Luận văn Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG KINH TẾ VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 6

1.1. Quyền lực nhà nước trong phát triển kinh tế 6

1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước trong phát triển kinh tế và kinh tế thị trường 6

1.1.2. Vài nét về một số lý thuyết và kinh nghiệm thế giới về vai trò chức năng nhà nước đối với sự phát triển kinh tế 14

1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò chức năng nhà nước trong kinh tế thị trường 25

Chương 2: VAI TRÒ NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦN NGHĨA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY 32

2.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ 1986 đến nay 32

2.1.1. Một số đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam trước và trong đổi mới 32

2.1.2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 39

2.2. Thực trạng hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực kinh tế từ 1986 đến nay 42

2.2.1. Hoạt động của bộ máy nhà nước trong quản lý hành chính về kinh tế 42

2.2.2. Hoạt động nhà nước trong quản lý điều tiết kinh tế (hoạch định chính sách) 45

2.2.3. Thực trạng kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay 49

2.3. Đánh giá khái quát việc thực thi vai trò quyền lực nhà nước trong kinh tế 52

Chương 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 56

3.1. Mục tiêu, phương hướng cơ bản phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 56

3.2. Một số định hướng tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 57

3.2.1. Vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất 57

3.2.2. Nhà nước quản lý, điều tiết vĩ mô 65

3.2.3. Nhà nước hoạch định chính sách 68

3.2.4. Nhà nước hoạch định các chính sách xã hội và tích cực giải quyết vấn đề xã hội 73

3.3. Một số giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 77

3.3.1. Xác định đúng vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 77

3.3.2. Đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của thể chế nhà nước 81

3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội 90

KẾT LUẬN 95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101

 

 

 

 

