Luận văn Quản lý tài chính tại trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghệ dung quất, tỉnh Quảng Ngãi

MỞ ĐẦU .1

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn .1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn.3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.4

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận văn.5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.6

7. Kết cấu của luận văn .6

Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG CÁC

ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG .8

1.1. Tổng quan về quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập .8

1.1.1. Khái quát chung về đơn vị sự nghiệp công lập.8

1.1.2. Nguồn thu và nhiệm vụ chi trong các đơn vị sự nghiệp công lập .14

1.1.3. Quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập .17

1.2. Nội dung quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp công.25

1.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong tổ chức công .25

1.2.2. Nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập .28

1.2.3. Quy trình quản lý tài chính .29

1.2.4. Quy chế chi tiêu nội bộ.35

1.2.5. Thanh tra, kiểm tra quản lý tài chính trong đơn vị công .39

1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong quản lý tài chính các đơn vị sự

nghiệp công lập .40

1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước .40

1.3.2. Những bài học kinh nghiệm.44

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .46

Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG

NGHỀ KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ DUNG QUẤT, TỈNH QUẢNG NGÃI .47

pdf116 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý tài chính tại trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghệ dung quất, tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột loạt những cải cách, ngày nay ở Thuỵ Điển, Chính phủ chỉ ấn định khối lượng và chất lượng đầu ra của các sản phẩm do các cơ quan hành chính sự nghiệp cung cấp. Kinh phí ngân sách của từng đơn vị bao gồm lương và các chi phí hành chính khác được cấp phát một cách ổn định. 2. Kinh nghiệm của Canada: Lương được trả dựa trên kết quả đàm phán với các tổ chức công đoàn, tiền lương của công chức tại các địa phương phụ thuộc vào kết quả đàm phán, khả năng ngân sách địa phương... KP ngân sách cấp ổn định cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, chuyển từ việc cấp theo mục chi tiết sang những mục tổng hợp, một số đơn vị được cấp phát kinh phí theo hình thức trọn gói (giao trọn gói kinh phí cho việc thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể nào đó đã được xác định trước). 44 3. Kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp: Hệ thống thang bảng lương thực hiện theo chức năng của mỗi nghề nghiệp và thống nhất toàn quốc (do đặc điểm của nền hành chính tản quyền), KP hành chính được giao ổn định, việc dự toán hàng năm (kể cả việc quyết định ngân sách của Quốc hội chỉ biểu quyết những khoản KP mới, những KP thực hiện ổn định được quyết định chuyển nguyên vẹn sang năm mới). Việc lập và duyệt dự toán cho các cơ quan hành chính cũng thực hiện như vậy, những cơ quan đã hoạt động ổn định thì KP ngân sách hầu như không thay đổi. Quản lý KP NSNN cũng được chuyển từ những mục chi rất chi tiết sang những mục chi tổng hợp để tạo cho quá trình sử dụng của các cơ quan được chủ động hơn. Hiện nay, Cộng hoà Pháp cũng đang