Luận văn Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CÁC LOẠI HÌNH QUAN HỆ SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA 7

1.1. Quan hệ sản xuất và sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta thời kỳ trước đổi mới 7

1.2. Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất từ khi đổi mới đến nay (từ 1986 - nay) 28

Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 65

2.1.Phương thướng xây dựng quan hệ sản xuất ở nước ta 65

2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 75

KẾT LUẬN 102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103

 

 

doc109 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 2000 là 7,31%GDP, năm 2002 là 8,3% GDP và năm 2004 là 8,39% GDP “so với kinh tế nhà nước: "năm 2000 là 38,53% GPD, năm 2002 là 38,31% GPD và năm 2004 là 39,22% GDP" [73, tr.6]. Như vậy, tỉ lệ đóng góp vào GDP của đất nước của kinh tế tư bản tư nhân liên tục tăng trong khi đó kinh tế nhà nước lại hầu như không tăng, hoặc giảm đi. Điều này đã làm thay đổi cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế ở nước ta. Qua đó, sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và từng bước tạo sự thay đổi về cơ cấu thu của ngân sách. Thứ ba, sự hình thành và phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân trong những năm đổi mới đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế theo yêu cầu của cơ chế thị trường, xoá bỏ dần cơ chế độc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp tương đối đông đảo về số lượng và có sự nhạy bén theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Đây thực sự là môi trường để phát huy nguồn lực con người cho đất nước trong thời kỳ mở cửa. Giờ đây ngoài 6.000 giám đốc doanh nghiệp nhà nước còn có 35.000 chủ doanh nghiệp tư nhân. Đó là tài sản lớn mà trước thời kỳ đổi mới ta không có được và là một trong những lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được kinh tế tư bản tư nhân cũng bộc lộ những mặt hạn chế đó là: Một là, Phần lớn các cơ sở của doanh nghiệp tư nhân đều có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế. Theo số liệu thống kê "87,2% doanh nghiệp tư nhân có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, những doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 1%" [65, tr.144]. Như vậy, phần lớn kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta, có quy mô nhỏ bé, sản xuất còn phân tán, vốn bình quân ít, do đó sức cạnh tranh của hàng hoá còn thấp. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kinh tế tư bản tư nhân phát triển. Mặt khác, lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân chủ yếu là lao động phổ thông ít được đào tạo, trình độ văn hoá, kỹ năng thấp. Trong khu vực này "chỉ có 5,13% lao động có trình độ đại học, khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp chuyên môn” [65, tr.145]. Theo chủ nghĩa Mác- Lênin lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người lao động. Trình độ người lao động ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Do trình độ của người lao động ở khu vực kinh tế tư bản tư nhân còn thấp cho nên sản phẩm làm ra chất lượng không cao, khả năng cạnh tranh thấp, đặc biệt trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay thì trình độ người lao động là rất quan trọng. Vì vậy, trong những năm tới Đảng, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp về đào tạo người lao động. Hai là, bên cạnh các Công ty, doanh nghiệp tư nhân dũng cảm đầu tư kinh doanh còn một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp tư nhân móc nối, cấu kết với một số doanh nghiệp nhà nước, cán bộ nhà nước thoái hoá, biến chất để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, trốn tránh pháp luật, kinh doanh trái phép gây ra những vụ đổ bể kinh tế lớn của ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước, đã làm mất lòng tin của doanh nghiệp đối với kinh tế tư bản tư nhân. Qua đổi mới, khu vực kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta được phục hồi và phát triển. Khu vực kinh tế này, đã phát huy tích cực đối với nhiều mặt kinh tế - xã hội ở nước ta, bên cạnh đó nó còn có mặt hạn chế. Để phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa khống chế tác động tiêu cực đòi hỏi cần phải có sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở nước ta còn biểu hiện ở một bộ phận của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần kinh tế này mới được phân định lần đầu tiên tại Đại hội đại biểu lần IX của Đảng. Tuy nhiên, sự hiện diện của nó đã có từ lâu trong nền kinh tế. Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với chính sách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, với việc Nhà nước ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã xuất hiện và luôn có tốc độ tăng trưởng cao. Trong những năm qua, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn kinh tế trong nước, tỷ trọng của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng tương ứng với sự giảm tương đối của khu vực kinh tế trong nước. Theo số liệu thống kê: "Tính theo giá so sánh năm 1994, tỷ trọng trong giá trị sản xuất toàn ngành kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài năm 1990 mới đạt 17,5%, thì đến năm 2000 đạt 35,5%" [65, tr. 134]. Nhớ đó, đóng góp vào GDP của đất nước của thành phần kinh tế này tăng liên tục “năm 2000 là 13,28% GDP, năm 2002 là 13,76% GDP và năm 2004 là 15,17% GDP” [73, tr.6]. ở nhiều địa phương, vai trò của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng đáng kể chẳng hạn ở tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 85,5% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp của tỉnh, ở Đồng Nai là 68,2%, ở Bình Dương là 53,9%. Mặt khác, nếu xét theo sản phẩm; thì giá trị sản phẩm do kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất ra đối với nhiều sản phẩm cũng chiếm tỷ lệ cao chẳng hạn: Những sản phẩm hoàn toàn do khu vực kinh tế có vốn nước ngoài tạo ra: "chiếm 100% gồm: dầu thô, bột ngọt, ôtô... kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 91,8% đối với xe máy, 80,8% đối với tivi, 62,2% với xà phòng, máy công cụ 56,4%, thép cán 53,3% [65, tr.134]. Sự phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào khai thác các nguồn nhân lực, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhờ vậy góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, với sự có mặt của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động đông đảo ở nước ta. Đặc biệt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần làm gia tăng chất lượng nguồn nhân lực, kể cả lao động quản lý và kỹ năng của người lao động sản xuất trực tiếp. Do các doanh nghiệp đầu tư vào nước ta phần lớn là các nước phát triển, có nền công nghiệp lâu đời. Do đó, khi họ đầu tư vào trong nước chúng ta sẽ học tập được hình thức tổ chức, quản lý của họ để nâng cao trình độ cho đội ngũ những người lao động ở nước ta, làm quen với môi trường công nghiệp. Chủ động thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những con đường chính yếu góp phần thu hẹp khoảng cách về kinh tế, chống nguy cơ tụ hậu giữa nước ta với các nước trong khu vực, đồng thời sẽ rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Tuy nhiên các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào nước ta còn gặp một số trở ngại: Cơ sở pháp lý cho việc thu hút khuyến khích đầu tư nước ngoài chưa đồng bộ, chưa đặt trong mối tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước khác. Những năm qua, chính phủ đã tập trung cải tiến thủ tục hành chính để tiến tới "một của một dấu" nhưng công việc này còn chưa đạt yêu cầu so với mong muốn. Thủ tục hành chính vẫn là một cản trở lớn trong thu hút đầu tư của nước ngoài. Bên cạnh đó, công tác quản lý vĩ mô của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn thiếu quy hoạch tổng thể mang tính chiến lược lâu dài. Đây cũng là một lực cản gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư, không ít lĩnh vực mà Nhà nước chưa mạnh dạn thu hút đầu tư nước ngoài như: viễn thông, điện lực. * Loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa Đặc điểm của nước ta vốn là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, sản xuất nhỏ là phổ biến, lại bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa tồn tại là một tất yếu khách quan và chiếm một bộ phận không nhỏ trong nền sản xuất của xã hội. Những năm qua, kể từ khi có sự lãnh đạo của Đảng loại hình quan hệ sản xuất này ở nước ta có sự biến đổi. Thời kỳ trước đổi mới, loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa được coi là đối tượng của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do tư tưởng chủ quan nóng