Luận văn Sli, lượn và lễ hội oóc pò của người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa . .1

Lời cảm ơn . .2

Mục lục . .3

MỞ ĐẦU . .4

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGưỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI. .11

1.1. Khái quát về huyện Đồng Hỷ. .11

1.2. Người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên .15

1.3. Khái lược về sli, lượn . . .24

Chương 2. SLI, LưỢN CỦA NGưỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN. .32

2.1. Những nội dung cơ bản của sli, lượn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. .32

2.1.1. Tiếng hát ca ngợi con người. .32

2.1.2. Tiếng hát tâm tình của đôi lứa.37

2.1.3. Bức tranh nông thôn miền núi. .43

2.2. Một số yếu tố nghệ thuật của sli , lượn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên . 5 2

2.2.1. Ngôn ngữ. .52

2.2.2. Kết cấu. .59

2.2.3. Diễn xướng sli, lượn. .63

Chương 3. LỄ HỘI OÓC PÒ VỚI SLI, LưỢN CỦA NGưỜI NÙNG PHÀN

SLÌNH Ở HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN.70

3.1. Các nghi thức và yếu tố tâm linh trong lễ hội Oóc Pò .70

3.2. Mối quan hệ giữa lễ hội Oóc Pò với các làn điệu sli, lượn .83

3.3. Bảo tồn, phát huy những giá trị của lễ hội Oóc Pò và các làn điệu sli lượn .93

KẾT LUẬN . .99

TÀI LIỆU THAM KHẢO . . .104

PHỤ LỤC . .116

pdf116 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1880 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sli, lượn và lễ hội oóc pò của người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, làm ruộng nƣớc… Những bài ca nói lên những kinh nghiệm trong lao động sản xuất, những bài học đã đƣợc tích luỹ từ bao đời và còn đƣợc lƣu truyền tới các thế hệ sau này. Phát nƣơng đƣợc hai bãi, Phá ruộng đƣợc hai đám Đám dƣới cấy lúa nếp Đám trên cấy lúa tẻ Lúa tẻ ruộng độc nƣớc. (Lƣợn: Bãi Rậm). Những khó khăn trong cấy lúa mà ngƣời nông dân cần chú tâm và cũng là sự lo lắng của họ đó là “ruộng độc nƣớc” đã đƣợc dân gian nhắc tới. Đó là loại ruộng xấu, đất chua, lúa trồng sẽ không tốt cây lúa sẽ bị khẩn, cây lúa lá đỏ không thu hoạch đƣợc. Kinh nghiệm trong trồng trọt đôi khi còn là những điều hết sức giản đơn nhƣng lại có ý nghĩa rất lớn. Trong việc trồng cam, việc chọn thời điểm trồng cây rất quan trọng cho sự phát triển của cây: (Xiếp hằm khắm lòng chay mạc cam) “Chiều tối dâm xuống hãy trồng cam” Trong bức tranh lao động của đồng bào miền núi hiện ra hình ảnh con ngƣời với những công việc lao động quen thuộc. Đó có thể là việc nhuộm vải: Ngắt ngọn bỏ vào thạ Ngắt ngọn thụ phấn trong Nhuộm vải bằng lá chàm Nhuộm sao cho thật đậm. (Lƣợn: Nhọt lỵ ). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Ngay trên nƣơng ruộng giữa công việc lao động, tiếng sli đã vang lên với giai điệu dặt dìu, sâu lắng. …Tới ngày mang chủng cùng xuân phân Lập hạ về đến tháng hai tới Cùng nhau lo xuống trồng cây lúa Thấm thoắt trôi qua tới tháng năm Anh chàng nhổ mạ, cô nàng cấy Ngƣời cấy bên trái, ngƣời bên phải Chớ để cây trƣớc dồn cây sau Đừng để cây sau dồn cây trƣớc Bƣớc lên trên đá đặt nón xuống Bƣớc tới trên đá đặt nón chờ Mai này cách xa còn mãi nhớ Dù không chung sống cũng chung thời Để mình mãi mãi còn luyến lƣu. (Sli: Só sình) Trung tâm của bức tranh lao động là hình