tiếp tục nghiên cứu và chuẩn bị thực hiện từ năm 2002 việc cấp KP phí trọn gói theo hướng quản lý đầu ra của sản phẩm. Cùng với lý thuyết về quản lý theo đầu ra, cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp thực hiện cơ chế khoán chi hành chính và tự trang trải còn xuất phát từ cách tiếp cận mới về hiệu quả. Cách tiếp cận mới về hiệu quả được áp dụng cho cả khu vực dịch vụ công cộng chính là mối quan hệ giữa đầu vào và số lượng, chất lượng đầu ra. Khi các cơ quan sự nghiệp hoàn thành công việc (đầu ra quy định trước) thì nâng cao hiệu quả là giảm chi phí đầu vào. Biện pháp để quản lý chi phí đầu vào trong hoạt động của cơ quan HCSN chính là biện pháp khoán quỹ lương, khoán kinh phí ngân sách hoạt động. 1.3.2. Những bài học kinh nghiệm 1.3.2.1. Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam Qua kinh nghiệm áp dụng lý thuyết quản lý theo đầu ra trong thực tế của một số nước, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau: - Trong QLTC, khi KP được giao cho một cộng đồng, một tập thể tự quản và quyết định thì nó thường được sử dụng hợp lý, sát nhu cầu thực tiễn và đạt được hiệu quả cao hơn. - Đối với một số cơ quan, tổ chức có quy trình hoạt động phức tạp thì việc ấn định chi phí đầu vào và quản lý, kiểm soát các sản phẩm đầu ra sẽ buộc tổ chức đó tự sắp xếp, cải tiến quy trình và sử dụng KP hiệu quả hơn. Đồng thời, với quy trình 45 được cải tiến một cách thường xuyên, trong điều kiện kiểm soát chặt chẽ về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, các sản phẩm đầu ra của tổ chức đó cũng luôn được nâng cao chất lượng. - Đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, việc thực hiện cơ chế khoán chi và tự trang trải là có thể thực hiện và đem lại hiệu quả vì: việc phân bổ NS trọn gói, giao đơn vị chủ động về cách thức chi tiêu sẽ thúc đẩy các cơ quan, đơn vị phải tự tiết kiệm chi tiêu trên nguyên tắc hạn chế việc tuyển thêm người, tổ chức, phân công lại lao động có hiệu quả hơn vì không ai hiểu hơn chính họ về những vấn đề đó. - Qua quá trình thực hiện về các khoản kinh phí trọn gói (khoán chi và tự trang trải) người ta có thể dần dần xây dựng được các định mức chi tiêu, định biên và mô hình tổ chức, phân công lao động một cách sát thực, hợp lý hơn. 1.3.2.1. Bài học kinh nghiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Qua một số nội dung khảo sát kinh nghiệm quốc tế có thể nhận ra một số nhận xét cụ thể sau với việc QLTC đối với các đơn vị sự nghiệp công lập: - Xu hướng chuyển giao một số dịch vụ công cộng cho khu vực tư ngày càng mở rộng. Hầu hết các quốc gia áp dụng nguyên tắc: cái gì các thành phần kinh tế khác có thể làm được thì Nhà nước không tham gia (trong trường hợp này Chính phủ chỉ đóng vai trò kiểm soát, điều tiết và bảo hộ để các thành phần khác thực hiện một cách thuận lợi) cái gì mà các thành phần khác không hoặc chưa tham gia thì Nhà nước phải là người chịu trách nhiệm cung ứng nó cho xã hội. - Phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm giữa Chính phủ và Chính quyền địa phương trong việc quản lý các hoạt động dịch vụ công khá rõ ràng, rành mạch. Có những lĩnh vực chỉ có trung ương chịu trách nhiệm thực hiện (như y tế, giáo dục ở bậc đại học, ...), có những lĩnh vực cả Trung ương và địa phương quản lý (dịch vụ môi trường). Nhìn chung, trong việc tổ chức và quản lý các hoạt động dịch vụ công, Chính phủ tập trung đề ra chiến