Luận văn Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam

MỤC LỤC

 Danh mục chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

Lời mở đầu

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM 1

1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1

1.1.1. Khái niệm rủi ro 1

1.1.2. Phân loại rủi ro 1

1.2. Kiểm toán nội bộ 4

1.2.1 Khái niệm kiểm toán nội bộ 4

1.2.2. Mục tiêu, nguyên tắc và phạm vi kiểm toán nội bộ 7

1.2.3. Nội dung hoạt động của Kiểm toán nội bộ 8

1.2.4. Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ 9

1.3. Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro trong NHTM 10

1.3.1. Quản lý rủi ro 10

1.3.2. Tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng 12

1.3.3. Chuẩn mực quản lý rủi ro đang được áp dụng 12

1.3.4. Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro 15

1.4. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tại ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc 16

1.4.1. Chính sách quản lý rủi ro 16

1.4.2. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro và quy trình quản lý rủi ro 17

1.4.3. Bài học kinh nghiệm áp dụng cho các NHTM Việt Nam 19

Tóm lược chương 1 20

 

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM 21

2.1 . Khái quát về Ngân hàng TMCP Phương Nam 21

2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 21

2.1.2. Một số thành tựu đến cuối năm 2007 22

2.1.3. Sứ mệnh – Tầm nhìn – Chiến lược hoạt động 23

2.2. Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 26

2.2.1. Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam từ năm 2005 đến tháng 6/2008 26

2.2.2. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam .29

2.2.3. Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro tín dụng thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ 36

2.3. Thực trạng về rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam 37

2.3.1. Điểm qua một vài thời điểm khó khăn về thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam và nguyên nhân phát sinh. 37

2.3.2. Thực trạng khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam 40

2.3.3. Một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng khó khăn thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam trong thời gian qua 41

2.3.4. Khả năng xảy ra rủi ro thanh khoản trong thời gian tới. 43

2.4. Thực trạng về rủi ro lãi suất tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 44

2.4.1. Diễn biến lãi suất từ năm 2005 đến tháng 06/2008 44

2.4.2. Ảnh hưởng của việc biến động lãi suất và nguyên nhân phát sinh rủi ro 48

2.4.3. Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro lãi suất thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ . 51

2.5. Thực trạng rủi ro từ những tỷ lệ an toàn đảm bảo trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam

2.5.1. Điểm qua một số tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam 51

2.5.2. Những điểm phù hợp, chưa phù hợp với chuẩn mực của Việt Nam và thông lệ quốc tế. 52

2.6. Những rủi ro khác 54

2.7. Đánh giá chung về vấn đề nhận diện rủi ro từ công tác kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Phương Nam 54

2.7.1. Ưu điểm của kiểm toán nội bộ trong việc nhận diện và quản lý rủi ro tại ngân hàng Phương Nam 56

2.7.2. Nhược điểm của công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 57

Tóm lược chương 2 62

 

 

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM 63

3.1. Giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam 63

3.1.1. Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam 63

3.1.2. Các giải pháp hỗ trợ khác 72

3.2. Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước 82

3.2.1. Giải pháp về công tác kiểm toán nội bộ tại NHTM 82

3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ công tác kiểm toán nội bộ tại các NHTM 84

3.3. Giải pháp đối với các cơ quan khác 86

Tóm lược chương 3 87

Kết luận

 