ảnh con ngƣời. Con ngƣời hiện ra giữa nền thiên nhiên với những công việc lao động quên thuộc với đời sống tình cảm. Đó là niềm vui, là hạnh phúc của tình yêu, của cuộc sống. Ngƣời đọc dễ dàng hình dung ra chủ thể lao động đang miệt mài làm việc, những động tác nhịp nhàng đã đƣợc miêu tả thật đẹp: “Anh chàng nhổ mạ, cô nàng cấy”; “Ngƣời cấy bên trái, ngƣời bên phải”. Họ đang xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó góp phần xây dựng một bản làng trù phú, một mảng không thể không nhắc tới trong bức tranh nông thôn miền núi mà sli, lƣợn đã vẽ lên. …Trông nhìn ra nhiều hƣớng Nhìn thấy làng rộng lớn Nhìn thấy nƣơng ruộng tốt Mình mới bƣớc đến đây Lấy lời hát ca cùng tâm sự. (Lƣợn: Kháy Pác) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 Một bản làng rộng lớn, những nƣơng ruộng tốt tƣơi là sự giàu có của thôn bản và cũng là niềm tự hào của nhân dân. Trong sli đối đáp, lời của nhân vật đối đáp đã nhắc tới sự phát triển của làng bản, sự giàu có của quê hƣơng. Nam: Năm ngoái về thấy rừng thành cây Năm nay tới thấy bãi thành ruộng. Nữ: Trống chiêng vang vọng khắp mọi nơi Ruộng vƣờn tốt lắm chẳng tới mình Một khung cảnh vùng núi vui tƣơi giàu có, tràn đầy sức sống. Những nét vẽ mang đậm nét văn hoá của đồng bào Nùng. …Phù hộ lợn gà ở đầy chuồng - Thả ra ăn thóc nhƣ kiến ruồi Phù hộ bò trâu sừng đều đặn - Khi thả ra ngoài đầy đồng ruộng Lúc thả ra đi đầy soi bãi - Chiều tối trở về đầy sân nhà Ngƣời ơi có nhiều chia một con - Lấy về để cày đám cỏ gianh Mang về để cày soi bãi bông. (Sli đối đáp) Chăn nuôi, trồng trọt là hoạt động kinh tế chính của ngƣời Nùng Phàn Slình cho nên hình ảnh đàn gia xúc, gia cầm đông đúc, lớn khoẻ là mong ƣớc của ngƣời nông dân. Chính vì vậy trong lời cầu chúc đầu năm, ngƣời hát đã cất lên những tiếng ca cầu chúc những điều tốt đẹp cho công việc nuôi trồng, hứa hẹn một năm mới bội thu. Trong sản xuất nông nghiệp, mỗi bƣớc đi của mùa màng, của chu kì lao động sản xuất đều có những bài ca miêu tả. Quá trình của một vụ cấy đƣợc kể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 cụ thể theo thời gian, từ việc những công việc chuẩn bị cho việc gieo trồng nhƣ cầy bừa, gieo mạ… sự phát triển của cây đến khi thu hoạch. Tháng hai dùng bừa đi lấp luống cày Tháng hai cầm bừa đi phay đất mịn Tháng 3, 15 xuống gieo mạ Tháng 3, 15 gieo mạ hết ….. Tháng bảy quay lại mọi cây non Tháng 8 đến thấy lúa tốt đều Tháng 8 đến thấy lúa lên đòng Tháng 9 đến thấy lúa đã ngả màu vàng Tháng 9 đến thấy lúa chin vàng hết Tháng 10 đến thấy lúa đã gặt Tháng 10 đến thấy lúa gặt xong… (Sli: Chiêng ngột) Bài hát thể hiện sự quan sát tinh tế, những kinh nghiệm thực tiễn và tri thức phong phú về đời sống lao động mà nhân dân đã tích luỹ đƣợc. Công việc của từng tháng đƣợc liệt kê khiến chúng ta nghĩ đến những bài ca nông lịch. Trong sli, lƣợn tiếng hát của thiên nhiên hoà lẫn tiếng ca lao động của con ngƣời, góp phần vẽ lên những bức tranh sinh động về cảnh núi rừng, bản làng, về sức sáng tạo và công việc lao động xây dựng cuộc sống ấm no của dân bản. Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của bản làng, miêu tả và ca ngợi sức lao động của con ngƣời phần nào đã nói lên tinh thần lạc quan, tin tƣởng vào một tƣơng lai tốt đẹp của ngƣời Nùng Phàn Slình nói riêng và đồng bào Nùng nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 2.2. Một số yếu tố nghệ thuật của sli, lƣợn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên Cũng nhƣ một số loại hình nghệ thuật dân gian khác, những bài sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình tồn tại ở dạng thức nguyên hợp, trình diễn theo tinh thần không chuyên và tự giác. Ra đời trong một bối cảnh riêng biệt nên sli, lƣợn mang những nét đặc điểm riêng về nghệ thuật. Ở đây, luận văn chúng tôi không đi sâu vào miêu tả mọi yếu tố của thi pháp mà chỉ khảo sát một số yếu tố nghệ thuật nổi bật trong sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. 2.2.1. Ngôn ngữ Văn học là nghệ thuật ngôn từ - tức là loại hình sử dụng ngôn từ để sáng tạo ra thế giới nghệ thuật. Nhƣ vậy ngôn ngữ là một trong yếu tố quan trọng góp phần tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm nghệ thuật. Với vai trò ấy ngôn ngữ từ lâu đã trở thành một đối tƣợng nghiên cứu không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu thi pháp văn học. Nghệ thuật ngôn ngữ sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình cũng có những đặc điểm chung của nghệ thuật văn học dân gian, là ngôn ngữ nghệ thuật hình tƣợng nói bằng hình ảnh, đặc biệt là những hình ảnh mang tính chất dân tộc miền núi. Ở đây khi tìm hiểu ngôn ngữ thơ của sli, lƣợn, chúng tôi tìm hiểu về phƣơng thức tạo hình trong thơ của ngôn ngữ. * Ngôn ngữ hình tượng mang đậm tính chất miền núi. Ngôn ngữ chính là những chất liệu mà các nhà thơ sử dụng để làm nên tính chất tạo hình ở trong thơ. Một tác phẩm thơ ca có tính chất tạo hình là một tác phẩm đem đến cho ngƣời đọc những bức tranh sinh động về cuộc sống và hiện thực, khiến ngƣời nghe, ngƣời đọc có thể cảm nhận đƣợc. Tính chất dân gian trong các hình tƣợng của sli, lƣợn là tính chất dân gian nói chung mà tính chất dân tộc miền núi rất độc đáo. Chất liệu để xây dựng hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 tƣợng nghệ thuật đều gắn liền với thiên nhiên, hoàn cảnh sống, môi trƣờng sinh hoạt của đồng bào miền núi. Tác giả của các làn điệu sli, lƣợn thực chất là những ngƣời lao động gần gũi với thiên nhiên. Vì thế cách diễn đạt của họ trong thơ ca là lối nói bằng hình ảnh mang dấu ấn của thiên nhiên và mang đậm nét tƣ duy, văn hoá của các dân tộc miền núi. Có thể thấy, những hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền núi đầy ắp trong những khúc hát: Tháng giêng mùa xuân nụ hoa sắp nở Tháng hai mùa xuân cỏ gianh mọc Tháng ba dùng thuổng đào gốc cỏ gianh Tháng tƣ thấy mọi gốc cỏ đã chết Gốc to, gốc nhỏ đều không còn Không còn gốc nào để ngâm rƣợu Không còn rễ nào ngâm rƣợu thuốc Để mời trong cai lẫn ngoài cai. (Cóc va khái) Lời thơ mộc mạc, giản dị nhƣng ý nghĩa sâu sắc. Hình ảnh cỏ gianh mọc và việc đào cỏ gianh về ngâm rƣợu với ngƣời dân miền xuôi có thể là một việc lạ nhƣng với ngƣời miền núi, với các dân tộc thiểu số thì đây là một việc quen thuộc. Với họ, rễ cây cỏ gianh với vị ngọt tính hàn là một loại thuốc rất tốt. Ngắt ngọn bỏ vào thạ Ngắt ngọn thu phấn trong Nhuộm vảo bằng lá chàm Nhuộm sao cho thật đậm. (Lƣợn: Nhọt Lỵ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 Hình ảnh lá chàm, và việc lấy