỡng cho mỗi GV. Bởi vì hoạt động bồi dưỡng trong nhà trường có nhiều ưu điểm: đó là sự cơ động, linh hoạt về thời gian, nội dung bồi dưỡng cụ thể, thiết thực, hình thức bồi dưỡng phù hợp đối tượng. Hoạt động tự bồi dưỡng gắn liền với hoạt động tác nghiệp của giáo viên, đáp ứng kịp thời những yêu cầu thiếu hụt cần bổ sung bồi dưỡng của giáo viên. - Kiểm tra, đánh việ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf05050002830_369_2003016.pdf
Tài liệu liên quan