doc103 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2453 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rước yêu cầu phát triển nhanh của thực tiễn. Những quy định, quy phạm ở lĩnh vực phục vụ cung cấp dịch vụ cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân chưa thật sự bảo đảm để người dân được hưởng các dịch vụ của nhà nước. Tệ quan liêu, cửa quyền, xin cho, lệch lạc trong hưởng thụ các loại dịch vụ do nhà nước cung cấp vẫn còn nặng nề. Hoạt động của bộ máy hành chính kinh tế vẫn còn nhiều bất cập, chưa thể hiện đúng vai trò, chức năng của nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi. Trong khi xây dựng các thể chế, chưa tạo đủ sự rành mạch giữa hành chính với doanh nghiệp, giữa hành chính với sự nghiệp, giữa trung ương với địa phương, thậm chí có biểu hiện rối loạn về tổ chức, chức năng, trật tự kỷ cương. Trong hoạt động kinh tế còn nhiều thủ tục phiền hà làm ách tắc hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, dân cư... Thiếu sự nhất quán giữa trung ương và địa phương, còn nhiều biểu hiện "phép vua thua lệ làng"... Môi trường pháp lý tuy đã được thiết lập, hệ thống pháp luật đã hình thành nhưng đi vào thực tế hoạt động còn nhiều bất cập, nhất là giữa trung ương và địa phương... Còn bộc lộ nhiều thiếu sót, thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân dẫn dến hạn chế tiềm năng phát triển lực lượng sản xuất... 2.2.2. Hoạt động nhà nước trong quản lý điều tiết kinh tế (hoạch định chính sách) Trong nền KTTT hiện đại, hệ thống chính sách kinh tế là một trong những công cụ cơ bản, chủ yếu để nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế vĩ mô, theo đuổi các mục tiêu đã định. Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô đã hoạch định bao gồm: Chính sách về cơ cấu kinh tế: Hệ thống cơ cấu theo vùng, ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, lãnh thổ, cơ cấu kinh tế theo thành phần; chính sách tài chính; chính sách tiền tệ tín dụng; hợp tác quốc tế; chính sách dân số và việc làm... Hệ thống chính sách kinh tế ở nước ta bước đầu đã khá đồng bộ và đã có tác dụng bảo đảm cân đối kinh tế vĩ mô, thúc đẩy được nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng nâng cao được vai trò nhà nước trong kinh tế; hạn chế tiêu cực phát sinh của thị trường. Thực tế cho thấy việc hoạch định chính sách đúng, kịp thời đã mang lại những thành công trong tăng trưởng kinh tế. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo lập được môi trường cạnh tranh hợp pháp, khơi dậy được mọi tiềm năng của kinh tế, giải phóng sức sản xuất xã hội. Đồng thời đã tập trung vào đổi mới có hiệu quả các khu vực KTNN, từng bước kinh tế nhà nước vươn lên nắm giữ vai trò chủ đạo dẫn dắt các thành phần kinh tế, sản xuất kinh doanh đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Trong hoạch định chính sách tiền tệ và các giải pháp thực hiện ổn định tiền tệ đã có tác dụng năng động hóa môi trường đầu tư bảo đảm kinh tế phát triển ổn định. Ví dụ: vào thời điểm trước tháng 3/1989 để khắc phục tình trạng lạm phát phi mã, chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp khôn khéo và đồng bộ, trong đó có chủ trương đảo mức lãi xuất tiền gửi lên cao 12% tháng (cao gấp 22-36 lần lãi xuất chung toàn thế giới) nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về (giảm cung tiền cho lưu thông) nghĩa là, áp dụng chính sách tiền tệ chặt chẽ, để thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư. Sau đó áp dụng biện pháp giảm dần lãi xuất huy động, cùng với nhiều kênh điều tiết vĩ mô khác đã có tác dụng kiềm chế được lạm phát. Duy trì được mức tăng trưởng hợp lý và tăng dần vào những năm tiếp theo. Khi có dấu hiệu thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông (giảm phát) vào các tháng đầu năm 1999 (10 tháng đầu năm 1999, giá hàng hóa, dịch vụ giảm liên tục: tháng 3/1999 giảm 0,7%; tháng 4: 0,6%; tháng 5: 0,4%... tháng 10: 0,1%) [9, tr. 43]. Do cung vượt cầu, nên nhà nước đã đề ra hàng loạt các biện pháp nhằm kích cầu và nới lỏng chính sách tiền tệ để đạt chỉ tiêu kế hoạch về tăng trưởng nên GDP năm 1999 vẫn tăng 4,7%. Trong lĩnh vực nông