lá nhuộm vải là một việc làm quen thuộc với ngƣời dân lao động miền núi đã đƣợc nhắc tới trong lời bài ca lao động của ngƣời Nùng Phàn Slình, làm nên màu sắc độc đáo cho trang phục của dân tộc. Có thể nói hình tƣợng trong sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Tân Đô gắn liền với kinh tế vƣờn, đồi, mang đậm màu sắc văn hoá của cộng đồng dân tộc Nùng. * Những biện pháp so sánh ví von “So sánh là phƣơng thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là hai sự vật có một nét tƣơng đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe.” [08;189]. “Trong văn chƣơng, so sánh là phƣơng thức tạo hình, phƣơng thức gợi cảm. Nói đến văn chƣơng là nói đến so sánh…Một so sánh đẹp là một so sánh phát hiện. Phát hiện những gì ngƣời thƣờng không nhìn ra, không nhận thấy”. [08;192]. Nhƣ vậy trong văn chƣơng, biện pháp tu từ so sánh có một vai trò quan trọng, đƣợc sử dụng nhằm góp phần mang đến tính tạo hình cao cho ngôn ngữ, góp phần linh hoạt hoá hình ảnh đem đến cho ngƣời đọc những ấn tƣợng thẩm mĩ phong phú. Qua quá trình sƣu tầm và khảo sát, ngƣời nghiên cứu nhận thấy cũng nhƣ các làn điệu dân gian khác, sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình sử dụng nhiều biện pháp tu từ so sánh. Lối so sánh ví von góp phần làm tăng hiệu quả thẩm mĩ cao cho ngôn ngữ sli, lƣợn. Những hình ảnh so sánh ví von ấy là những hình ảnh hết sức gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống. - Nữ: Bóng chàng lớn nhƣ bóng cây to Liệu mình có đƣợc hƣởng hay không - Nam: Đôi mình nhƣ cây mọc gần chợ Nên cả cuộc đời mãi mãi vui. - Nam: Ƣớc gì ta mình nhƣ đôi đũa Đừng để ta mình phải lẻ loi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 “Đôi mình nhƣ cây mọc gần chợ”, “ta mình nhƣ đôi đũa” để khẳng định sự gần kề, song đôi của đôi lứa. Khát vọng hạnh phúc luôn là điểm hƣớng tới trong tình yêu của đôi lứa. Chàng trai đã ví mong ƣớc đƣợc sóng đôi, không tách rời ngƣời yêu với một hình ảnh rất đỗi bình dị: “đôi đũa”. Tính chất “đôi” của vật dụng này đã góp phần nhấn mạnh hơn khát vọng hạnh phúc của chàng trai. - Nam: Anh yêu em qua những năm tháng Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối tiên. - Nữ: Em yêu anh qua năm những năm tháng Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối ngàn. Những hình ảnh so sánh rất đắt, chàng trai, cô gái Nùng Phàn Slình đã diễn tả đƣợc tình cảm của mình một cách sinh động cụ thể mà sâu sắc. Hơn nữa tính chất miền núi trong nghệ thuật so sánh, ví von cũng thể hiện rõ nét. Sli: Ba mình thấy ngƣời nhƣ mặt trăng. Ba thấy ngƣời nói chuyện đang toả sáng. (Pồn cỏ) Da thịt nàng đẹp hơn Trăng rằm sáng mọi nơi. ( Lƣợn: Đệp) Vẻ đẹp của con ngƣời đƣợc so sánh với vẻ đẹp hiền hoà của ánh trăng cũng là lối so sánh ví von thƣờng gặp trong sli, lƣợn của ngƣời Nùng ở xã Hoà Bình, huyện Đồng Hỷ. Đó có thể là so sánh ngang bằng “nhƣ”, có thể là so sánh hơn, nhƣng tất cả đều hƣớng tới làm nổi bật vẻ đẹp của con ngƣời. Trong Si, Lƣợn của ngƣời Nùng những hình ảnh so sánh còn mang đậm lối tƣ duy, nếp cảm, nếp nghĩ chân thành, mộc mạc của cộng đồng dân tộc. - Phấn đấu đƣợc nhƣ ngƣời Hà Nội Thu tiền, chi tiền nhiều nhƣ suối. (Sli: Đối đáp) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 - Chữ to nhƣ hạt