vội, duy ý chí vi phạm quy luật khách quan, chúng ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất. Việc nhận thức quan hệ sản xuất đi trước mở đường đã dẫn chúng ta tới quan niệm rằng chỉ cần xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là có chủ nghĩa xã hội. Khi đó, chúng ta cho rằng sản xuất nhỏ hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản bởi vậy, trong lĩnh vực nông nghiệp mặc dù lao động thủ công là phổ biến trình độ tổ chức, quản lý còn thấp chúng ta đã tiến hành đưa người nông dân cá thể vào sản xuất hợp tác xã, rồi từ hợp tác xã bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao. Sau đại hội lần thứ VI của Đảng, do đòi hỏi bức xúc của cuộc sống nên Đảng, Nhà nước ta đã ban hành chính sách kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất. Từ đó, loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa được thừa nhận tồn tại, góp phần giải phóng lực lượng sản xuất ở nước ta. Đại hội lần thứ VI thừa nhận ngoài quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (bao gồm quốc doanh và tập thể) thì còn có nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác trong đó có: "kinh tế tiền sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể) và kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác" [17, tr.56-57]. Kể từ đó đến nay, loại hình quan hệ sản xuất này đã có nhiều thay đổi qua các thời kỳ Đại hội lần 7, 8, 9 đều thừa nhận đây là thành phần cá thể, tiểu chủ. Nó có đặc điểm là dựa trên lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công cụ lao động chủ yếu là thủ công. Bên cạnh đó loại hình kinh tế tự cấp tự túc vẫn tồn tại ở miền núi phía Bắc và ở Tây Nguyên. Với sự thừa nhận sự tồn tại đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản mang tính pháp lý giúp cho thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển như: Nghị định 221/HĐBT (ngày 27/7/1991) về "cá nhân và nhóm kinh doanh" nghị quyết 10 năm 1988 về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Nhờ đó, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa đã phát triển nhanh chóng. Trong giai đoạn 1993 - 1998 lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp tăng bình quân 220 cơ sở. Cụ thể năm 1993 có 900.000 cơ sở thì đến năm 1995 có 1.500.000 hộ cá thể, tiểu chủ đăng ký kinh doanh. Hai năm sau con số này đã tăng lên 1.800.000 cơ sở, tăng thêm 300.000 cơ sở. Năm 1998 là 2.000.000 cơ sở tăng thêm 200.000 cơ sở so với 1993 và năm 2004 là 3.000.000 hộ [65, tr.138]. Trong lĩnh vực nông nghiệp sau khi thực hiện chính sách khoán thì người nông dân thực sự được "cưởi trói" và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, chúng ta có: "12 triệu hộ nông dân, hộ thực sự là những đơn vị kinh tế độc lập. Những năm gần đây hộ đã phát triển thành mô hình trang trại, năm 1999 ở nước ta đã có 113.000 trang trại và năm 2004 là 130.000 trang trại” [70, tr. 25]. Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển đã đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước đó là: Thứ nhất, góp phần tích cực vào tạo việc làm, tận dụng lao động của xã hội. Nước ta là một nước có dân số trẻ hàng năm số người đến độ tuổi lao động khoảng 1,5 triệu người. Do vậy, kinh tế cá thể tiểu chủ phát triển đã tạo ra công ăn việc làm cho rất nhiều người, theo số liệu thống kê "năm 1998 có 8.000.000 người làm việc trong loại hình kinh tế cá thể tiểu chủ, chiếm 20,1% lực lượng lao động của xã hội và 3.386.300 lao động làm việc trong khu vực kinh tế hộ nông nghiệp chiếm 88,49% lực lượng lao động toàn xã hội" [65, tr.141]. Thứ hai, góp phần quan trọng vào cơ cấu GDP của đất nước. Từ chỗ là đối tượng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đến nay loại hình kinh tế này đã góp khoảng 1/3 GDP của đất nước, cụ thể là: “ năm 2000 là 32,31% GDP, năm 2002 là 31,42% GDP và năm 2004 là31,5% GDP" [73, tr.6]. Như vậy, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa đã góp phần không nhỏ vào sự đóng góp GDP cho đất nước nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh" Bên cạnh đó loại hình quan hệ sản xuất này có mặt hạn chế. Đây là quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, do đó lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công cụ lao động sản xuất thủ công, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp, phần lớn các hộ kinh doanh