doc101 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2362 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian qua chưa cao. Đối với hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam: trong quá trình giám sát từ xa và kiểm toán trực tiếp tại đơn vị đã phát hiện một số sai phạm và đưa ra các khuyến cáo để đơn vị thực hiện chỉnh sửa. Song, có thể nói bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng Phương Nam vẫn chưa thực hiện hết chức năng và quyền hạn của mình trong việc phòng ngừa và phát hiện rủi ro có thể phát sinh, cũng như khắc phục những rủi ro đã tồn tại theo đúng như chức năng nhiệm vụ được quy định trong quy chế hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Phương Nam quy định. Tóm lại, đối với riêng Ngân hàng Phương Nam, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay và phụ thuộc vào hệ thống văn bản, quy định hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng, đạo đức của họ và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Hệ thống các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ tín dụng phụ thuộc vào bộ phận soạn thảo văn bản tại Hội sở chưa tạo được một hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc và thống nhất. Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro tín dụng thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Hội đồng quản trị và Ban Tổng Giám đốc Ngân hàng Phương Nam đã ban hành nhiều quy trình, quy chế về tín dụng để hạn chế rủi ro phát sinh và quản lý những rủi ro đang tồn tại. Các văn bản này quy định những vấn đề cơ bản, tạo cơ sở hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo chiến lược, mục tiêu hoạt động của ngân hàng Phương Nam, đảm bảo tuân thủ các quy định của ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, các quy trình, quy định này vẫn còn một số bất cập cần sửa đổi để hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ngày càng hoàn thiện hơn, hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý rủi ro tín dụng. Trong năm 2007, Ngân hàng Phương Nam đã thành lập Phòng Quản lý tín dụng nhằm chuyên nghiệp hoá hoạt động quản lý tín dụng. Sau gần 1 năm hoạt động hiện tại phòng quản lý tín dụng đã được sáp nhập với Trung tâm xét duyệt tín dụng và đổi tên thành Phòng quản lý các chi nhánh. Tuy nhiên, Phòng quản lý tín dụng (nay là Bộ phận Quản lý các chi nhánh của phòng Quản lý các chi nhánh) chưa thật sự phát huy tác dụng cũng như thực hiện các chức năng và nhiệm vụ được quy định trong Quy chế tổ chức và hoạt động. Công việc chủ yếu chỉ là tổng hợp các báo cáo từ các đơn vị, định kỳ và đột xuất gửi Ngân hàng Nhà nước hoặc báo cáo cho Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc khi có yêu cầu. Chưa có những đề xuất cũng như cảnh báo về tình hình tín dụng tại các đơn vị, chưa hỗ trợ, phối hợp với phòng KTKSNB&PC trong việc phát hiện kịp thời và khuyến cáo các đơn vị về chất lượng tín dụng. Tóm lại, rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam xuất phát từ những nguyên nhân trên. Trong đó, thực hiện tốt các biện pháp về đào tạo và bố trí cán bộ nhân viên, cơ chế kiểm tra giám sát hành vi của cán bộ nhân viên ngân hàng trong quá trình xử lý công việc là coi như ngân hàng đã đi được một nửa chặng đường để quản lý tín dụng. Thực trạng về rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam: Điểm qua một vài thời điểm khó khăn về thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam và nguyên nhân phát sinh. Trong suốt thời gian hoạt động của Ngân hàng Phương Nam tình trạng căng thẳng thanh khoản không thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, có những sự kiện làm xôn xao dư luận, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của Ngân hàng trong một vài thời điểm nhất định