vừng Mặt chữ bằng hạt thóc (Lƣợn: Ù Phùng) - Phù hộ lợn gà ở đầy chuồng Thả ra ăn thóc nhƣ kiến ruồi - Cái dài cái ngắn đen nhƣ quạ. Những lối so sánh ấy tạo nên cho lời ca dân gian tuy trong sáng, giản dị mà rất hàm súc. Có thể nói, biện pháp so sánh đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao cho lời sli, lời lƣợn. Nó góp phần làm tăng giá trị tạo hình và biểu cảm cho làn điệu dân ca đặc sắc này. * Những biện pháp ẩn dụ. “Ẩn dụ là phƣơng thức chuyển nghĩa của đối tƣợng này thay cho đối tƣợng khác khi hai đối tƣợng có một nét nghĩa tƣơng đồng nào đó”. [08; 194]. Phép tu từ ẩn dụ có tác dụng thể hiện hình ảnh cụ thể, hàm chứa sức biểu cảm lớn, đem đến sức hấp dẫn mạnh mẽ cho lời nói. Và nói đến ẩn dụ là nói đến thơ ca. Thơ trữ tình mới thực sự là “vƣơng quốc của các ẩn dụ” [08;195]. Trong những bài sli đối đáp, tỏ tình của trai, gái, lối nói ẩn dụ đem đến sự tinh tế cho lời nói. Đó là cách nói bóng gió, ẩn ý sâu xa, tránh lối nói trực tiếp, đêm đến sự tế nhị, kín đáo cho lời tỏ tình. - Nam : Rau cải trong vƣờn, rau cải non Đã có ngƣời nào định hái chƣa ? - Nữ : Rau cải trong vƣờn rau cải cây Ngƣời nào ăn đƣợc thì sẽ hái. Hay trong lời đáp của cô gái : - Chiếc áo mặc rồi chƣa có cúc Rƣợu nếp hoa vàng chƣa ngƣời uống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 Hình ảnh chiếc áo chƣa có cúc, và rƣợu nếp hoa vàng chƣa ngƣời uống là những hình ảnh ẩn dụ hàm ý của cô gái về việc mình chƣa có nơi có chốn, còn đang chờ ngƣời thƣơng, ngƣời hợp. Cách nói bóng gió này giúp lời tâm sự của cô gái vừa tế nhị vừa đủ để chàng trai hiểu ý mình. Sớm dậy đi ra gần bờ ke Sáng mai đến xem có đôi quả Quả chín thơm vàng nhạt hay ngọt Mong em thực lòng ngọt hay nhạt Em hãy vui vẻ sẽ nghênh mình. (Sli: Cam lò) Đôi quả; quả chín thơm là hình ảnh đôi trai gái xứng đôi nhƣ đôi quả chín thơm vàng ngọt. Cùng nói về hình ảnh đôi lứa trong sli đối đáp có câu: Rừng xanh xuất hiện đôi măng trúc. Ruộng tốt xuất hiện bông lúa vàng. Măng trúc, lúa vàng khiến ngƣời nghe nghĩ đến hình ảnh đôi lứa đang yêu. Bởi những hình ảnh ấy là hình ảnh của cái đẹp, của sự sống, hình ảnh của những cặp đôi. Ở đây biện pháp tu từ ẩn dụ đã góp phần nhấn mạnh hơn sự tinh tế, ý nhị trong lời ca ngợi vẻ đẹp tình yêu của những chàng trai, cô gái Nùng. Nói đến tình yêu là nói đến sự hoà hợp trong tâm hồn của con ngƣời. Cũng nói đến điều đó nhƣng nhân vật trữ tình trong lƣợn Ù Phùng lại dùng hình ảnh ẩn dụ: Thật lòng trong tâm tƣởng Đôi dái cá hoà hợp. (Sli đối đáp) Đôi dái cá hay chính là đôi trai gái đang yêu. Không dùng cách nói trực tiếp mà dùng hình ảnh đôi dái cá sẽ tạo cho ngƣời nghe tƣởng tƣợng rõ hơn về sự hoà hợp của đôi lứa. Ngƣời đọc ai cũng hiểu đƣợc sự chân thành trong tình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 yêu của đôi lứa, sự quấn quýt không tách rời. Đó chính là sự thành công của ngƣời nghệ sĩ dân gian trong việc sử dụng các biện pháp ẩn dụ. Trong cuộc sống con đƣờng đến với hạnh phúc không phải là con đƣờng trơn tru, dễ bƣớc. Đặc biệt trong tình yêu, biết bao thử thách luôn dình dập: Mƣa rơi có một chiều Nƣớc sông có vực xoáy Đôi ta vực lên đƣợc Chớ bơi vào vực xoáy ( Lƣợn: Phấn tóc) “Vực xoáy” là hình ảnh chỉ những thử thách, khó khăn đặt ra cho đôi lứa