nghiệp, đã có những chính sách cụ thể, kịp thời như chính sách đất đai và quyền sở hữu. Sau năm 1975, chúng ta tiến hành cải tạo XHCN, quốc hữu hóa ruộng đất, đất đai thuộc sở hữu toàn dân (đã được ghi trong Hiến pháp 1980) và phần lớn được giao cho các hợp tác xã và nông trường khai thác. Nhưng khi thực thi, năng suất lúa giảm từ 2,23 tấn/ha xuống chỉ còn 2,08 tấn/ha, mặc dù nhà nước đã tăng cường đầu tư vào nông nghiệp (máy móc, thủy lợi...). Như vậy, chính sách này đã không kích thích được sản xuất. Chỉ thị 100 CT/TW (1/1981) đã điều chỉnh lại, nội dung là giao khoán ruộng đất cho các hộ nông dân, nhờ vậy năng suất lúa từ 1981 đến 1985 tăng 14%, sản lượng lương thực tăng 27%, sản lượng nông nghiệp tăng 5 - 6% năm [24, tr. 348]. Tiếp đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/1988) khóa V đã giao đất lâu dài cho nông dân 10-15 năm. Quyết định này đã làm thay đổi mối quan hệ giữa nông dân và hợp tác xã, nông dân được quyền quyết định trồng và bán sản phẩm. Sản lượng thóc đã tăng vọt từ 16 triệu tấn năm 1986 và 17 triệu tấn năm 1988 lên 21,9 triệu tấn năm 1993, năm 1999 đã tăng lên 33,4 triệu tấn [25, tr. 349]. Bước tiến quan trọng trong chính sách đất đai là, nhà nước đã ra Luật về đất đai (1993). Không những sử dụng thời gian lâu dài (đất trồng cây là 20 năm, trồng rừng 40 năm), nhưng quan trọng là chúng ta đã nhận thức rõ hơn về quyền sở hữu, hưởng dụng, sử dụng... Đã kích thích được sản xuất, năng suất ngày càng tăng và đã trở thành nước đứng thứ hai về xuất khẩu lương thực. Cùng với thực hiện chính sách về đất đai, chúng ta thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm), đổi mới khuyến nông, thay đổi tín dụng và dịch vụ tài chính, giáo dục và y tế và nhất là thực hiện chính sách giá lương thực, tuy còn nhiều bất cập, song bộ mặt nông thôn Việt Nam đã thay đổi theo hướng tích cực. Đời sống nhân dân ở nông thôn được cải thiện, dân tin Đảng và chính quyền hơn trước. Một trong những thành công trong hoạch định chính sách nông nghiệp là đã chú ý và đề cao lợi ích người lao động nên giải phóng được sức sản xuất, phát huy mọi tiềm năng kinh tế. Khi năng suất lao động tăng, đóng góp của nông nghiệp vào GDP lớn, làm cho cơ cấu kinh tế giữa công nông nghiệp ổn định, giai cấp nông dân xích lại gần giai cấp công nhân hơn. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bước vào CNH, HĐH, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, Đảng ta luôn chú trọng đến nông nghiệp và nông thôn. Hệ thống các quan điểm, chủ trương chính sách về nông nghiệp và nông thôn như: Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông thôn, quỹ xóa đói giảm nghèo (mà chủ yếu là nông thôn), quỹ khuyến nông... đã có tác dụng không chỉ điều tiết nền kinh tế mà tạo ra cơ sở kinh tế cho ổn định chính trị, an ninh an toàn xã hội trong một xã hội nông nghiệp truyền thống. Chính sách đúng, trên cơ sở quan điểm của Đảng, kế hoạch của nhà nước, hệ thống pháp luật hướng tới đồng bộ đã có tác dụng trở thành các công cụ vĩ mô của nhà nước điều tiết và quản lý kinh tế. Tuy nhiên, việc ban hành luật pháp, xây dựng các kế hoạch (trung - dài hạn); hệ thống chính sách vẫn còn nhiều bất cập. Chưa hình thành được hệ thống thể chế mạnh và đồng bộ trong quản lý kinh tế, chính sách luật pháp còn thiếu đồng bộ, chưa thật sự kịp thời và sát với thực tiễn, các điều chỉnh và sửa đổi còn quá chậm và chưa nhất quán; điều hành kinh tế của Chính phủ còn lúng túng, chưa thực hiện tốt chức năng và thẩm quyền của mình. Điều này cho đến nay vẫn là một cản trở chính ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Trong chính sách tiền tệ và tài chính, ngân hàng, việc quản lý còn nhiều thiếu sót, thất thoát hàng nghìn tỷ đồng, việc cho vay vốn kinh doanh chưa thật bình đẳng, các DNNN dễ vay hơn các DNTN, trong khi vốn tồn đọng quá lớn... Trong chính sách đất đai và quản lý thị trường đất đai còn nhiều bất cập, còn nhiều kẽ hở dẫn đến cán bộ lợi dụng chức quyền trục lợi cá nhân..., trong lúc đó những người muốn làm ăn chính đáng thì gặp quá nhiều trở ngại trong việc làm thủ tục sử dụng đất. Có thể nói kinh nghiệm các nước cũng như