lược, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và phân bổ ngân sách, thực hiện kiểm toán, chính quyền địa phương, thực hiện ký kết hợp đồng với các công ty tư nhân và giám sát, kiểm tra việc thực hiện. 46 - Nghĩa vụ và trách nhiệm cung ứng dịch vụ công của các cơ quan, tổ chức nhà nước và tư nhân cũng như của các cá nhân, tổ chức hưởng thụ dịch vụ được luật hóa một cách đầy đủ, chi tiết. Trong trường hợp bị vi phạm sẽ xử lý bằng hình thức phạt tiền (nếu vi phạm nhỏ) hoặc phạt tiền và rút giấy phép. - Quyền tự chủ về tài chính và nhân lực của các đơn vị trực tiếp cung ứng dịch vụ công được đảm bảo, đồng thời Chính phủ và Chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát và có biện pháp xử lý các sai phạm một cách kịp thời để đảm bảo tính liên tục của các dịch vụ. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Chương I đã trình bày tổng quan về quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công. Đây là cơ sở khoa học để làm tiền đề cho việc phân tích thực trạng quản lý tài chính tại Trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghệ Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2 và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính tại Trường. 47 Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ DUNG QUẤT, TỈNH QUẢNG NGÃI 2.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY NGHỀ Ở TỈNH QUẢNG NGÃI 2.1.1. Về quy mô đào tạo 2.1.1.1. Kết quả tuyển sinh học nghề giai đoạn 2011 - 2015 Triển khai thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực lao động xã hội qua đào tạo trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, qua 05 năm (2011 - 2015), lao động của Tỉnh cơ bản đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp phần tăng dần tỷ trọng lao động trên lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, bước đầu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Tuyển sinh học nghề của các trường công lập đạt được thành tựu nhất định như sau: Bảng 2.1. Kết quả tuyển sinh học nghề giai đoạn 2012 - 2016 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Đơn vị tính: người STT Các trường dạy nghề Kết quả tuyển sinh Tổng giai đoạn 2012 - 2016 Trong đó: Cao đẳng nghề Trung cấp nghề Sơ cấp và dưới 3 tháng 1 Trường cao đẳng nghề 19.852 3.651 4.620 11.581 2 Trường Trung cấp nghề 9.152 - 5.583 3.569 3 Trung tâm dạy nghề 12.192 - - 12.192 TỔNG CỘNG 41.196 3.651 10.203 27.342 [Nguồn: tác giả thu thập dữ liệu] 48 Qua Bảng 2.1 ta thấy: quy mô đào tạo nghề của các trường trên địa bàn Tỉnh tăng trong những năm qua, nếu giai đoạn 2006 - 2010 quy mô đào tạo là 22.502 người thì giai đoạn 2012 - 2016 quy mô đào tạo là 41.196 người (tăng 183% so với giai đoạn 2006 - 2010). Đây là nguồn cung lao động dồi dào, có kỹ năng và trình độ tay nghề, cung cấp cho thị trường lao động trên địa bàn Tỉnh (chi tiết Phụ lục 2.1). Đào tạo nghề đã cơ bản đáp ứng nguồn cung lao động cho các doanh nghiệp trong khu kinh tế, khu công nghiệp của Tỉnh, tuy nhiên, cơ cấu trình độ đào tạo nghề của Tỉnh chưa thật sự phù hợp, chưa đào tạo đủ số lượng công nhân có trình độ tay nghề cao theo nhu cầu của thị trường. Biểu đồ 2.1. Cơ cấu trình độ đào tạo nghề tại các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 6,4% 11,6% 82,0% Cao đẳng nghề Trung cấp nghề Sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng [Nguồn: 12] Với thực trạng như Biểu đồ 2.1 cho thấy, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trên