trên con đƣờng tình duyên, những thử thách mà con ngƣời phải vƣợt. Sli, lƣợn là thơ trữ tình, nên nó cũng mang những đặc điểm của thơ trữ tình, cảm xúc của nhân vật trữ tình đƣợc diễn đạt bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Bông hồng lơ lửng giữa biển khơi Gió thổi chiều nào theo chiều đó. (Sli đối đáp). Câu hát bộc lộ nỗi băn khoăn, lo lắng của cô gái, “Bông hồng” là hình ảnh ẩn dụ chỉ vẻ đẹp, tuổi xuân. Cô cảm nhận rõ sự nhỏ bé, yếu đuối của mình giữa biển khơi - biển đời rộng lớn, mà thân phận lại bị phụ thuộc “gió thổi chiều nào theo chiều đó”. Nỗi băn khoăn, lo lắng của một ngƣời có ý thức và nhu cầu làm chủ bản thân khi nhìn về tƣơng lai của mình. Câu ca gợi chúng ta nghĩ đến câu ca dao của dân tộc Kinh : Thân em nhƣ tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. (Ca dao) Tóm lại, với biện pháp tu từ ẩn dụ, chúng ta tiếp xúc với một thế giới thơ độc đáo và sâu sắc. Trong thế giới ấy, tình cảm của con ngƣời luôn đƣợc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 diễn tả một cách sinh động, tinh tế, ý nhị. Đó chính là một yếu tố quan trọng làm cho ngôn ngữ thơ sli, lƣợn hay hơn, đặc sắc hơn. Nhƣ vậy trong tìm hiểu thơ ca trữ tình, yếu tố ngôn ngữ là cánh cửa đƣa ngƣời đọc đi vào tìm hiểu thế giới tình cảm của con ngƣời. cũng nhƣ Hoài Thanh đã từng nhận xét : “Lời thơ dân gian không những sẽ bƣớc đầu cho ta làm quen với tâm tƣ tình cảm của đồng bào ta xƣa mà đồng thời sẽ còn giúp ta học những cách nói năng tài tình chính xác. Theo tôi đối với một ngƣời việt Nam mà thiếu kiến thức này thì có thể xem nhƣ thiếu một trong những điều cơ bản” [9;36]. 2.2.2. Kết cấu Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên : “Kết cấu là sự phân chia và bố trí các phần các chƣơng mục theo một hệ thông nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm”. Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. “Kết cấu là phƣơng tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tƣ tƣởng của tác phẩm”. [12;132] Qua quá trình sƣu tầm và khảo sát những bài sli, bài lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy những làn điệu dân ca sli, lƣợn nơi đây có hình thức kết cấu độc đáo. Mỗi loại lại có một hình thức kết cấu khác nhau nhƣng đều cùng chung chức năng : bộc lộ chủ đề và tƣ tƣởng của tác phẩm. * Kết cấu đối đáp. Trong số những bài sli, bài lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình có một số lƣợng khá lớn là những bài sli đối đáp. Trong số những bài sli đối đáp ngoài những bài sli đối đáp chào hỏi giữa chủ và khách thì phần lớn là những bài sli đối đáp giao duyên, tỏ tình của những chàng trai, cô gái. Từ những mối tình chủ động của đôi nam nữ, ngƣời Nùng Phàn Slình có cả một kho tàng những điệu sli, điệu lƣợn bay bổng, ngọt ngào. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 - Bên nam hát: Hôm nay rất may mình gặp mặt Cùng nhau tâm sự những điều hay. - Bên nữ trả lời : Hôm nay đến với quê hƣơng mình Học hỏi quê mình đƣờng làm ăn. - Bên nam hát: Công việc làm ăn còn lâu dài Hát sli, hát lƣợn một thời thôi - Bên nữ hát : Việc làm việc ăn nuôi sống ngƣời Hát sli, hát lƣợn bóng gió thôi. Kết cấu hai vế đối đáp là kết cấu chủ yếu trong các bài sli hát trong đám cƣới, trong những ngày hội làng… của ngƣời Nùng Phàn Slình. Bằng lối kết cấu này sli đối đáp vận dụng phép đối ý, đối lời là chủ yếu. Thủ pháp nghệ thuật này tạo ra sự hài hoà cân đối giữa lời hỏi và lời đáp, giữa những câu thơ với câu thơ. - Nam : Rồng phƣợng bay qua bao sông biển Có biết hai ta tình vấn vƣơng - Nữ: Một năm mƣời hai tháng trôi qua Ong bƣớm cùng giao hoà vui sƣớng - Nam: Anh yêu em qua những năm tháng Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối ngàn - Nữ: Em thƣơng anh qua những năm tháng Nhƣ chim rừng uống nƣớc suối tiên. Có thể nói sự đối ý, đối lời đƣợc sử dụng tới mức tối đa. Trƣớc những lời vấn, những lời đáp bao giờ cũng bám sát nội dung, chủ đề của lời hỏi, tạo sự cân đối hài hoà, chặt chẽ trong cấu trúc và nội dung giữa lời hỏi và lời đáp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 Phần lớn những bài sli đối đáp thƣờng không quá dài, mỗi câu vấn, hay câu đáp chỉ gồm hai dòng thơ, ngắn gọn đủ để ngƣời nghe tiếp nhận. Lời đối đáp diễn ra dƣới hình thức đối đáp bao giờ cũng gồm hai nhân vật, ngƣời nói và ngƣời nghe, hai bên lần lƣợt đổi vai nghe nói cho nhau. Với hình thức đối đáp, đòi hỏi sự ứng tác, chính vì thế qua những lời hát, đối phƣơng có thể đánh giá đƣợc sự thông minh, nhậy bén và mức đội tình cảm của ngƣời bạn hát. Chẳng hạn chàng trai hát: Đến đây ta có đôi lời tâm sự Nhƣng lại sợ đem phiền cho bạn Cô gái đáp lại: Tuy khó nói nhƣng hãy cùng tâm sự Nhƣ mạ gặp nƣớc nhƣ lúa gặp mƣa. Để rồi sau những lời làm quen, qua những lần gặp gỡ, khi đã bén duyên họ hát lên những lời hát tình tứ: Chàng trai: “Hƣơng vị quả ngon lòng ngậm ngùi nhớ mãi” Cô gái ý nhị, kín đáo: “Hƣơng vị quả ngon lòng ngậm ngùi nhớ thƣơng” Tóm lại đối đáp là một hình thức kết cấu trong số những bài sli của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. Lối kết cấu đó đƣợc biểu hiện bằng nhiều hình thức, mang lại sắc thái và giá trị biểu cảm phong phú, góp phần tạo nên sự độc đáo cho làn điệu sli, lƣợn. * Kết cấu lặp Một hình thức kết cấu thƣờng gặp trong sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên là phép lặp. Biện pháp nghệ thuật này có tác dụng tạo nhịp điệu dồn dập cho lời thơ, hình ảnh thơ đƣợc khắc hoạ ấn tƣợng, rõ nét. Trong bài Lƣợn Đệp: Yêu em, anh vui lòng Yêu núi cao mây phủ Núi phủ mây phủ sƣơng Mây phủ núi phủ kín (Lƣợn) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 Những yếu tố ngôn ngữ đƣợc lặp lại tạo thành từng cặp câu thơ liền kề. Cùng với việc lặp lại những yếu tố ngôn ngữ là thể thơ ngũ ngôn, hoặc thất ngôn. Số tiếng ở mỗi câu là bằng nhau, mỗi lời sli, câu lƣợn xét về mặt nhịp điệu có sự cân đối hài hoà, êm ái trong lời ca. Bƣớc vào cổng nhà đầy thông gia Bƣớc vào cổng nhà đầy liên gia Bốn bề tứ phƣơng anh em đến Bốn bề tứ phƣơng đến tại nhà Không rõ mời rƣợi hay mời trà Không rõ mời trà hay mời rƣợu… (Sli Lảu) Có khi đó là khẩn chƣơng trong nhịp điệu lao động: Khắp núi rừng mọc cây gỗ tạp Khắp núi rừng mọc cây gỗ nghiến Để mình cầm dao đến mình chặt Để mình mang dao đến mình phát Vừa ôm vừa bê về rào rau Vừa ôm vừa bê về rào mía Đừng để lợn to vào phá rau Đừng để lợn to vào phá mía Để vƣờn tốt đƣợc ra vƣờn tốt Để bãi mía ngon ra mía ngon. (Sli: Khẩn kinh). Hình thức lặp ở đây không phải là lặp hoàn toàn, mà đã có sự lựa