như nước ta cho thấy, hoạch định chính sách là một trong những công cụ chủ yếu điều tiết vĩ mô. Hệ thống chính sách đúng và kịp thời sẽ có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển, và ngược lại, sẽ làm cho kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, nền kinh tế mất cân đối. Một trong những nguyên nhân làm cho tăng trưởng kinh tế ở nước ta có xu hướng giảm trong những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX là "Thiếu chính sách kịp thời, đủ sức tạo động lực mạnh mẽ để vượt qua khó khăn, thúc đẩy kinh tế phát triển. Một số cơ cấu, chính sách có xu hướng trở lại bao cấp như: khoan nợ, xóa nợ, giảm thuế, miễn thuế, bù lãi suất, bao cấp qua giá và các hình thức bảo hộ quá mức của nhà nước đã làm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh ỷ lại, thiếu năng động, sáng tạo và có phần ỷ lại" [5, tr. 105]. "Cơ chế chính sách còn thiếu và chưa tạo động lực để phát triển [5, tr. 11]. 2.2.3. Thực trạng kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay KTTT là các hoạt động nhà nước trong kinh tế bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp cổ phần vốn của nhà nước, các tổ chức KTNN như ngân hàng, tài chính, thuế... Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi hoạt động rộng khắp các lĩnh vực kinh tế, những năm qua, hệ thống KTNN đã tích cực đổi mới, xóa bỏ cơ chế cũ và chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN. Với tư cách là chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật, KTNN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, hàng năm đóng góp khoảng 60% vào GDP, giữ được cơ bản vai trò chủ đạo trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. KTNN đã nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế, tạo ra các giá trị hàng hóa và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của các sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp. Nhờ đó, giá cả thị trường (vàng, ngoại tệ, lương thực...) khá ổn định trong nhiều năm. Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đã bước đầu cạnh tranh và phát triển trong nền KTTT. Bằng hàng hóa và dịch vụ, sức mạnh KTNN đã điều chỉnh được một phần lớn các "lỗ hổng" trong quan hệ cung cầu do cơ chế thị trường tạo ra (bình ổn giá cả, giải quyết những cơn sốt...). KTNN đã kiểm soát được các hoạt động cơ bản của KTTT như: thị trường vốn, thị trường tiền tệ, bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô, tránh được các cú sốc kinh tế, tạo tăng trưởng ổn định, góp phần cơ bản vào giải quyết các vấn đề xã hội (xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm...), củng cố được quyền lực nhà nước. Hệ thống các DNNN đã giảm từ 12.000 doanh nghiệp xuống còn 3.000 doanh nghiệp). Cả nước đã có khoảng 200 DNNN chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật công ty. DNNN đã đổi mới công nghệ, phương tiện, phương pháp sản xuất kinh doanh trên cơ sở tự chủ, nâng cao được chất lượng hiệu quả, đóng góp được một phần quan trọng vốn trong ngân sách. Nhìn chung, sau khi có Luật doanh nghiệp nhà nước, hệ thống DNNN đã tổ chức sắp xếp lại theo một cơ cấu mới tiến bộ. Vai trò tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính đã được xác lập và mở rộng. Đã tạo ra lực lượng vật chất cần thiết để chi phối hợp tác và thực hiện các cân đối nền kinh tế, góp phần cơ bản định hướng nền kinh tế. Tuy nhiên, KTNN vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót và khuyết điểm. Tuy nắm giữ phần lớn tài sản đất nước nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao. Điều đó làm giảm khả năng can thiệp và thực thi quyền lực nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Số lượng DNNN có vốn và quy mô sản xuất lớn chưa nhiều, còn dàn trải. Hiệu quả sử dụng vốn thấp (nếu cả năm 1995: 1 đồng vốn nhà nước tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận thì năm 1998 chỉ còn tương ứng là 2,9 và 0,13 đồng). Tỷ trọng GDP do các DNNN tạo ra trong GDP của toàn nền kinh tế: 32% năm 1990; 42% năm 1995 đến nay giảm xuống còn 40% (năm 1998). Đến giữa năm 1999, trong số 105 doanh nghiệp của cả nước đã được cấp giấy chứng nhận chất lượng