địa bàn Tỉnh qua đào tạo trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề và có kỹ năng nghề kỹ thuật cao còn thấp, đa số lao động chỉ tham gia học nghề ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống). Cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và nghề đào tạo chưa hợp lý, chưa gắn bó hữu cơ với nhu cầu nhân lực của ngành kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực kỹ thuật chất lượng cao cho sản xuất và thị trường lao động. 49 2.1.2. Về cơ cấu 2.1.2.1. Mạng lưới các trường dạy nghề Mạng lưới trường công lập đã có bước phát triển về số lượng và phân bố tương đối đều ở các khu vực trên địa bàn Tỉnh, được đầu tư phát triển ở khu vực phía Bắc, Nam, khu vực trung tâm của Tỉnh và đã hình thành ở khu vực miền núi, hải đảo. Tính đến ngày 31/12/2015, tỉnh Quảng Ngãi có 11 trường công lập có tham gia đào tạo nghề (gồm có: 03 trường Cao đẳng nghề, 02 trường Trung cấp nghề, 06 trường Trung tâm dạy nghề), tăng 05 cơ sở công lập so với giai đoạn 2006 - 2010, trong đó: a) Phân theo trình độ đào tạo: Các trường công lập đào tạo trình độ Cao đẳng nghề: 03 cơ sở, đào tạo trình độ Trung cấp nghề: 02 cơ sở, đào tạo trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 03 tháng: 06 cơ sở. b) Phân theo cấp bậc quản lý: Trung ương quản lý: 02 cơ sở, địa phương quản lý: 09 cơ sở. c) Phân theo địa bàn: Mạng lưới trường dạy nghề phủ khắp địa bàn Tỉnh. (chi tiết Phụ lục 2.2). Thực tế tại tỉnh Quảng Ngãi hiện nay có các khu công nghiệp như: Khu Kinh tế Dung Quất, Khu công nghiệp Tịnh Phong và mới đây là Khu công nghiệp VSIP đã và đang được chú trọng đầu tư mạnh nhằm phát huy các lợi thế của khu vực, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách, phát triển kinh tế - xã hội, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các khu công nghiệp này thu hút số lượng lớn nguồn lao động qua đào tạo nghề, đặc biệt lao động có kỹ năng, tay nghề cao, làm việc trong các dây chuyền hiện đại của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc mạng lưới trường công lập có tham gia đào tạo nghề trên địa bàn Tỉnh tăng nhanh trong thời gian qua đã góp phần giúp cho người học có thể tham gia đăng ký học với nhiều hình thức thuận lợi như: học tại chỗ, ban đêm để ban ngày tham gia sản xuất nông nghiệp tại địa phương, giúp lao động có thể tự chọn lựa 50 cho mình một cơ sở đào tạo nghề để họ thêm cơ hội tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập cho bản thân, gia đình, góp phần xoá đói giảm nghèo cho địa phương. Đây là sự nỗ lực của địa phương trong việc tăng cường năng lực đào tạo nghề, tạo cơ hội công bằng về học tập cho mọi người dân nhằm phát triển nguồn nhân lực lao động phục vụ cho nền kinh tế - xã hội tại địa phương. Biểu đồ 2.2. Số lượng trường dạy nghề công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2006 và giai đoạn 2011 – 2016 0 3 3 2 2 4 3 2 6 0 1 2 3 4 5 6 Năm 2006 Năm 2010 Năm2016 Trường Cao đẳng nghề Trường Trung cấp nghề Trung tâm dạy nghề [Nguồn: tác giả thu thập dữ liệu] Tuy nhiên, bên cạnh sự thuận lợi vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: số lượng trường đào tạo nghề trình độ cao đẳng còn ít. Số lượng lao động qua đào tạo này mới chỉ cung cấp được nguồn lao động phổ thông chứ chưa đảm bảo đáp ứng nguồn lao động có trình độ cao, tay nghề cao theo yêu cầu của doanh nghiệp tại địa phương. 