Luận văn Thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên TTCK Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC CÁC CHỮVIẾT TẮT, BẢNG, BIỂU ĐỒ

LỜI MỞ ĐẦU----------------------------------------------------------------------------------- 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀDÒNG VỐN ĐẦU TƯGIÁN TIẾP

NƯỚC NGOÀI--------------------------------------------------------------------------------- 4

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠBẢN VỀTTCK ------------------------------------- 4

1.1.1. Khái niệm TTCK ------------------------------------------------------------ 4

1.1.2. Phân loại TTCK-------------------------------------------------------------- 4

1.1.3. Chức năng của TTCK ------------------------------------------------------- 6

1.1.4. Vai trò của TTCK------------------------------------------------------------ 7

1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯGIÁN TIẾP

NƯỚC NGOÀI ---------------------------------------------------------------------------- 8

1.2.1. Khái niệm “đầu tưgián tiếp nước ngoài” -------------------------------- 8

1.2.2. Các kênh, hình thức FPI ---------------------------------------------------11

1.2.3. Quy mô và tác động của đầu tưgián tiếp nước ngoài -----------------12

1.3. KINH NGHIỆM THU HÚT VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA NĐTNN

TRÊN TTCK ỞMỘT SỐNƯỚC TRÊN THẾGIỚI -------------------------------17

1.3.1. Bài học kinh nghiệm vềthu hút và quản lý hoạt động của NĐTNN

trên TTCK Trung Quốc -----------------------------------------------------------18

1.3.2. Kinh nghiệm của Chilê trong việc thu hút và quản lý vốn đầu tưgián

tiếp trên TTCK ---------------------------------------------------------------------21

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1--------------------------------------------------------------------26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU

TƯGIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN TTCK VN THỜI GIAN QUA-----------27

2.1. TTCK VN – NHỮNG CƠHỘI ĐẦU TƯ---------------------------------------27

2.1.1. Quy mô niêm yết trên thịtrường -----------------------------------------27

2.1.2. Sựgia tăng hàng hóa -------------------------------------------------------28

2.1.3. Sựphát triển của các công ty chứng khoán -----------------------------29

2.1.4. Quy mô giao dịch trên thịtrường-----------------------------------------30

2.2. THỰC TRẠNG VIỆC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯGIÁN

TIẾP NƯỚC NGOÀI (FPI) TRÊN TTCK VN THỜI GIAN QUA ---------------31

2.2.1. Tình hình thu hút vốn đầu tưgián tiếp nước ngoài trên TTCK VN -31

2.2.2. Thực trạng của việc quản lý vốn đầu tưgián tiếp nước ngoài

trên TTCK VN----------------------------------------------------------------------37

2.3. NHỮNG YẾU TỐCẢN TRỞTRONG VIỆC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ

NGUỒN VỐN FPI THỜI GIAN QUA------------------------------------------------44

2.4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA QUA BẢNG CÂU HỎI---------------49

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2--------------------------------------------------------------------56

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯGIÁN

TIẾP NƯỚC NGOÀI (FPI) VÀO TTCK VN THỜI GIAN TỚI--------------------57

3.1. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN TTCK VN ĐẾN NĂM 2010 -----------------57

3.1.1. Mục tiêu----------------------------------------------------------------------57

3.1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK -----------------------------57

3.1.3. Định hướng phát triển TTCK VN đến năm 2010 ----------------------58

3.2. CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯGIÁN TIẾP

NƯỚC NGOÀI VÀO TTCK VN ------------------------------------------------------59

3.2.1. Các quan điểm thu hút và quản lý FPI -----------------------------------59

3.2.2. Các giải pháp thu hút và quản lý vốn FPI -------------------------------63

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3--------------------------------------------------------------------77