cá thể và các hộ nông dân ở nước ta đều có quy mô sản xuất nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp, các phương án tổ chức kinh doanh của họ không có luận cứ khoa học, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm là chính. Lao động trong khu vực kinh tế này chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, trình độ văn hoá tay nghề còn thấp chỉ có 0,5% số lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Đây đang là một cản trở đối với thành phần kinh tế này cũng như cản trở sự phát triển của nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Về loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa thể hiện ở sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp. Hiện nay, loại hình quan hệ sản xuất này vẫn còn tồn tại ở nước ta, chủ yếu là ở đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc. Đời sống của đồng bào hết sức khó khăn do điều kiện địa lý cách biệt, cơ sở hạ tầng kém phát triển, khả năng tiếp cận với các nguồn lực sản xuất rất hạn chế, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Đây là diện đói nghèo cần được xóa bỏ. Theo thời “báo kinh tế và dự báo “ số 11/2004 thì: "có khoảng 6,2 triệu người thuộc các hộ tiểu nông của vùng núi và trung du phía Bắc, chiếm 58% tổng số dân số làm nông nghiệp trong vùng đang trong tình trạng thiếu thốn hoặc có nguy cơ thiếu lương thực" [32, tr.34]. Loại hình quan hệ sản xuất này chủ yếu tập trung ở một số ít dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, vùng sâu vùng xa như: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, đồng bào vẫn sống trong tình trạng du canh, du cư. Những năm qua, Đảng Nhà nước đã có nhiều chính sách để phát triển loại hình quan hệ sản xuất này nhằm mục đích là: xoá bỏ dần loại hình quan hệ sản xuất thấp kém này: Đó là các chính sách "xoá đói giảm nghèo" như: Dự án định canh, định cư tập trung chủ yếu vào hỗ trợ phát triển sản xuất chương trình 327 và 661 nhằm phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và trồng 5 triệu ha rừng, chương trình 135 là chương trình kinh tế - xã hội tổng hợp... nhờ đó mà số người đói nghèo ở nước ta đã giảm đi rõ rệt. “Nhờ phong trào vận động bà con dân tộc xuống núi, điển hình như ở Bắc Cạn 35,4% số hộ thuộc diện định canh định cư đã ổn định đời sống, gần 71% số hộ được hưởng lợi từ dự án này. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở khu vực này đã giảm từ 50% năm 2000 xuống còn 21,5% năm 2003" [32,tr.35]. Xét trên phạm vi cả nước thời gian qua nước ta được công nhận là quốc gia thành công trong xoá đói giảm ngheo. Tỷ lệ đói nghèo ở nước ta liên tục giảm. "Năm 1998 có 37% hộ đói nghèo thì đến năm 2002 chỉ còn 29,4% và năm 2003 là 27%" [32, tr.34]. Tuy nhiên, loại hình quan hệ sản xuất này cho đến nay vẫn còn tồn tại ở một số ít dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc và vùng sâu vùng xa. Do đó, Nhà nước cần tiếp tục các dự án xoá đói giảm nghèo để tránh tình trạng tái nghèo và tiến tới xoá bỏ triệt để loại hình quan hệ sản xuất này ở nước ta, góp phần thúc đẩy đất nước ta phát triển theo mục tiêu:"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Tóm lại, các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta đang trong quá trình vận động và biến đổi; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đang giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ các ngành, các lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế, các lĩnh vực liên quan tới quốc phòng an ninh. Kinh tế nhà nước là lực lượng chủ lực, giữ vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển đất nước. Những năm gần đây, kinh tế nhà nước có tốc độ tăng trưởng chậm lại, hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao, mức sinh lời thấp, kinh tế tập thể có sự giảm sút, hiệu qủa sản xuất kinh doanh và địa vị xã hội mờ nhạt, sức cạnh tranh kém so với các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao, sức cạnh tranh lớn, nhiều mặt hàng chiếm ưu thế vượt trội trong nền kinh tế. Kinh tế tư bản tư nhân phát triển nhanh, số lượng doanh nghiệp tư bản tư nhân ngày càng nhiều, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với kinh tế nhà nước... Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đã tạo ra môi trường kinh tế hấp dẫn cho sản xuất kinh doanh ở nước ta, làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu quả, xóa bỏ dần sự độc quyền của kinh tế nhà nước. Đối với quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, loại hình này đang có sự phát triển, số hộ nông dân cá thể chuyển sang mô hình trang trại hoặc sản xuất phi nông nghiệp ngày càng nhiều, quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, kinh tế cá thể, tiểu chủ có hai xu hướng, phát triển thành tư bản tư nhân hoặc đi vào kinh tế tập thể. Như vậy, sự vận động, biến đổi của nền kinh tế dựa trên cơ sở đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta có hai xu hướng khác nhau: hoặc là, nền kinh tế tự phát đi lên tư bản chủ nghĩa; hoặc là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Để nền kinh tế phát triển có kế hoạch, có định hướng thì cần phải có sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước nhằm đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải tiếp tục đổi mới, phát triển có hiệu quả quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm sao cho quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, chi phối, dẫn dắt các loại hình quan hệ sản xuất khác. 1.2.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng với chủ trương "thực hiện nhất quán lâu dài chính sách kinh tế hàng hóa nhiều thành phần", thực hiện đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta, đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất và tạo ra sự phát triển năng động trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, còn có những hạn chế, quá trình phát triển cũng đặt ra một số vấn đề sau: Vấn đề thứ nhất: Vai trò chủ đạo của loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin thì trong mỗi hình thái kinh tế -xã hội thường tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất, bao gồm: Quan hệ sản xuất tàn dư do xã hội cũ để lại. Quan hệ sản xuất thống trị, đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội ấy. Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối các loại hình quan hệ sản xuất khác. Điều này đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức rõ và xác định như sau: Trong các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo. Tuy vậy, vai trò chủ đạo đó cũng được hiểu khác nhau qua các thời kỳ của lịch sử. Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã tiến hành cách mạng trên lĩnh vực quan hệ sản xuất. Do mắc phải tư tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí chúng ta đã tiến hành xoá bỏ các loại hình quan hệ sản xuất khác một cách chủ quan. Thực chất là "xoá" và "chuyển", xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, và tiền tư bản chủ nghĩa, như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ và chuyển chúng thành kinh tế xã hội chủ nghĩa, dưới hình thức quốc doanh và tập thể. Thời kỳ đó, kinh tế quốc doanh chiếm số lượng tuyệt đối trong nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác tốn tại không đáng kể. Các kỳ Đại hội Đảng lần 3,4,5 đều tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất theo hướng phát triển nhanh về số lượng loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bất chấp đòi hỏi khách quan của nền kinh tế lúc đó. Trước đổi mới, vai trò chủ đạo được biểu hiện ở số lượng tuyệt đối của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Từ khi đổi mới đến nay, quan niệm về sự chủ đạo đã thay đổi, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là phát triển nhiều thành phần kinh tế nhưng kinh tế nhà nước giữ "vai trò chủ đạo", "vai trò chủ đạo" đó được hiểu theo tinh thần mới đó là nắm giữ các khâu, các mặt hàng trọng yếu, xây dựng kết cấu hạ tầng, dẫn dắt, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển... Vai trò của kinh tế nhà nước đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần IX xác định như sau: Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng về khoa học - công nghệ, nêu gương về năng suất chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật [20, tr.96]. Qua đổi mới, kinh tế nhà nước mặc dù vẫn chiếm vai trò chủ đạo, nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như: bưu điện, điện lực, ngân hàng, bảo hiểm, xi măng... nhưng vấn đề đặt ra là hiệu quả kinh tế - xã hội. Những năm vừa qua, chúng ta đã tập trung ưu tiên đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước tương đối lớn, chiếm 80% vốn đầu tư của