ISO 9000 thì trong đó mới có 70 là doanh nghiệp nhà nước [18, tr. 19]. Ngay cả các tổng công ty nhà nước là các doanh nghiệp có vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế và đổi mới công nghệ nhưng hầu hết đang gặp khó khăn. Tỷ lệ tăng trưởng của các tổng công ty giảm sút từ 9,5% năm 1995 xuống còn 2,77% năm 1999. Các tổng công ty chiếm 54,9% tổng số vốn trong các DNNN nhưng chỉ mang lại 26,4% tổng lợi nhuận [12, tr. 5]. Trong liên doanh làm ăn với nước ngoài, thường các doanh nghiệp nhà nước bị thua thiệt do không kiểm soát được giá đầu vào... hoặc trình độ quản lý yếu nên không hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên DNNN chưa phát huy được vai trò trụ cột trong KTNN, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác còn yếu, nhất là kinh tế tư bản tư nhân. Hiện tượng tiêu cực trong các DNNN vẫn xảy ra làm thất thoát tài sản hàng nghìn tỷ đồng như các vụ "Tamexco", "Dệt Nam Định", "Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh"... Tóm lại, trong quá trình đổi mới, KTNN đã đổi mới cơ chế quản lý, từng bước vươn lên nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền KTTT ở nước ta, bảo đảm được những cân đối lớn, định hướng được sự phát triển, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế lớn. Song còn nhiều thiếu sót, cho nên chưa tạo được nền tảng vật chất thật sự vững mạnh cho nhà nước XHCN trong nền KTTT. 2.3. Đánh giá khái quát việc thực thi vai trò quyền lực nhà nước trong kinh tế 2.3.1. Thành tựu Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã tích cực đổi mới quan điểm và phương pháp theo hướng tăng cường vai trò quyền lực trong quản lý kinh tế xã hội và đã đạt được những bước tiến quan trọng: - Nhà nước đã đổi mới nhận thức, từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. - Hiến pháp năm 1992 và nhiều thể chế, bộ luật, luật, pháp lệnh về kinh tế đã được đổi mới và ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động kinh tế, thông qua đó quyền lực nhà nước được thực thi trên thực tế và giảm bớt được tệ mệnh lệnh hành chính quan liêu. - Hệ thống thể chế và pháp luật kinh tế ngày càng đồng bộ hơn và hoàn thiện hơn đã tạo môi trường cho các chủ thể kinh tế và công dân tự do sản xuất kinh doanh (theo pháp luật) tạo ra sự phát triển của lực lượng sản xuất tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, quan hệ xã hội lành mạnh và giữ được ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng an ninh được đảm bảo. - Điều tiết và quản lý nền kinh tế có hiệu quả hơn, kinh tế phát triển, chính quyền nhà nước được củng cố từ trung ương đến địa phương, nhà nước nắm được dân, và dân tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, làm theo chính sách và pháp luật của nhà nước. - Quyền lực nhà nước được củng cố và tăng cường về chất, dân chủ mở rộng vì vậy quyền lực chính trị của nhân dân được thực hiện tốt hơn trên thực tế, thông qua quyền lực nhà nước, tạo môi trường chính trị ổn định và phát triển. 2.3.2. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực thi quyền lực nhà nước còn bộc lộ những thiếu sót, khuyết điểm: - Những nhận thức về vai trò nhà nước trong cơ chế cũ vẫn còn ảnh hưởng nặng, chưa khắc phục được tệ quan liêu, mệnh lệnh hành chính một cách triệt để. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân vẫn tồn tại, thậm chí đặc biệt nghiêm trọng trở thành điểm nóng ở chính quyền một số địa phương. - Quản lý nhà nước chưa thuần thục và chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới của KTTT, năng lực thể chế còn hạn chế, pháp luật chưa được thực hiện nghiêm, còn tình trạng buông lỏng, vô chính phủ, chưa thực sự lường hết và hạn chế được những tiêu cực của KTTT, dẫn đến phát sinh một số căng thẳng trong đời sống chính trị - xã hội. - Quản lý kinh tế của các cơ quan chức năng và cán bộ còn chồng chéo. - Hệ thống thể chế, luật pháp, chính sách kinh tế còn thiếu cập nhật, chưa thật đồng bộ, chậm điều chỉnh và hoàn thiện. 2.3.