KẾT LUẬN-------------------------------------------------------------------------------------78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤLỤC

pdf110 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3334 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên TTCK Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n giao dịch vãng lai. Do đó khi giao dịch trên thị trường, NĐTNN và các cơ quan chức năng luôn tỏ ra lúng túng khi “sờ” vào những quy định trong luật của Việt Nam, cụ thể Theo tinh thần Luật đầu tư là không hạn chế các NĐTNN đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm ( tức là NĐTNN được quyền nắm giữ 100% cổ phần trong công ty niêm yết ). Nhưng cũng vào thời điểm mà Luật đầu tư vẫn còn hiệu lực thi hành thì Quyết định 238/2005/QĐ-TTg và Quyết định 36/2003/QĐ- TTg lại phủ nhận hoàn toàn Luật đầu tư trên khi quy định tỷ lệ đầu tư tối đa cho NĐTNN trong doanh nghiệp niêm yết và chưa niêm yết. Như vậy, có thể thấy rằng trong công tác quản lý vốn FPI của Nhà nước vẫn còn nhiều điểm bất cập cần được tháo gỡ, chỉnh sửa, bổ sung kịp thời. Nếu làm được điều 49 đó thì Việt Nam sẽ thực sự trở thành một thiên đường, một điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư trên thế giới nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay. 2.3. NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ TRONG VIỆC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ NGUỒN VỐN FPI THỜI GIAN QUA Chính phủ Việt Nam luôn khuyến khích sự tham gia của các quỹ đầu tư, tổ chức đầu tư nước ngoài và thực chất các thành phần kinh tế nước ngoài đã từ lâu trở thành một bộ phận không tách rời của nền kinh tế Việt Nam. Có thể thấy rằng, các luồng vốn đầu tư nước ngoài luôn thực sự là một động lực mạnh mẽ cho phát triển và tăng trưởng tại Việt Nam trong suốt hơn 20 năm đổi mới. Tuy nhiên, có thể nói tình hình thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ( vốn FPI ) của Việt Nam vẫn còn quá khiêm tốn so với các nước trong khu vực cũng như nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế. Mặc dù vốn FPI ( được đầu tư chủ yếu qua các quỹ đầu tư và định chế tài chính ) vào Việt Nam bắt đầu tăng trở lại sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, nhưng có những hạn chế sau: - Chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ). Theo thống kê chưa đầy đủ, vốn FPI vào Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ 1,2% so với vốn FDI năm 2002; 2,3% trong năm 2003 và 3,7% vào năm 2004. Đây là tỷ lệ quá khiêm tốn so với nhu cầu vốn cho nền kinh tế phát triển và so với các nước trong khu vực. Tỷ lệ này ở các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc chiếm từ 30 – 40% - Một trong những kênh dung nạp dòng vốn FPI là TTCK cũng chỉ mới đạt giá trị vốn hóa trên 9 tỷ USD, quá nhỏ so với các thị trường khác trong khu vực như Trung Quốc ( 480 tỷ USD ), Philippines ( 80 tỷ USD ), hoặc Thái Lan ( 100 tỷ USD ). - Thực tế cho thấy vốn FPI vào Việt Nam còn thấp, nguyên nhân từ cả hai phía Nhà nước và doanh nghiệp ™ Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp Việt Nam 50 Đa số doanh nghiệp Việt Nam đều thiếu vốn, tuy nhiên trước nguồn vốn đầu tư nước ngoài các doanh nghiệp Việt Nam “hình như” từ chối hay rất ít doanh nghiệp Việt Nam biết tận dụng nguồn vốn này. Những suy nghĩ về vấn đề giải quyết nhu cầu vốn của mình được bộc lộ qua những quan điểm sau: - Những công ty tư nhân hầu hết đều không sẵn lòng hoặc không thể đáp ứng yêu cầu về tính minh bạch - Với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, phương thức tìm vốn để phát triển công việc sản xuất kinh doanh xưa nay chủ yếu vẫn là từ ngân hàng - Về phía doanh nghiệp, dù rất cần vốn nhưng vẫn e ngại khi làm việc với các quỹ đầu tư. Có thể nói doanh nghiệp không có động lực thu hút vốn FPI vì sợ tuột mất quyền quản lý, sở hữu doanh nghiệp và tài sản của mình. Đó là do doanh nghiệp chưa sẵn sàng đón nhận khái niệm “công ty đại chúng”, doanh nghiệp chưa tin tưởng để trao cho quỹ quyền tham dự vào Hội đồng quản trị của công ty cũng như doanh nghiệp chưa muốn công khai hết mọi vấn đề về tài chính. Trong khi đó, đây là các yếu tố then chốt để quỹ đầu tư quyết định chọn doanh nghiệp hay không - Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam đều e ngại công khai tình hình hoạt động kinh doanh. Hội đồng quản trị chưa phải là tổ chức quy tụ những cổ đông lớn và không hoạt động độc lập… - Số doanh nghiệp cần vốn thì nhiều mà quỹ đầu tư thì ít. Do đó các nhà đầu tư luôn “kén cá chọn canh”. Chẳng hạn việc Dragon Capital đưa ra điều kiện chỉ tham gia vào một công ty khi giá trị thị trường của công ty này đạt từ 7 triệu USD trở lên đã là một hạn chế cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Các công ty tư nhân ở Việt Nam được thành lập trong vòng 10 năm với quy mô khá nhỏ, nên không thích hợp với việc nhận đầu tư từ các quỹ. Hầu như quỹ tư nhân trong khu vực đang tìm các cơ hội đầu tư với mức đầu tư tối thiểu là 5 triệu USD. 51 - Điều quan trọng nhất đối với nhà đầu tư là muốn hiểu được hoạt động của doanh nghiệp một cách chân thực và chính xác qua bản báo cáo tài chính, nhưng phần lớn doanh nghiệp ở Việt Nam đều coi việc báo cáo tài chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế chứ không phải là dành cho cổ đông cũng như các nhà đầu tư tiềm năng. Trong khi đó, hệ thống kiểm toán còn nhiều bất cập, có những quy định không tuân theo chuẩn mực quốc tế. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước khi cổ phần hóa chủ yếu là tính theo giá trị sổ sách chứ không sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, nên để đánh giá giá trị thực một doanh nghiệp là rất khó. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin của doanh nghiệp còn yếu, không cung cấp đầy đủ cho nhà đầu tư về tình hình hoạt động cũng như những dự báo trong tương lai. ™ Nguyên nhân từ phía Nhà nước - Nhà nước chưa có một hệ thống chính sách rõ ràng, minh bạch đối với FPI. Các quy định còn nhiều chồng chéo, bất cập và tỏ ra “thiên vị” đối với các nhà đầu tư trong nước hơn là các NĐTNN. Sự thiên vị dễ thấy nhất là việc Nhà nước giới hạn tỷ lệ tham gia góp vốn mua cổ phần đối với NĐTNN. Việc giới hạn này đã góp phần làm giảm sức thu hút vốn FPI vào Việt Nam. Hiện nay có rất nhiều công ty, tập đoàn tài chính lớn trên thế giới đang tìm đến thị trường Việt Nam và coi Việt Nam như một địa chỉ đầu tư đáng tin cậy và đầy hứa hẹn. Tuy nhiên điều này chưa có nghĩa là sẽ chắc chắn có làn sóng đầu tư ồ ạt đổ vào Việt Nam khi cơ hội đầu tư của họ bị hạn chế. Mục đích của các NĐTNN vào Việt Nam không phải là để hưởng ưu đãi mà họ muốn tham gia ban điều hành để có thể cải cách về quản trị cũng như phương thức kinh doanh của doanh nghiệp. Thời gian vừa qua Nhà nước chỉ cho phép các NĐTNN tham góp vốn với một tỷ lệ nhỏ nên dù rất muốn đầu tư lâu dài vào một doanh nghiệp tại Việt Nam, các quỹ đầu tư nước ngoài cũng đành bán bớt cổ phiếu để chuyển sang đầu tư ở một lĩnh vực khác hoặc rút vốn ra khỏi Việt Nam vì đã hết “room”. 