do khách hàng đến rút tiền đông hơn bình thường. Vào tháng 7 năm 2005, tại Ngân hàng Phương Nam - Phòng giao dịch số 1 Hà Nội cho vay tiêu dùng đối với cán bộ nhân viên tại một số đơn vị. Tuy nhiên sau đó có đơn kiện về việc hơn 40 giáo viên của trường tiểu học Xuân Giang huyện Sóc Sơn có tên đứng vay tại Ngân hàng Phương Nam nhưng thực chất là họ không nhận được tiền. Sự việc xảy ra vào ngày 22/07/2005 sau khi bản tin thời sự trên VTV3 vào tối hôm trước đã phát tin về việc có dấu hiệu lừa đảo tại Ngân hàng Phương Nam. Người dân Hà Nội đã hoang mang và đến chi nhánh Ngân hàng Phương Nam tại Hà Nội rút tiền tiết kiệm trước hạn. Tuy nhiên vụ việc chỉ diễn ra trong vòng 1 ngày (22/07/05) và nhanh chóng được Ban giám đốc chi nhánh Hà Nội, phối hợp với đại diện Ngân hàng Nhà nước tại Hà Nội và bảo hiểm tiền gửi giải quyết. Người dân đa số là đến tìm hiểu thông tin hơn là đến rút tiền. Bởi thực chất, khả năng thanh khoản của Ngân hàng Phương Nam tại thời điểm đó rất an toàn (quỹ dự phòng xử lý rủi ro tại thời điểm đó là 30 tỷ đồng). Đồng thời, sáng hôm xảy ra sự việc, chi nhánh Ngân hàng Phương Nam tại Hà Nội đã rút 53 tỷ đồng từ tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước đề phòng trường hợp khách hàng đến rút tiền quá nhiều; trong khi tổng dư nợ đến thời điểm đó của các khoản vay tiêu dùng tại trường tiểu học Xuân Giang chỉ khoảng 500trđ. Sự việc nhanh chóng được ổn định nhưng cũng đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như khả năng thanh khoản của Ngân hàng Phương Nam trong một thời gian nhất định. Cho đến năm 2008, sự kiện nổi bật trong những ngày đầu năm 2008 là việc Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Phương Nam bị bắt vì tội đe dọa giết người. Có thể nói vụ việc đó đã ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam trong khoảng ba ngày. Do đã chuẩn bị sẵn những phương án đối phó nên Hội đồng Quản trị Ngân hàng Phương Nam, được sự giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, đã nhanh chóng ổn định tình hình và kịp thời trấn an khách hàng, nên việc rút tiền chỉ làm giảm lượng tiền gửi trong một khoảng thời gian chứ không làm mất khả năng thanh khoản của Ngân hàng Phương Nam. Khoảng hơn một tháng sau sự kiện đó, Ngân hàng Phương Nam bước vào cuộc đua lãi suất huy động vào những ngày cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 2008. Lãi suất liên tục tăng nhanh từng ngày. Trong khoảng thời gian đó, Ngân hàng Phương Nam nói riêng và các Ngân hàng thương mại khác nói chung đều bị ảnh hưởng bởi tình trạng tiền gửi chạy lòng vòng và các sổ tiết kiệm được tất toán trước hạn. Với mức lãi suất huy động trung bình so với mặt bằng lãi suất chung trên thị trường, các đơn vị của Ngân hàng Phương Nam đã rất khó khăn để giữ khách hàng trước sự lôi kéo và mức lãi suất quá hấp dẫn của một số ngân hàng thương mại khác. Cũng trong thời điểm đó, thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước ra thông báo tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% cho tất cả các loại tiền gửi; đồng thời quyết định buộc các Ngân hàng thương mại phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, trong đó Ngân hàng Phương Nam phải mua 250 tỷ đồng tín phiếu. Đối với hầu hết các ngân hàng thì việc mua tín phiếu bắt buộc trong thời điểm đó đã là khó khăn khi mà nguồn vốn huy động đang có nguy cơ sụt giảm. Riêng tại Ngân hàng Phương Nam khó khăn đó càng tăng lên gấp bội do vẫn chưa khắc phục được hậu quả của sự kiện “riêng có” tại Ngân hàng Phương Nam vừa xảy ra trước đó. Thêm ảnh hưởng của tình hình chung khiến khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam một lần nữa rơi vào tình trạng căng thẳng. Khó khăn chồng chất khó khăn. Các sự kiện xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn đã làm cho lượng vốn huy động của Ngân hàng Phương Nam tính đến cuối quí I năm 2008 giảm đáng kể. Tuy nhiên, điều này chỉ làm trạng thái thanh khoản căng thẳng chứ không làm mất khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam do tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam trong từng thời kỳ vẫn đảm bảo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, cộng với việc Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo Ngân hàng đã có những bước đi đúng đắn và kịp thời nên tình hình đã dần dần đi vào ổn định. Các sự kiện phần lớn xảy ra trong khoảng thời gian ngắn và Ngân hàng Phương Nam cũng đã có những phương án xử lý kịp thời để đáp ứng nhu cầu vốn tại thời điểm đó. Vấn đề khó khăn là việc lấy lại uy tín cho ngân hàng, khắc phục hậu quả của những sự việc đó cũng như củng cố lòng tin của người dân vào Ngân hàng Phương Nam nói riêng và cả hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam nói chung. Thực trạng khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam Điểm qua chỉ tiêu tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam tại các thời điểm như sau: Bảng 2.4: Tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam Ngày Tỷ lệ khả năng chi trả 31/12/2005 1,20 31/12/2006 1,25 31/12/2007 1,25 30/06/2008 1,25 (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam) Như vậy, tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam trong thời điểm kết thúc các năm tài chính 2005, 2006, 2007 đảm bảo đúng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản Có có thể thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo và các tài sản Nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo). Như vậy, việc đảm bảo khả năng thanh khoản vẫn nằm trong tầm kiểm soát của ban quản trị Ngân hàng Phương Nam. Tuy nhiên, các số liệu chỉ mang tính thời điểm do việc lấy số liệu căn cứ vào bảng cân đối kế toán cuối kỳ. Trong thực tế, tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời vẫn xảy ra trong một vài thời điểm. Giải pháp nhanh nhất Ngân hàng Phương Nam thực hiện để đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong thời điểm này là vay qua đêm, vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn có chi phí cao, lại dễ đưa ngân hàng đến tình trạng tiếp tục thiếu hụt thanh khoản vào ngày đáo hạn. Trong khi đó, việc duy trì các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao như các loại công trái, tín phiếu chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu chính phủ vẫn chưa được ngân hàng quan tâm sử dụng đúng mức vì tỷ suất sinh lợi của các loại chứng khoán này rất thấp. Một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng khó khăn thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam trong thời gian qua: Nguyên nhân khách quan: do tình hình kinh tế vĩ mô và những chính sách điều tiết của Ngân hàng Nhà nước, cụ thể: Tốc độ lạm phát cuối năm 2007 tăng cao nhất trong vòng 15 năm trở lại đây (12,63%), và ngày càng tăng cao trong những tháng đầu năm 2008; cộng với việc Ngân hàng Nhà nước cùng lúc sử dụng nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã làm cho Ngân hàng Phương Nam cũng như hầu hết các ngân hàng thương mại khác gặp khó khăn. Tính liên kết hệ thống giữa các ngân hàng thương mại để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu; không có sự liên kết thống nhất trong việc xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro, chia sẻ các thông tin giữa các ngân hàng thương mại; tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá”, đòi tăng lãi suất hoặc rút tiền chuyển sang các ngân hàng thương mại khác, dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống các ngân hàng thương mại. Việc khách hàng rút tiền từ ngân hàng này