2.2.2.2. Ngành nghề đào tạo tại các trường dạy nghề trên địa bàn Tỉnh Ngành nghề đào tạo tại các trường dạy nghề trên địa bàn Tỉnh khá phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu học nghề, năng lực đào tạo nghề của trường và nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của địa phương. 51 Ngành nghề đào tạo phân chia theo các cấp trình độ đào tạo: Nhóm ngành nghề đào tạo các cấp trình độ cao đẳng, trung cấp theo quy định về danh mục ngành nghề của Bộ Lao động - TB&XH, các nghề đào tạo ngắn hạn và dạy nghề cho lao động nông thôn theo quy định của TCDN, Bộ Nông nghiệp &PTNT và quy định danh mục đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 được UBND tỉnh phê duyệt [19]. Giai đoạn 2012 - 2016, theo thống kê của Sở Lao động - TB&XH thì các trường dạy nghề trên địa bàn Tỉnh đã tổ chức đào tạo với hơn 60 ngành nghề khác nhau, tập trung ở 03 nhóm ngành nghề sau: nhóm nghề kỹ thuật - công nghiệp - thủ công mỹ nghệ, nhóm nghề thương mại - dịch vụ và nhóm nghề nông - lâm - ngư nghiệp phục vụ cho việc đào tạo nghề cung cấp nguồn nhân lực cho nền kinh tế của địa phương. Hàng năm, Tỉnh đã tổ chức rà soát danh mục ngành nghề đào tạo từ cấp xã, phường, thị trấn để xây dựng kế hoạch đào tạo nghề theo nhu cầu thực tế tại địa phương. Biểu đồ 2.3. Cơ cấu nhóm ngành nghề đào tạo tại các trường dạy nghề công lập trên địa bàn Tỉnh giai đoạn 2012 – 2016 27% 23% 50% Nhóm nghề kỹ thuật - công nghiệp - thủ công mỹ nghệ Nhóm nghề thương mại - dịch vụ Nhóm nghề nông lâm - ngư nghiệp [Nguồn: tác giả thu thập dữ liệu năm 2016 ] Tuy năng lực đào tạo của các trường công lập có khả năng tổ chức rất nhiều ngành nghề, nhưng thực tế nhu cầu học nghề của người lao động chỉ mới tập trung vào một số nghề như: điện công nghiệp, dân dụng, công nghệ thông tin, kế toán doanh nghiệp, phòng chống dịch cho gia súc, gia cầm, chăn nuôi, trồng 52 lúa, mì... Còn ở các khu công nghiệp trên địa bàn rất cần nhân lực như: hàn kỹ thuật cao, tự động hoá, vận hành sửa chữa thiết bị hóa dầu, vận hành sửa chữa thiết bị lạnh thì vẫn chưa được đào tạo nhiều để đáp ứng yêu cầu phát triển về các ngành công nghiệp mũi nhọn của Tỉnh. Do vậy, trong thời gian tới, cần định hướng và có chính sách đào tạo những ngành nghề phù hợp với nhu cầu về lao động tại các khu công nghiệp phục vụ cho sản xuất kinh doanh trên địa bàn Tỉnh (chi tiết Phụ lục 2.3). 2.2.2.3. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý a) Đội ngũ giáo viên tại các trường dạy nghề trên địa bàn Tỉnh Đội ngũ giáo viên tại các trường công lập trên địa bàn Tỉnh tăng về số lượng và chất lượng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ. Đến nay, ngân sách trung ương và địa phương đã và đang cố gắng bố trí kinh phí hỗ trợ hàng năm để bồi dưỡng nâng cao trình độ đào tạo, kỹ năng và chuyên môn nghề cho đội ngũ giáo viên, dần đảm bảo đủ chuẩn quy định, đáp ứng nhiệm vụ đào tạo nghề cho nguồn nhân lực, trong đó ưu tiên cho số giáo viên dạy các nghề trọng điểm của Tỉnh. Cụ thể so sánh số lượng tăng giảm như sau: Bảng 2.2. Bảng so sánh số lượng đội ngũ giáo viên tại các trường Dạy nghề trên địa bàn Tỉnh năm 2012 và 2016 Đơn vị tính: người Năm Tổng số giáo viên Trong đó: Trình độ đào tạo Kỹ năng nghề Chuyên môn nghề Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Công nhân kỹ thuật Kỹ năng nghề quốc gia Theo bậc thợ Nghệ nhân Kỹ năng dạy học Sư phạm kỹ thuật Sư phạm dạy nghề Bậc I, II 2012 362 0 52 261 20 75 0 25 0 0 24 30 97 2016 499 1 73 333 42 50 7 33 1 