52 Bên cạnh đó ở Nhà nước vẫn còn tồn tại những nhận thức không thiện cảm về các quỹ đầu tư trong hoạch định chính sách khi cho rằng các quỹ đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn sinh lãi cao và gắn liền với các quỹ này là những khả năng làm thất thoát vốn cho nền kinh tế. Những nhận thức không “thân thiện” như trên tuy có những lý lẽ đáng để thông cảm do những rủi ro tiềm ẩn vốn có của dòng vốn này. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến việc nới lỏng hơn nữa để quá trình hội nhập của Việt Nam vào WTO diễn ra nhanh chóng hơn và quan trọng hơn hết là điều này sẽ làm cho môi trường đầu tư của chúng ta trở nên tốt “đồng đều” hơn giữa hai khu vực thu hút vốn FPI và FDI. Đến lượt mình, FPI lại có tác động ngược trở lại trong việc thu hút dòng FDI và qua đó cũng làm giảm đi những mất cân đối nghiêm trọng giữa hai dòng vốn này trong quá trình hội nhập. - Nhà nước vẫn còn dè dặt trong việc phát triển thị trường vốn và các dịch vụ tài chính ở Việt Nam. TTCK Việt Nam quy mô hiện nay vẫn còn quá nhỏ so với các nước trên thế giới. Tổng giá trị vốn hóa của thị trường hiện nay mới đạt gần 9 tỷ USD, chỉ bằng tổng vốn đầu tư của khoảng 10 quỹ đầu tư nước ngoài có quy mô lớn. Vì vậy khả năng hấp thu vốn của TTCK Việt Nam bị đánh giá là thấp và đây cũng là nguyên nhân chính khiến Việt Nam chưa thu hút được các tổ chức đầu tư lớn hoặc nếu họ đã xuất hiện tại thị trường thì vẫn tham gia giao dịch hết sức dè dặt. Nếu quy mô thị trường không được nâng lên, không hội tụ được những doanh nghiệp lớn niêm yết thì TTCK Việt Nam khó có khả năng thu hút những nhà đầu tư tài chính nước ngoài có tiềm lực mạnh. - Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước diễn ra quá chậm chạp làm cản trở quá trình tự do hóa kinh tế và hạn chế tăng trưởng bền vững của khu vực tư nhân. Hiện nay Nhà nước mới chỉ cổ phần hóa được khoảng 70% doanh nghiệp trong đó phần nhiều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ có một số ít các doanh nghiệp lớn. Hy vọng rằng từ đây đến cuối năm một loạt các doanh nghiệp Nhà nước lớn sắp được cổ 53 phần hóa tiếp theo như ngân hàng Công thương, ngân hàng Ngoại thương, Công ty Bưu chính viễn thông Viettel, Vinafone, Mobifone,… sẽ góp phần gia tăng cung hàng hóa cho thị trường và mở ra nhiều cơ hội lựa chọn đầu tư vốn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. - Nhà nước vẫn chưa chú trọng đến công tác thông tin tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của Việt Nam. Mặc dù mối quan tâm của các NĐTNN ngày càng tăng, nhưng việc tìm kiếm thông tin về TTCK Việt Nam của người nước ngoài còn gặp rất nhiều khó khăn do thiếu thông tin bằng tiếng nước ngoài. Các công ty niêm yết và chưa niêm yết thông thường chỉ chuẩn bị tài liệu bằng tiếng Anh để phục vụ cho việc giới thiệu, quảng cáo, chào hàng, chưa nhằm mục đích thu hút cổ đông nước ngoài. Các bản cáo bạch, báo cáo định kỳ và đột xuất gửi SGDCK TPHCM và UBCKNN chưa được dịch sang tiếng Anh phục vụ công chúng đầu tư nước ngoài. Bản thân UBCKNN và SGDCK TPHCM cũng chưa tổ chức cung cấp các thông tin nêu trên qua trang web. Hệ thống dịch vụ thông tin chuyên nghiệp chưa phát triển, chi phí tìm kiếm thông tin cao làm ảnh hưởng đến mức độ quan tâm của NĐTNN nhất là các nhà đầu tư cá thể. - Chính sách thuế hiện nay chưa được đổi mới nên chưa tạo ra bước đột phá trong vấn đề minh bạch hóa của các doanh nghiệp. Ngoại trừ các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK bắt buộc phải công bố thông tin minh bạch thì các doanh nghiệp còn lại rất sợ nếu công bố thông tin thì sẽ gặp rắc rối với cơ quan thuế. Làm sao các NĐTNN có thể yên tâm đầu tư vào doanh nghiệp khi không thực sự nắm bắt được thông tin chính xác về doanh nghiệp đó? Đây là một câu hỏi không dễ trả lời trong một thời gian ngắn Ngoài ra, chính sách của Nhà nước về việc tham gia của NĐTNN vào các công ty cổ phần hóa cũng chưa rõ ràng. Cụ thể, đợt phát hành lần đầu của Vietnam Ocean Shipping Agency ( VOSA ) lẽ ra đã diễn ra vào ngày 14/02/2006 với hơn 900 nhà đầu tư tham gia nhưng đã bị hủy bỏ. Lý do là vì VOSA chờ mãi nhưng chưa thấy Chính 54 phủ có ý kiến về việc tham gia của NĐTNN. Mãi đến sau này Chính phủ mới có văn bản cho phép VOSA được bán cổ phần cho NĐTNN. VOSA và Gemadept ( hiện niêm yết tại SGDCK TP.HCM ) chẳng khác nhau gì nhưng NĐTNN lại có thể nắm đến 49% vốn của Gemadept. Nhu cầu về vốn của Việt Nam rất lớn song có nhiều kênh hút vốn vẫn chưa được khai thác hết, thậm chí còn bỏ ngỏ, trong đó có quỹ đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài cũng muốn đầu tư vào Việt Nam bằng cách gián tiếp nhưng đến nay vẫn chưa tìm được đối tác. Một phần, do doanh nghiệp Việt Nam rất ít hoạt động xúc tiến thu hút FPI, trong khi đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) lại có hàng chục hội nghị xúc tiến mỗi năm. 2.4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA QUA BẢNG CÂU HỎI Để phần nào khẳng định những đánh giá, phân tích nêu trên không hoàn toàn theo ý chủ quan của người viết và phần nào giúp cho những người đọc và đánh giá luận văn này có được cái nhìn chi tiết, cụ thể hơn về quan điểm của NĐTNN khi đầu tư vào TTCK Việt Nam, người viết đã thực hiện một cuộc khảo sát trong vòng 80 ngày với 87 nhà đầu tư cá nhân và 5 tổ chức nước ngoài bằng cách đề nghị các nhà đầu tư trả lời bản câu hỏi trắc nghiệm ( phụ lục 2 đính kèm ) đồng thời thu thập thêm trên các tạp chí ý kiến nhận định của một số chuyên gia, một số nhà quản lý của các công ty, quỹ đầu tư có danh tiếng trên thị trường ( phụ lục 3 đính kèm ). Sau đó bằng phương pháp tổng hợp, thống kê để đưa ra kết quả. Sau đây là kết quả phỏng vấn điều tra. - Trong phần câu hỏi lựa chọn khi được hỏi đã dùng bao nhiêu tiền để đầu tư vào TTCK Việt Nam và thâm niên đầu tư trên thế giới thì có 97,8% ( trong đó có 100% nhà đầu tư cá nhân và 3 tổ chức ) đầu tư vào Việt Nam với số vốn dưới 5 triệu USD. Cá biệt chỉ có 2 tổ chức đầu tư với số vốn từ 5 đến 10 triệu USD. Thâm niên đầu tư của các vị này trên thế giới từ 3 đến 6 năm. 55 ¾ Điều này cho thấy đây là những nhà đầu tư có thể nói là chuyên nghiệp nhưng số vốn họ rót vào Việt Nam vẫn còn ít, chứng tỏ họ vẫn còn tỏ ra dè dặt đối với TTCK mới mẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên 97% nhà đầu tư đều trả lời rằng sẽ gia tăng vốn và tiếp tục đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới. Đây có thể được xem là tín hiệu khả quan cho TTCK Việt Nam. - Về cơ cấu đầu tư : có 83% NĐTNN đầu tư vào cổ phiếu trong đó 97% vào cổ phiếu niêm yết và 3% vào cổ phiếu chưa niêm yết. Nhưng khi được hỏi về dự định đầu tư trong thời gian tới thì có 81% NĐTNN đầu tư vào cổ phiếu niêm yết và 19% đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết. Tỷ lệ này ở trái phiếu và chứng chỉ quỹ là: BẢNG 2.5 : CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀO TRÁI PHIẾU VÀ CHỨNG CHỈ QUỸ CỦA NĐTNN Hiện tại Tương lai Trái phiếu 7% 12% Chứng chỉ quỹ 10% 15% ¾ Sở dĩ có sự gia