sang gửi ở ngân hàng khác hoặc rút tiền để mua vàng, ngoại tệ mạnh để tích trữ…đã làm tăng tính bất ổn của thị trường nội và ngoại tệ, gây khó khăn cho chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước “có lẽ” chưa dự đoán hết được mối quan hệ quá chặt chẽ giữa việc rút tiền khỏi lưu thông nhằm chống lạm phát, bằng việc phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, và rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại. Kết quả là muốn giữ cho hệ thống ngân hàng không lâm vào tình trạng mất thanh khoản, Ngân hàng Nhà nước lại phải bơm tiền ra liên tục thông qua thị trường mở, động thái này càng đẩy lãi suất VNIBOR lên cao (có thời điểm lên đến 42%). Mỗi khi lượng tiền cho vay ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước đáo hạn thì thiếu thanh khoản sẽ lại diễn ra và Ngân hàng Nhà nước lại phải bơm tiền đều đặn để các ngân hàng thương mại vượt qua thời điểm đó. Nguyên nhân chủ quan: Do lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn nên hầu hết tiền gửi của khách hàng được chuyển sang kỳ hạn ngắn. Việc mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn huy động cả tiết kiệm lẫn tiền gửi của các tổ chức (chủ yếu là không kỳ hạn và ngắn hạn) và cho vay, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Cơ cấu dư nợ tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cụ thể là ngân hàng cho vay khá nhiều đối với những khách hàng đầu tư vào các lĩnh vực phi sản xuất như chứng khoán, bất động sản, tiêu dùng – những lĩnh vực có quá nhiều biến động bất thường, tiềm ẩn rủi ro. Cũng như một số ngân hàng thương mại khác, việc vay trên thị trường liên ngân hàng để cho vay đã xảy ra tại Ngân hàng Phương Nam. Tuy nhiên việc duy trì tỷ lệ này ở một mức hợp lý tại từng thời điểm chưa được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm đúng mức để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Khả năng phân tích và dự báo biến động thị trường còn nhiều hạn chế. Ngân hàng chưa chú trọng đến khâu dự báo và xử lý cân đối giữa nguồn và sử dụng nguồn, chưa thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về tình trạng thiếu hụt tạm thời khả năng chi trả và các giải pháp xử lý tối ưu. Ủy ban quản lý Tài sản Có – tài sản Nợ của Ngân hàng Phương Nam chỉ mang tính hình thức, chưa phát huy hết chức năng và nhiệm vụ của mình nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Chưa quy định cụ thể về quản lý ngân quỹ, thu, chi nguồn vốn hàng ngày và các chính sách quy định về việc nắm giữ các giấy tờ có giá có khả năng thanh khoản cao. Chưa có các giải pháp và chính sách trong việc kiểm soát và duy trì khả năng chi trả đối với từng loại tiền tệ, vàng. Khả năng xảy ra rủi ro thanh khoản trong thời gian tới. Thông qua việc xem xét những nguyên nhân khách quan và chủ quan, có thể nhận thấy Ngân hàng Phương Nam cần kịp thời có những biện pháp khắc phục hậu quả các đợt căng thẳng thanh khoản đã xảy ra, giải quyết triệt để các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản và có những đối sách phù hợp ứng với sự biến động của tình hình kinh tế trong từng thời kỳ. Đồng thời đưa ra những dự đoán, các kịch bản rủi ro thanh khoản có thể xảy ra trong tương lai để có giải pháp đối phó. Đây có thể xem là loại rủi ro quan trọng nhất, ảnh hưởng đến hoạt động của tất cả các ngân hàng thương mại nói chung, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng Phương Nam nói riêng và ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam trong trường hợp xảy ra khủng hoảng thanh khoản. Thực trạng về rủi ro lãi suất tại Ngân hàng TMCP Phương Nam Diễn biến lãi suất từ năm 2005 đến tháng 06/2008: Lãi suất huy động: (Nguồn: các quyết định về lãi suất huy động VND, USD tại Ngân hàng Phương Nam qua các thời điểm) Từ năm 2005 đến giữa năm 2008, lãi suất huy động VND và USD có xu hướng tăng cao. Nguyên nhân do diễn biến chung của nền kinh tế Việt Nam: tỷ lệ lạm phát tăng dần từ năm 2005 đến nay và đặc biệt là trong 6 tháng đầu năm 2008. Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, duy trì lãi suất thực dương, đảm bảo lợi ích người gửi tiền, cũng như giữ chân khách hàng, Ngân hàng Phương Nam cũng như các ngân hàng thương mại khác đã tăng dần lãi suất huy động VND từ mức khoảng 7%/năm lên 18%/năm, lãi suất huy động USD từ mức 3% lên gần 8%/năm. Càng về sau, nhất là trong những tháng đầu năm 2008, khoảng cách lãi suất giữa các kỳ hạn càng rút ngắn. Có thời điểm lãi suất huy động của tất cả các kỳ hạn dưới 12 tháng đều bằng nhau và cao hơn lãi suất huy động dài hạn. Đây là một điểm bất hợp lý trong việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Phương Nam (cũng như tình trạng chung của một số ngân hàng thương mại khác trong cùng thời điểm), thể hiện sự thiếu hụt trầm trọng nguồn vốn ngắn hạn. Sau đợt tăng lãi suất huy động giữa tháng 5, thì lượng tiền huy động tại ngân hàng Phương Nam trong tháng 6 tăng hơn 10% so với tháng trước. Như vậy, sau 6 tháng đầu năm 2008, tình hình thanh khoản của ngân hàng Phương Nam đã tương đối ổn định, lãi suất huy động cũng không còn liên tục tăng cao. Trong những tháng cuối năm 2008, với diễn biến tương đối ổn định của tình hình kinh tế vĩ mô, xu hướng sẽ giảm dần lãi suất huy động để đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng cũng chưa đẩy mạnh cho vay trung dài hạn nên hạn chế huy động nguồn vốn này. Do đó lãi suất huy động kỳ hạn từ 3 đến 6 tháng trước mắt vẫn cao hơn các kỳ hạn dài trên 6 tháng. Lãi suất cho vay: Ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế những năm gần đây, lãi suất cho vay cũng biến động theo chiều hướng tăng dần như lãi suất huy động và theo tốc độ lạm phát của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, lãi suất cho vay không biến động nhanh và thường xuyên như lãi suất huy động. Từ mức khoảng 10% trong năm 2004, đến nay, lãi suất cho vay cao nhất không quá 21% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (ứng với mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước công bố ngày 10/06/08 là 14%/năm). Cùng với những biến động về lãi suất trong những tháng đầu năm 2008, Ngân hàng Phương Nam đã tăng nhanh lãi suất cho vay để bù đắp chi phí huy động vốn liên tục tăng. Tình hình dần ổn định khi Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành quy định khống chế mức lãi suất cho vay tại các ngân hàng thương mại, đồng thời mở các cuộc thanh kiểm tra tại một số đơn vị của Ngân hàng Phương Nam (và các ngân hàng thương mại khác) về việc thực hiện quy định lãi suất cho vay. Sau khi quy định của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực, Ngân hàng Phương Nam đã tiến hành rà soát và điều chỉnh lãi suất cho vay tại tất cả các đơn vị. Đến cuối tháng 6/2008, tất cả các đơn vị Ngân hàng Phương Nam đã điều chỉnh lãi suất cho vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời, trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng, Ngân hàng đang có lộ trình từng bước điều chỉnh tăng lãi suất cho vay đối với những hồ sơ phát sinh trước đây có mức lãi suất thấp (dưới 18%/năm) để bù đắp phần nào chi phí huy động đang duy trì ở mức 18%/năm và phấn đấu đạt kế hoạch lợi nhuận năm 2008. Thực tế việc điều hành lãi suất cho vay tại Ngân hàng Phương Nam vẫn còn một vài điểm bất cập hiện đang thực hiện sửa đổi. Cụ thể trong thời điểm xảy ra biến động lãi suất thường xuyên (khoảng tháng 5 năm 2008), việc cho vay tại các đơn vị căn cứ vào những “thông báo không chính thức” từ Hội sở. Mỗi khi có thay đổi lãi suất các đơn vị nhận được điện thoại và tiến hành