260 69 229 10 1 Tăng + /Giảm- +137 + 1 +21 + 72 + 22 - 20 + 7 + 8 + 1 + 260 + 45 + 199 - 4 [Nguồn: tác giả thu thập dữ liệu] 53 Tuy đội ngũ giáo viên có tăng về số lượng và chất lượng nhưng so với yêu cầu phát triển giáo dục nghề nghiệp tại địa phương thì số lượng giáo viên như hiện nay vẫn còn thiếu và chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy (nhất là kỹ năng thực hành), chậm tiếp cận những đổi mới về áp dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, ít có cơ hội cập nhật kiến thức để nâng cao trình độ. Cụ thể như sau: tỷ lệ học sinh/giáo viên quy đổi hiện nay là 47,6 và cao hơn so với chuẩn quy định là 2,4 lần; có 70 - 80% giáo viên đạt chuẩn trình độ chuyên môn và sư phạm nghề theo quy định của Bộ Lao động - TB&XH; tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn về trình độ chuyên môn nghề và kỹ năng nghề mới đạt khoảng 20,2%, chỉ mới có khoảng 50% số lượng giáo viên đạt chuẩn trình độ Ngoại ngữ và Tin học. Đây là một trong những hạn chế cần chú trọng, nhà quản lý cần quan tâm để tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ sư phạm, sư phạm nghề, kỹ năng nghề và kỹ năng cập nhật thông tin, phương pháp giảng dạy mới cho giáo viên trong thời gian tới nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo (chi tiết xem tại Phụ lục 2.4). b) Đội ngũ cán bộ quản lý các trường dạy nghề trên địa bàn Tỉnh Đội ngũ cán bộ quản lý là một trong những yếu tố quan trọng, có vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng dạy nghề. Trong những năm qua, được sự quan tâm, bố trí kinh phí bồi dưỡng theo hướng chuẩn hoá, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp giáo dục trong đào tạo nghề nên số cán bộ quản lý này đã dần được cải thiện về số lượng và chất lượng đào tạo. Chính vì vậy nên theo các thống kê đội ngũ cán bộ quản lý tại các trường công lập trên địa bàn Tỉnh của Sở Lao động - TB&XH từ năm 2012 - 2016, đội ngũ cán bộ quản lý có sự thay đổi nhanh chóng về số lượng, tăng từ 96 người năm 2011 lên đến 137 người năm 2015 và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý cũng đã dần được nâng cao ở các cấp trình độ đào tạo từ công nhân kỹ thuật đến bậc cao hơn là thạc sỹ, tiến sỹ. 54 Bảng 2.3. Thống kê đội ngũ cán bộ quản lý năm 2016 tại các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Đơn vị tính: người T STT Các trường công lập Tổng số Trình độ đào tạo Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Công nhân kỹ thuật TỔNG CỘNG 149 1 38 88 12 10 1 Trường cao đẳng nghề 67 1 22 35 6 3 2 Trường Trung cấp nghề 51 0 12 32 2 5 3 Trung tâm dạy nghề 31 0 4 21 4 2 [Nguồn: 10] Nhìn chung, đội ngũ cán bộ quản lý có tăng về số lượng và ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề, ngoại ngữ, tin học. Tuy nhiên, số cán bộ này vừa tham gia quản lý vừa kiêm nhiệm giảng dạy, đa số được đưa lên từ giáo viên nên chưa được bồi dưỡng các kiến thức về quản lý, chưa được tiếp cận phương pháp mới và ứng dụng công nghệ mới trong quản lý gây ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình quản lý đào tạo nghề của đội ngũ cán bộ (chi tiết Phụ lục 2.4). 