tăng trong tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết trong tương lai là do NĐTNN đánh giá tỷ lệ sinh lời trên cổ phiếu chưa niêm yết cao hơn. Một phần vì cổ phiếu niêm yết trên TTCK đã liên tục giảm giá trong những tháng gần đây, giá mua vào và bán ra không chênh lệch bao nhiêu trong khi đối với cổ phiếu chưa niêm yết nếu nắm được những thông tin ngoài lề và là cổ đông chiến lược có thể mua vào với giá rất thấp và bán ra với giá rất cao. Phần nữa là do trong thời gian qua nhà đầu tư cũng bị khống chế tỷ lệ đối với cổ phiếu chưa niêm yết thấp hơn cổ phiếu niêm yết, và một số công ty khi phát hành không có chính sách cho NĐTNN mua cổ phiếu chưa niêm yết do đó đã hạn chế tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu này rất nhiều. Còn về thị trường trái phiếu và chứng chỉ quỹ theo các NĐTNN là chưa hấp 56 dẫn, nhất là lãi suất trái phiếu trong thời điểm hiện tại là quá thấp so với kỳ vọng của nhà đầu tư. - Trong phần câu hỏi theo thang điểm, khi được hỏi về mức độ quan trọng của các mục tiêu đầu tư thì 30,6% nhà đầu tư mong muốn đạt được lợi nhuận trong ngắn hạn; 64,4% đạt được lợi nhuận trong dài hạn và 5% hưởng lợi từ việc chia cổ tức ¾ Điều này cho thấy đa số các nhà đầu tư đều theo đuổi ý định đầu tư lâu dài tại Việt Nam và họ xác định mục đích đầu tư chứ không đầu cơ như một số nhà đầu tư trong nước vẫn làm trong thời gian qua. Do đó khi thị trường có dấu hiệu đi xuống các NĐTNN vẫn mua vào một lượng cổ phiếu lớn thay vì bán ra như các nhà đầu tư trong nước. - Còn về phần câu hỏi trong những phương pháp đánh giá, phương pháp nào thường sử dụng nhất, phần đông nhà đầu tư cá nhân sử dụng phương pháp phân tích cơ bản, còn các nhà đầu tư tổ chức sử dụng kết hợp hai phương pháp: phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Rất ít các nhà đầu tư phụ thuộc vào các công ty môi giới và dịch vụ tư vấn đầu tư. ¾ Điều này nói lên đa phần các NĐTNN là các nhà đầu tư có chuyên môn cao. Khi muốn đầu tư vào một lọai chứng khoán nào đó họ thường phân tích kỹ và dựa vào tiềm năng phát triển của công ty, cân nhắc đến yếu tố phát triển của công ty trong tương lai hơn là quan tâm đến lợi nhuận hiện tại và không đầu tư theo tâm lý “bầy đàn” như các nhà đầu tư trong nước. Như vậy, Việt Nam chỉ cần cải thiện môi trường pháp lý, đồng bộ và nhất quán trong các chính sách thì có thể hy vọng giữ chân lâu dài các NĐTNN, còn đối với những thông tin “vỉa hè” về một công ty nào đó đa phần là các nhà đầu tư trong nước bị tác động hơn là các nhà đầu tư nước ngoài. Sau đây là kết quả khảo sát câu hỏi 11 và 12 được đa phần các nhà đầu tư lựa chọn 57 1 2 3 4 5 a. Phân tích cơ bản [ ] [ ] [ ] [ ] [X] ( Basic analysis ) b. Phân tích kỹ thuật [ ] [ ] [X] [ ] [ ] ( Technical analysis ) c. Kết hợp phân tích kỹ thuật với phân tích cơ bản [ ] [ ] [ ] [X] [ ] ( Combination of basic and technical analysis ) d. Phụ thuộc vào các công ty môi giới chứng khoán [ ] [X] [ ] [ ] [ ] ( Relying on securities brokerage companies ) e. Phụ thuộc vào các dịch vụ tư vấn đầu tư [ ] [X] [ ] [ ] [ ] ( Relying on investment consultancies ) 1 2 3 4 5 a. Danh tiếng công ty [ ] [ ] [ ] [X] [ ] ( Good reputation of that company ) b. Quy mô vốn của công ty [ ] [ ] [ ] [X] [ ] ( Equity extent of that company ) c. Lợi nhuận của công ty [ ] [ ] [ ] [X] [ ] ( Revenue of that company ) d. Thông tin về công ty trong thời gian gần đây [ ] [ ] [X] [ ] [ ] ( Recent information about that company ) e. Tiềm năng phát triển của công ty [ ] [ ] [ ] [ ] [X] ( Potentiality of that company ) f. Tính thanh khoản cao [ ] [ ] [X] [ ] [ ] ( High liquidity of that security ) g. Tỷ số P/E [ ] [ ] [X] [ ] [ ] ( The P/E rate ) h. Chỉ số EPS ( The EPS rate ) [ ] [ ] [X] [ ] [ ] 58 - Về mức độ tin cậy của nguồn thông tin, đa phần các nhà đầu tư cho rằng họ tin cậy nhất nguồn thông tin có được từ các kết quả nghiên cứu rồi đến thông tin từ các địa chỉ web về chứng khoán, các chuyên gia tư vấn đầu tư, các tạp chí và sau cùng mới là bạn bè, người thân và các công ty môi giới chứng khoán. ¾ Điều này chứng tỏ rằng các NĐTNN chủ động rất nhiều trong việc đầu tư. Họ chỉ tin tưởng vào những thông tin được công bố trên các địa chỉ, website có uy tín, còn những thông tin “rỉ tai” và chưa được công bố chính thức không tác động lắm đến tâm lý đầu tư của họ. - Phần lớn các nhà đầu tư đều tin tưởng vào quyết định đầu tư của mình nên có đến 88,5% nhà đầu tư lựa chọn trên mức trung bình về khả năng sinh lợi của chứng khoán chọn mua. Trong khi đó chỉ có khoảng 22% cho rằng rủi ro mà họ có thể gặp phải khi đầu tư trên mức trung bình. Theo họ rủi ro đó chủ yếu là do chính sách của Nhà nước hay thay đổi có thể ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Chẳng hạn như gần đây khi Chính phủ dự thảo Luật thuế TNCN đánh trên cổ tức chứng khoán ( dự kiến 5% ) và đánh trên giá trị chuyển nhượng ( dự kiến 25% ) đã ảnh hưởng ít nhiều đến tâm lý của nhà đầu tư khiến giao dịch trên thị trường không còn sôi động như trước đây và đa số những ý kiến phản hồi từ nhà đầu tư có liên quan đến dự thảo trên đều cho rằng mức thuế như vậy là quá cao và chưa hợp lý, nếu Chính phủ không xem xét lại thì họ có thể sẽ rút vốn về nước. - Nhận định về xu hướng phát triển của TTCK Việt Nam, các nhà đầu tư đã đưa ra những đánh giá sau ( xem bảng 2.6 ) 59 BẢNG 2.6: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT NAM Nội dung ( Content ) Điểm (1 – 5) Marks (1 – 5) Số lượng cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam ( The quantity of shares in Vietnamese securities market ) 5 Số lượng công ty chứng khoán ( The quantity of the stock companies ) 4 Số lượng nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam ( The quantity of investors in Vietnamese securities market ) 5 Khối lượng giao dịch ( The volume of deals ) 4 Giá trị giao dịch ( The value of deals ) 4 - Về phần câu hỏi mở chỉ có khoảng 18% các nhà đầu tư cho ý kiến và đã được người viết tổng hợp trong phụ lục 3 60 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Nhìn bức tranh tổng thể về tình hình thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong những năm qua có thể thấy Nhà nước vẫn còn thiên vị cho vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi bỏ mặc vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, thời gian gần đây đã có những thay đổi đáng kể trong nhận thức của Nhà nước về tầm quan trọng của nguồn vốn này nên bằng những nỗ lực của mình Nhà nước đã và đang làm mọi cách để thu hút một lượng vốn khổng lồ trên thế giới nhằm phát triển đất nước và cũng để phát triển một thị trường tài chính lành mạnh, có chiều sâu đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Dần dần vai trò của nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng đã được khẳng định. Lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều và góp phần làm cho TTCK sôi động, phát triển lên một mức cao hơn. Tuy nhiên để nguồn vốn này thực sự trở thành một nhân tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế thì Nhà nước và bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm nhiều hơn nữa, biết khắc phục những hạn chế và phát huy thế mạnh của mình để đưa Việt Nam “hóa rồng” trong một tương lai không xa. 61 CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI ( FPI ) VÀO TTCK VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI 3.1. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 3.1.1. Mục tiêu Phát triển TTCK cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. 3.1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK ¾ Phát triển TTCK phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới; ¾ Xây dựng TTCK thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn, hiệu quả góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước; ¾ Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để TTCK hoạt động và phát triển; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia TTCK; ¾ Bảo đảm tính thống nhất của thị trường tài chính trong phạm vi quốc gia, gắn việc phát triển TTCK với việc phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm. 62 3.1.3. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 1) Mở rộng quy mô của TTCK tập trung, phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đến năm 2005 đạt mức 2 – 3% GDP và đến năm 2010 đạt mức 10 – 15% GDP; a) Tập trung phát triển thị trường trái phiếu, trước hết là trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. b) Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên TTCK tập trung nhằm tăng quy mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty niêm yết. 2) Xây dựng và phát triển các TTGDCK, SGDCK, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán nhằm cung cấp các dịch vụ giao dịch, đăng ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hóa; a) Xây dựng TTGDCK TP.HCM thành SGDCK với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hóa hoàn toàn. b) Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội; chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC) c) Thành lập Trung tâm Lưu ký độc lập cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng khoán, lưu ký và thanh toán cho hoạt động giao dịch chứng khoán của SGDCK và TTGDCK; mở rộng phạm vi lưu ký các loại chứng khoán chưa niêm yết. 3) Phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK Việt Nam. a) Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công ty chứng khoán. Phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình: công ty chứng khoán đa nghiệp vụ và công ty chứng khoán chuyên doanh, 63 nhằm tăng chất lượng cung cấp dịch vụ và khả năng chuyên môn hóa hoạt động nghiệp vụ. b) Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập các công ty chứng khoán, khuyến khích các công ty chứng khoán thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn, các khu vực đông dân cư trong cả nước. c) Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Đa dạng hóa các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ đầu tư. Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. d) Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam. 4) Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân. a) Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư…., tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị trường. b) Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào TTCK thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư. 3.2. CÁC GIẢI

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf47549.pdf
Tài liệu liên quan