chọn, thay đổi từ ngữ, đặc biệt là lặp nhƣng vẫn duy trì sự phát triển trong nội dung ý nghĩa của câu thơ nên lặp nhiều nhƣng không đơn điệu mà câu thơ vẫn mang những sắc thái mới phong phú, độc đáo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 Nhiều khi việc lặp lại trong những câu thơ góp phần diễn tả tâm trạng của nhân vật, diễn tả bƣớc đi của tâm trạng: Bƣớc lên trến đá đặt nón chờ Bƣớc lên trên đá đặt nón đợi Mai này cách xa còn mãi nhớ Dù không chung sống cũng chung thời Để mình mãi mãi còn luyến lƣu. (Sli Só Sình) Nhƣ vậy kết cấu lặp không những có ý nghĩa tạo ra nhạc điệu cho lời thơ mà còn góp phần thể hiện, truyền đạt nội dung ý nghĩa của bài hát. Trong những bài sli nói về các tháng trong năm và công việc lao động cần làm cho việc cấy hái ở từng tháng, việc lặp lại những câu thơ đã góp phần diễn tả nhịp điệu của thời gian, từng bƣớc đi đều đặn. Sự lặp lại câu thơ, từ ngữ, hình ảnh tạo ra cảm xúc nối tiếp, vô tận, cuốn hút ngƣời nghe vào mạch cảm xúc của bài hát, tạo hiệu quả độc đáo cho lời ca dân gian. 2.2.3. Diễn xướng sli, lượn Trong việc tìm hiểu một tác phẩm văn học dân gian, ngƣời nghiên cứu không thể không tìm hiểu về hình thức diễn xƣớng của tác phẩm ấy. Diễn xƣớng là môi trƣờng sống cố hữu của văn nghệ dân gian. Từ điển tiếng Việt định nghĩa : “Diễn xƣớng là trình bày sáng tác dân gian bằng động tác, lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu”. Môi trƣờng diễn xƣớng, hình thức diễn xƣớng mặc dù là những yếu tố nằm ngoài văn bản nhƣng nó lại có vai trò là những yếu tố nghệ thuật mang tính đặc thù của thi pháp văn học dân gian, là những thành tố của một tác phẩm văn học dân gian, góp phần làm nên giá trị mĩ học của tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 * Môi trường diễn xướng Nhắc tới môi trƣờng diễn xƣớng là chúng ta nhắc tới không gian diễn xƣớng và thời gian diễn xƣớng. Các bài sli, bài lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình gắn liền với các hoạt động sinh hoạt văn hoá, tín ngƣỡng của cộng đồng. Không gian diễn xƣớng của sli, lƣợn chính là môi trƣờng sinh hoạt, là nơi tiến hành tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hoá, tín ngƣỡng của cộng đồng. Với mỗi hoạt động sinh hoạt văn hoá khác nhau thì lại có một môi trƣờng diễn xƣớng cụ thể khác nhau. Nhƣng nhìn chung các bài sli, bài lƣợn thƣờng đƣợc diễn ra ngay trong nhà. Không gian nhà sàn đã trở thành một sân khấu để tổ chức các cuộc hát. Hát mừng nhà mới, hát mừng sinh nhật hay những bài ca chúc mừng năm mới của khách khi đến thăm nhà…. Trong đám cƣới không gian nhà sàn cũng chính là nơi diễn ra những lời hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái…Những buổi hát tỏ tình trong những đêm mùa xuân bên bếp lửa ấm ấp tạo một không gian thân mật, tình cảm, rút ngắn khoảng cách giữa “chủ” và “khách” để những ngƣời tham gia buổi hát trở nên gần gũi hơn, cùng cất lên những lời ca mƣợt mà tha thiết.. Có lẽ vì thế mà trong “sli, lƣợn dân ca trữ tình Tày Nùng” tác giả Vi Hồng đã nói : “Lƣợn sân khấu nhà sàn”. Ngoài ra không gian diễn xƣớng của sli, lƣợn còn diễn ra ở ngoài trời. Ngƣời Nùng Phàn Slình có thể cất lên tiếng hát ngay khi đan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV2010_SP_HoangThuyNga.pdf