cho khách hàng vay theo những “thông báo” đó mà không hề có một thông báo hay quyết định nào bằng văn bản về việc thay đổi lãi suất được ban hành. Điều này có thể phát sinh nhiều rủi ro từ việc sai lệch thông tin, gây nhiều khó khăn trong quá trình kiểm tra, kiểm soát do lãi suất tại thời điểm này không nằm trong khung của bất kỳ quyết định nào có hiệu lực trong khoảng thời gian đó, và nhất là thể hiện một sự thiếu chuyên nghiệp trong quá trình điều hành. Tuy nhiên, tình trạng này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và các đơn vị cũng đã nghiêm túc thực hiện việc điều chỉnh lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và các quyết định của Ngân hàng Phương Nam đã ban hành sau đó. Đánh giá rủi ro lãi suất thông qua hệ số chênh lệch lãi suất (hay hệ số thu nhập lãi ròng cận biên NIM – Net Interest Margin) NIM = x 100% Thu nhập lãi – Chi phí lãi å Tài sản Có sinh lời Thời gian 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 30/06/2008 NIM 3,03 % 3,94 % 2,15 % 1,02% Bảng 2.5: Hệ số chênh lệch lãi suất tại Ngân hàng Phương Nam (Nguồn: báo cáo của Ngân hàng Phương Nam) Hệ số chênh lệch lãi suất này giúp ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và việc tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. NIM càng thu hẹp thì rủi ro lãi suất càng lớn. Thông qua chỉ tiêu NIM tại Ngân hàng Phương Nam trong 3 năm gần đây có sự biến động khó dự đoán. Thu nhập thuần từ lãi thực chất tăng đều từ năm 2005 đến 2007 nhưng do tổng tài sản có sinh lời tăng nhanh hơn mức tăng thu nhập thuần (cuối năm 2007 tăng gấp đôi so với cuối năm 2006) nên hệ số NIM giảm vào cuối năm 2007. Đến giữa năm 2008, tổng tài sản có sinh lời tăng so với cuối năm 2007 nhưng tỷ lệ tăng không nhiều, trong khi đó thu nhập thuần từ lãi chỉ bằng một nửa cuối năm trước nên tỷ lệ chênh lệch lãi suất cũng giảm đi một nửa. Điều này phản ánh chính xác diễn biến bất hợp l‎ý về lãi suất trong nửa đầu năm 2008: lãi suất huy động ngắn hạn cao hơn dài hạn và khoảng cách đến lãi suất cho vay không nhiều. Đây là một trong những rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Phương Nam (cũng như nhiều ngân hàng thương mại khác nói chung) Ảnh hưởng của việc biến động lãi suất và nguyên nhân phát sinh rủi ro: Từ năm 2005 đến nay, lãi suất huy động và cho vay liên tục tăng. Biến động mạnh nhất là cuộc đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng thương mại vào cuối tháng 2, đầu tháng 3 cho đến tháng 6 năm 2008, khi mà nền kinh tế đang phải đối mặt với lạm phát và những chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. - Ảnh hưởng lớn nhất và dễ thấy nhất từ việc tăng lãi suất huy động là lợi nhuận của ngân hàng ngày càng bị thu hẹp. Ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để thu hút khách hàng, hạn chế việc khách hàng tiền gửi đang di chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trong thời gian ngắn. Song song đó, lãi suất cho vay cũng tăng theo để đảm bảo mức chênh lệch lãi suất và lợi nhuận của ngân hàng. Nhưng mức cho vay không thể tăng cao để duy trì khoảng cách lợi nhuận của ngân hàng. Từ ngày 19/05/2008, Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất cơ bản từ 8,25% lên 12%, rồi 14%/năm vào ngày 10/06/08. Như vậy, lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản bằng VND như luật dân sự quy định mới thực sự có ý nghĩa. Cho đến cuối tháng 6 thì lãi suất cho vay tối đa không vượt quá 21%. Như vậy, tính đến cuối tháng 6/2008, khi lãi suất cho vay khống chế ở mức 21%/năm, lãi suất huy động bình quân 18%/năm thì lợi nhuận của ngân hàng rõ ràng đang ngày càng thu hẹp khi phải bù đắp các chi phí hoạt động khác. Ngân hàng phải chịu thu hẹp lợi nhuận, thậm chí lợi nhuận thuần từ hoạt động cho vay không thể bù