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế, những vấn đề đặt ra cho việc phát huy vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Nguyên nhân của thành tựu: - Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức đúng đắn yêu cầu khách quan của việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Đồng thời xác định phải tăng cường vai trò của nhà nước XHCN theo hướng đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với nền KTTT. - Trong chỉ đạo đổi mới, tập trung và trước hết là đổi mới kinh tế đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị - trọng tâm là đổi mới nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. - Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã cụ thể hóa các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, từng bước đổi mới các thể chế theo chức năng, phù hợp với cơ chế thị trường, bảo đảm quyền lực tập trung, thống nhất có phân công, phân cấp từ chính quyền trung ương đến chính quyền địa phương. - Nhà nước đã chuyển vai trò của mình từ quản lý mệnh lệnh hành chính, can thiệp sâu vào các hoạt động kinh tế sang quản lý bằng các công cụ vĩ mô, phát huy dân chủ của nhân dân lao động, tinh thần chủ động sáng tạo của các chủ thể tham gia vào hoạt động của thị trường với mục đích phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng bền vững, công bằng xã hội. - Kịp thời tổng kết kinh nghiệm thế giới nhất là các nước trong Hiệp hội ASEAN, chủ động tham gia quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế. Nguyên nhân của hạn chế - Nhận thức về nền KTTT và về nền KTTT định hướng XHCN, vai trò nhà nước trong nền KTTT chưa đáp ứng kịp thời với thực tiễn của nền kinh tế. - Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết còn ít, vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, trong lúc đó quán tính của lối nghĩ, cách làm cũ còn nặng nề, chậm khắc phục. - Việc cụ thể hóa, cập nhật hóa Nghị quyết của Đảng chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn đặt ra. - Việc phát huy vai trò quần chúng, nhân dân tham gia đóng góp, xây dựng thể chế còn hạn chế. Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước còn thiếu an tâm tin tưởng vào đường lối của Đảng, các chính sách của Nhà nước, chưa mạnh dạn đầu tư, tiềm năng kinh tế - xã hội của đất nước chưa được phát huy tối đa. Vấn đề đặt ra - Xây dựng một nền KTTT định hướng XHCN nhất thiết phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước. Song nhà nước quản lý nền kinh tế đó như thế nào, làm cách nào để vừa phát triển được kinh tế nhưng vừa bảo đảm định hướng XHCN. - Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vậy làm cách nào để nhà nước tương xứng với năng lực của một nhà nước pháp quyền XHCN trong thời kỳ mới. - Việc tăng cường vai trò nhà nước là đúng song củng cố lại và thúc đẩy năng lực hoạt động của các thể chế ra sao để nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh, bền vững và công bằng xã hội được thực hiện. - Tệ quan liêu, tham nhũng vẫn hoành hành và trở thành quốc nạn, làm xói mòn đạo đức, đặt ra vấn đề trong những năm tiếp theo nhà nước phải tiếp tục đổi mới, xây dựng như thế nào để bộ máy nhà nước thật sự trong sạch, thực sự là cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân. Chương 3 một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 3.1. mục tiêu, phương hướng cơ bản phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Chế độ XHCN mà nhân dân ta xây dựng đã được khái quát thành sáu đặc trưng cơ bản trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã thông qua. Xây dựng CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Từ Đại hội VIII đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN - KTTT định hướng XHCN. Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH; sử dụng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý KTTT để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy CNH, HĐH, lãnh đạo, quản lý nền kinh tế phát triển đúng định hướng đi lên CNXH. KTTT định hướng XHCN ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, những sở hữu công cộng (toàn dân và tập thể) dần dần trở thành nền tảng; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. KTTT định hướng XHCN ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước XHCN, nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. KTTT định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. 