2.1.2.4. Thực trạng cơ sở vật chất và thiết bị đào tạo a) Về cơ sở vật chất Hiện trạng cơ sở vật chất tại các trường công lập trên địa bàn Tỉnh hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định của TCVN 9210:2012. Các trường dạy nghề công lập thuộc các Bộ, ngành trung ương quản lý được đầu tư mạnh về cơ sở vật chất nên phòng học, nhà xưởng đáp ứng được những quy định về tiêu chuẩn. Còn lại, phần lớn các cơ sở chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định về diện tích phòng học, giảng đường; đặc biệt, phòng học và nhà xưởng của các trung tâm dạy nghề thuộc Hội đoàn thể hầu hết là thuê, mượn. Do vậy, địa điểm đào tạo phân tán nhiều nơi, khiến cho việc triển khai các hoạt động đào tạo gặp nhiều khó khăn; 55 phòng học và nhà xưởng nhìn chung chưa được thiết kế theo đúng tiêu chuẩn nên chưa đảm bảo chất lượng dạy lý thuyết và thực hành nghề. Một số trường có xưởng thực hành, thực tập chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo, mặt bằng nhà xưởng nhỏ, chưa đúng theo tiêu chuẩn về thiết kế xây dựng như tiêu chuẩn chiếu sáng, phòng cháy chữa cháy, thông gió, tải trọng. Do đó các trường phải chia thành nhiều ca thực hành, hoặc thuê cơ sở vật chất nên rất khó khăn cho việc thực hành và làm hạn chế việc thực tập của học sinh - sinh viên. Một số trường không có thư viện phục vụ nhu cầu tra cứu, tìm hiểu tài liệu học tập của học sinh - sinh viên và cán bộ giáo viên. Khu ký túc xá mới chỉ có ở một số trường đại học, cao đẳng nghề, trung cấp nghề, còn ở trung tâm công lập các huyện miền núi vẫn chưa được đầu tư để tạo điều kiện chỗ ở, sinh hoạt cho học viên đi học xa, mùa mưa lũ... Nhiều trường không có diện tích dành cho các hoạt động văn hoá, thể thao. Nhìn chung, tuy các trường công lập trên địa bàn Tỉnh có được bố trí vốn đầu tư, nhưng tổng mức đầu tư hằng năm thấp so với dự án được UBND tỉnh phê duyệt nên thực trạng cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề vẫn còn quá nhiều khó khăn, thiếu thốn. Và vì cơ sở vật chất quá thiếu thốn, bố trí vốn đầu tư thấp dẫn đến đầu tư không đồng bộ, chắp vá so với yêu cầu đào tạo nghề, đặc biệt là đào tạo lao động có trình độ kỹ thuật cao. b) Về thiết bị dạy nghề Thực trạng thiết bị dạy nghề vẫn còn thiếu thốn về số lượng và chủng loại, một số thiết bị có được trang bị nhưng chưa đồng bộ, kỹ thuật lạc hậu so với kỹ thuật và công nghệ sản xuất hiện đại, chưa đáp ứng được việc thực hành nghề của học sinh - sinh viên hoặc chỉ phù hợp với điều kiện kỹ thuật tại các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, chưa phù hợp với trang thiết bị tại doanh nghiệp lớn trong các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh. Thực tế trước đây, chỉ mới có trường cao đẳng nghề trực thuộc Trung ương mới được đầu tư kinh phí mua sắm thiết bị dạy nghề, đáp ứng đào tạo các nghề công nghệ cao, cung cấp lao động có trình độ kỹ thuật cho doanh nghiệp 56 thuộc Khu công nghiệp Tịnh Phong, Khu Kinh tế Dung Quất. Các trường công lập còn lại vẫn chưa đảm bảo danh mục thiết bị tối thiểu theo quy định của Bộ Lao động - TB&XH; nhất là các trường ở miền núi, hải đảo, mặc dù đã được hỗ trợ một phần chi phí mua sắm nguyên nhiên vật liệu, nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu về thiết bị dạy thực hành của một số nghề đào tạo hệ sơ cấp; trong lớp học nghề vẫn còn trường hợp người học nghề phải thực hành nhóm chung trên một thiết bị. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đào tạo nghề của cơ sở đào tạo, đến chất lượng tay nghề của học sinh - sinh viên và không đáp ứng được yêu cầu vị trí việc làm của doanh nghiệp. Trước thực trạng trên, trong những năm gần đây, để tăng cường đào tạo nghề nâng cao chất lượng tay nghề cho nguồn lao động trên địa bàn Tỉnh, Trung ương và địa phương đã chú trọng đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy nghề cho các trường công lập trên địa bàn Tỉnh. Một số trường đã được chú trọng đầu tư từ Dự án Đổi mới phát triển dạy nghề nhằm đầu tư cho các nghề trọng điểm cấp quốc gia, khu vực và quốc tế như: trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật - Công nghệ Dung Quất, Cao đẳng nghề Cơ giới, Cao đẳng nghề Việt Nam - Hàn Quốc - Quảng Ngãi, Trung cấp nghề tỉnh Quảng Ngãi, Trung cấp nghề Đức Phổ; từ Dự án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ phục vụ đào tạo nghề cho lao động nông thôn như: các Trung tâm Dạy nghề - Giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp Tỉnh và các huyện. Việc đầu tư trên đã từng bước đáp ứng điều kiện cần thiết cho quá trình đào tạo nghề tại địa phương. Tuy nhiên, do kinh phí đầu tư còn hạn chế nên vẫn chưa theo kịp sự đổi mới về công nghệ, thiết bị trong thực hành nghề; mức đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ giảng dạy tại một số trung tâm huyện miền núi còn thiếu thốn, chưa được đầu tư đồng bộ làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy lý thuyết và thực hành nghề, chưa đáp ứng đủ nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại chỗ (chi tiết Phụ lục 2.5) 57 2.1.3. Về chất lượng đào tạo nghề - Chất lượng đào tạo của các trường dạy nghề trên địa bàn Tỉnh Được sự quan tâm hỗ trợ của Bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương, chất lượng đào tạo của các trường công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đang dần đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động hiện nay. Theo kết quả tự kiểm định chất lượng đào tạo nghề thì trên địa bàn Tỉnh có 2/2 trường cao đẳng nghề đạt cấp độ I, 2/2 trường trung cấp nghề đạt cấp độ II, các trung tâm dạy nghề và cơ sở khác có tham gia dạy nghề cũng đã và đang thực hiện công tác tự kiểm định chất lượng đào tạo nghề. Thông qua các đợt kiểm định chất lượng dạy nghề, các trường công lập đã đánh giá, xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung dạy nghề trong từng giai đoạn nhất định, giúp cơ sở dạy nghề xây dựng các giải pháp thực hiện trong thời gian đến để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Tuy thực tế đào tạo nghề trên địa bàn Tỉnh đã có sự thay đổi dần về chất nhưng vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Một số tồn tại, hạn chế về thực trạng cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề và sự thiếu thốn về số lượng cũng như số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có trình độ chuyên môn, tay nghề cao chưa đạt chuẩn vẫn còn không ít gây khó khăn cho các trường công lập trong việc đào tạo nguồn nhân lực lao động xã hội đáp ứng được đào tạo ra một đội ngũ có trình độ tay nghề đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp - Chất lượng của lao động sau đào tạo nghề và mức độ đáp ứng công việc theo yêu cầu của doanh nghiệp Hiện nay, chất lượng đào tạo nhân lực lao động của Việt Nam mặc dù đã có chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động về kỹ năng cứng (kỹ năng nghề) và kỹ năng mềm (tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo nhóm, an toàn lao động) [31, tr. 12]. Theo khảo sát của VCCI năm 2011, chỉ số hài lòng của doanh nghiệp về chất lượng dạy nghề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_tai_chinh_tai_truong_cao_dang_nghe_ky_thuat.pdf
Tài liệu liên quan