đắp được chi phí huy động. Thu từ lãi xấp xỉ hoặc cao hơn chi trả lãi không nhiều. Đối với Ngân hàng Phương Nam, từ trước đến nay thu tín dụng vẫn là nguồn thu chính, khoản thu ngoài dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp, ngân hàng vẫn chưa cải thiện được tình hình này, việc triển khai tiện ích của các sản phẩm dịch vụ khác chưa thực sự thu hút được khách hàng. Mặt khác, việc điều chỉnh lãi suất cho vay đối với những hợp đồng tín dụng đã ký trước đây chưa thực hiện triệt để và có hiệu quả nên thu từ lãi vay không tăng, trong điều kiện chi trả lãi huy động tăng cao thì nguồn thu này xem như đang giảm. Trong thời gian tới, nếu ngân hàng không có giải pháp đối với việc điều chỉnh lãi suất này cũng như phát triển các mảng dịch vụ ngân hàng khác thì đến cuối năm tài chính 2008 nguy cơ lỗ là khá cao. - Việc thay đổi lãi suất trong thời gian ngắn là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong việc hoạch định nguồn cung – cầu thanh khoản, đảm bảo việc chi trả , khả năng thanh toán cũng như những tỷ lệ đảm bảo an toàn của Ngân hàng. Nguồn tiền mặt tại ngân hàng cần được duy trì để đảm bảo khả năng thanh khoản khi khách hàng có yêu cầu rút tiền. Rất nhiều các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng Phương Nam nói riêng đã gặp khó khăn trong giai đoạn này, khi mà lãi suất huy động tăng cao, dự trữ bắt buộc tăng, lãi suất điều hòa vốn nội bộ tăng đẩy lãi suất cho vay tăng lên khiến ngân hàng khó khăn hơn trong việc tăng dư nợ. Bên cạnh đó, chính sách hạn chế tín dụng theo chủ trương của ngân hàng Nhà nước đã làm cho dư nợ tín dụng của ngân hàng ngày càng bị thu hẹp, ngân hàng chỉ thực hiện cho vay đối với một số đối tượng khách hàng nhất định. - Lúc này từ rủi ro lãi suất có thể ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Khi mà lãi suất tăng cao, ngân hàng sẽ phải chọn lọc những khách hàng hoặc dự án thật tốt, thật sự hiệu quả để giải ngân. Tuy nhiên với mức lãi suất quá cao thì lượng khách hàng đáp ứng được rất ít. Lúc đó sẽ xuất hiện những khách hàng chấp nhận mức lãi suất cao nhưng phương án kinh doanh không thực sự tốt như những gì họ trình bày với ngân hàng, họ đang cần tiền để đầu tư mạo hiểm, hy vọng có thể tìm được mức lợi nhuận cao hơn lãi suất ngân hàng. Cũng có thể khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích, đi vay để cho vay, vì nguồn tiền mà ngân hàng giải ngân cho nền kinh tế trong giai đoạn này rất hạn chế. Nếu cán bộ tín dụng không thẩm định khách hàng cẩn thận, có thể dẫn đến những thất thoát cho ngân hàng mà nguyên nhân vì lãi suất cho vay quá cao. - Một ảnh hưởng nữa của rủi ro lãi suất là làm giảm giá trị thị trường của tài sản Có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Giá trị thị trường của tài sản Có hay tài sản Nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, khi lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng lên, và do đó, giá trị hiện tại của tài sản Có hoặc tài sản Nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị hiện tại của tài sản Có và tài sản Nợ tăng lên. Trong những năm gần đây, lãi suất liên tục tăng nên giá trị tài sản của ngân hàng ngày càng giảm. Nếu không có những nhận định đúng đắn và khách quan thì việc đánh giá và so sánh về quy mô hoạt động của Ngân hàng sẽ trở nên không còn chính xác. Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro lãi suất thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Với diễn biến tình hình lãi suất như hiện nay, nhất là từ đầu năm 2008 đến nay, Ngân hàng Phương Nam hạn chế rủi ro lãi suất bằng cách thả nổi lãi suất cho vay, điều

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN.T. NGOC THU QUAN LY RUI RO TU GOC DO KIEM TOAN NOI BO TAI NGAN HANG PHUONG NAM.doc
Tài liệu liên quan