3.2. một số định hướng tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 3.2.1. Vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất Phát triển nền kinh tế nước ta theo mô hình KTTT định hướng XHCN, trong đó, đa dạng hóa các hình thức sở hữu là nội dung quan trọng nhất trong đường lối đổi mới kinh tế ở nước ta. Vấn đề định hướng XHCN có thực hiện được hay không, phần lớn phụ thuộc vào việc giải quyết đúng hay sai lý luận và thực tiễn vấn đề sở hữu. Như chúng ta đã biết, do quan niệm không đúng đắn, giản đơn về CNXH nên chúng ta đã mắc sai lầm cả trong nhận thức và hành động, cho rằng cứ giải quyết xong vấn đề sở hữu là thay đổi được quan hệ sản xuất và có thể dẫn đến thay đổi hình thái kinh tế - xã hội, nên đã thiết lập một cơ cấu sở hữu thuần nhất là sở hữu công cộng và sở hữu tập thể. Các quan hệ sở hữu được thiết lập như vậy không phù hợp với trình độ sản xuất xã hội, nên dẫn đến tình trạng "thờ ơ sở hữu" và kìm hãm sự phát triển sản xuất. Về điều này chính Mác - Ăngghen đã từng cảnh báo: Một người nào đó có quyền lực pháp lý đối với một vật, mà trên thực tế lại không chiếm hữu nó - những quyền ấy chẳng được tích sự gì cho anh ta cả, với tư cách là người sở hữu ruộng đất anh ta chẳng có gì hết nếu như ngoài ra, anh ta lại không đủ vốn để cày cấy mảnh đất của mình. Sở hữu, phải được xem xét trên các quyền: quyền chiếm hữu, quyền định đoạt (quyền bán, chuyển nhượng, sử dụng, thừa kế...); quyền được hưởng những lợi ích do đối tượng sở hữu mang lại. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển của một đối tượng sở hữu thì người chủ sở hữu có thể ủy quyền cho người khác thực hiện một hoặc một số quyền nói trên. Trong ba quyền đó, quyền được hưởng các lợi ích luôn là mối quan tâm tối cao của người chủ sở hữu. Chính động lực vật chất (quyền được hưởng lợi ích do đối tượng sở hữu mang lại) đã thúc đẩy từng cá nhân đi tới quyết định sản xuất và trao đổi. Nên có thể nói, quyền sở hữu là nền tảng của các giao dịch trong nền KTTT. Vì vậy, quá độ sang KTTT, đòi hỏi phải cấu trúc lại một cách hợp lý các loại hình sở hữu, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Hay nói cách khác, khi chúng ta phát triển theo mô hình KTTT định hướng XHCN cần phải khôi phục lại các quan hệ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế, kể cả tư nhân, cải tạo các hình thức sở hữu vô chủ (trước đây). Nhưng về nguyên tắc phải bảo đảm không xa với mục tiêu CNXH, không làm suy yếu quyền lực nhà nước trong kinh tế. Nguyên tắc căn bản của nền KTTT là tự do kinh doanh hợp pháp của những chủ thể kinh tế. Nếu như các chủ thể đó không có quyền chi phối các đối tượng sở hữu thì không thể định đoạt việc sản xuất kinh doanh của mình được. Đồng thời người chủ sở hữu (vốn, dịch vụ, lao động, đất đai, trí tuệ...) nếu không được hưởng những phần tương ứng của họ thì cũng không có động lực phát triển, hậu quả cuối cùng là sự suy thoái của nền sản xuất. Nhưng nếu chỉ dừng ở nhận thức những nguyên tắc đó thuộc về ai thì không thấy được thực chất của sở hữu và cũng không thể giải quyết đúng trong thực tiễn vấn đề sở hữu. Vấn đề là, phải có những nguyên tắc pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích của chủ sở hữu một cách thiết thực. Vì vậy, chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT tất yếu phải cải tạo căn bản các quan hệ về hình thức sở hữu. Bản chất vấn đề là ở chỗ: thay thế các quan hệ và các hình thức chỉ tồn tại trên danh nghĩa (vô chủ) bằng các quan hệ và hình thức sở hữu có ý nghĩa kinh tế thực sự, có chủ thể cụ thể - đó là những chủ thể sản xuất tự do kinh doanh theo các thiết chế đã định bảo vệ quyền ấy. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các thị trường không thể phát triển tốt nếu như không có những quyền sở hữu tài sản có hiệu quả trên cơ sở được bảo vệ chống lại tệ ăn cắp, bạo lực và những hành vi cưỡng bức khác; được bảo vệ chống lại các hành vi độc đoán của chính ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN.DOC
  • docMUCLUC~1.DOC
Tài liệu liên quan