nhà nước. Kinh tế nhà nước cũng được hưởng nhiều ưu đãi mà khu vực kinh tế khác không có như: Sử dụng mặt bằng sản xuất kinh doanh ở những nơi tốt nhất, thuận lợi nhất, vay tín dụng ưu đãi, tiếp cận vốn vay ngân hàng dễ dàng do nhà nước đứng ra bảo lãnh... nhưng kết quả hoạt động nhìn chung còn thấp “Năm 1998 số doanh nghiệp nhà nước thực sự có hiệu quả chỉ chiếm 40%, số doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả bị lỗ liên tục chiếm 20%, còn 40% là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa có hiệu quả nằm trong tình trạng khi lỗ khi lãi" [ 65, tr.119]. Nói tới vai trò chủ đạo của loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, là phải nói tới hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội chứ không chỉ có chiếm số lượng đông đảo và dựa vào sự nâng đỡ của nhà nước. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội bao giờ cũng có một loại hình quan hệ sản xuất chiếm vị trí chủ đạo chi phối. Tuy nhiên, vai trò chủ đạo đó trước hết phải dựa trên hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội, sau đó mới là dựa trên sức mạnh về chính trị, chẳng hạn; trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa có nhiều loại hình quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, sở dĩ như vậy, là vì loại hình quan hệ sản xuất này có ưu thế hơn hẳn, vượt trội về năng suất, chất lượng và hiệu quả so với quan hệ sản xuất phong kiến. Đối với nước ta, đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó vai trò chủ đạo của loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, để làm được điều này thì kinh tế nhà nước phải đi đầu về "năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế". Tuy nhiên, hiện nay kinh tế nhà nước hiệu quả sản xuất kinh doanh còn kém chỉ có 40% doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả còn lại là không có hiệu quả, mặc dù dã có rất nhiều ưu đãi so với các loại hình quan hệ sản xuất khác. Đây là một vấn đề đang đặt ra cho nước ta trong quá trình phát triển đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, nếu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển không có hiệu quả thì tất yếu, sớm hay muộn cũng bị các loại hình quan hệ sản xuất khác vượt qua, khi đó chúng ta sẽ mất vai trò chủ đạo, mất định hướng. Đối với kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể có vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là đối với khu vực nông thôn. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tập thể ngày càng trở lên cần thiết đối với những người lao động và những người sản xuất nhỏ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “ kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kinh tế tập thể còn có những hạn chế, làm ảnh hưởng tới vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn, sau khi có luật hợp tác xã và có sự chuyển đổi mô hình hợp tác xã kiểu cũ sang hợp tác xã kiểu mới thì: “Chỉ có một số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho hoạt động kinh tế của các thành viên, còn phần lớn các hợp tác xã sau khi chuyển đổi vẫn ở trong tình trạng lúng túng, bế tắc về nội dung hoạt động, hiệu quả kém, nhiều hợp tác xã chỉ tồn tại hình thức” [64, tr.145]. Như vậy, hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã sau khi chuyển đổi là chưa cao, vai trò của kinh tế tập thể còn mờ nhạt, chưa thật sự nổi bật so với các thành phần kinh tế khác. Trong những năm tới, để kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân thì cần phải nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể tuy chỉ chiếm 12% GDP của đất nước (năm 1994) nhưng có vai trò rất lớn trong vấn để giải quyết việc làm cho người lao động và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu chúng ta không nâng cao được hiệu quả kinh tế của kinh tế tập thể thì kinh tế tập thể không thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta sẽ bị suy yếu. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho chúng ta là để giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa cần phải tăng cường vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng cách nâng cao hiệu quả kinh tế của kinh tế tập thể. Vấn đề thứ 2: là cần hoàn thiện cơ chế chính sách để thúc đẩy sự phát triển đa dạng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docmucluc.doc
Tài liệu liên quan