Luận văn Thực trạng quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin của hiệu trưởng vào dạy học ở bậc tiểu học tại quận 11, TP Hồ Chí Minh

3 TLỜI CÁM ƠN3 T.1

3 TMỤC LỤC3 T .2

3 TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT3 T .4

3 TMỞ ĐẦU3 T.1

3 T1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:3 T .1

3 T2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:3 T.3

3 T3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU3 T .3

3 T4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC3 T .3

3 T5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU3 T .3

3 T6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:3 T.4

3 T7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:3 T .4

3 T8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN3 T.4

3 TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VIỆC ỨNG DỤNG CNTT3 T.5

3 T1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề3 T .5

3 T1.2 Những khái niệm cơ bản3 T.7

3 T1.2.1 Quản lý3 T.7

3 T1.2.2. Quản lý giáo dục3 T.11

3 T1.2.3. Quản lý trường học3 T .13

3 T1.2.4. Quản lý hoạt động dạy học:3 T.15

3 T1.2.5 Công tác quản lý của người HT trường tiểu học:3 T.16

3 T1.2.6 Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở bậc tiểu học3 T.20

3 T1.2.7 Công tác quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy học của HT trường tiểu học3 T .24

pdf121 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1014 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin của hiệu trưởng vào dạy học ở bậc tiểu học tại quận 11, TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 2.20 1.92 29 2.69 1.93 30 2.28 1.78 33 X =2,20; Y =1,93 và Z =1,78 và thứ bậc 29, 30 và 33 của HT, CBQL và GV dành cho nội dung này cho thấy rằng việc quy định khai thác, sử dụng internet của HT tại trường chỉ ở mức độ dưới trung bình, gần mức yếu. Điều này chứng tỏ GV thiếu hẳn các quy định rất quan trọng trong việc sử dụng internet để khai thác tài nguyên cho việc dạy học ngay tại trường và họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học, gặp khó khăn trong việc cập nhật những thông tin mới nhất. Nhìn chung về việc xây dựng các quy định, HT chỉ thực hiện ở mức trung bình, không thể hiện được chức năng quản lý của mình trong việc tạo tiền đề cho GV thực hiện ứng dụng CNTT một cách có quy củ, khoa học. Xây dựng quy định không tốt sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến các khâu khác của quá trình quản lý. 2.2.2.3 Chỉ đạo – tổ chức thực hiện HT với kế hoạch và những quy định đã xây dựng phải tiến hành chỉ đạo – tổ chức thực hiện quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy học. CNTT là vấn đề còn khá mới mẻ đối với GV, do đó việc lập tổ tư vấn về vấn đề tin học là rất cần thiết. Bảng 2.12 cho thấy kết quả đánh giá của 3 đối tượng khảo sát về vấn đề này. Bảng 2.12 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc lập tổ tư vấn có chức năng chuyên về công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học và phương pháp thiết kế bài giảng điện tử HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 1.20 2.17 32 2.38 2.22 32 2.19 1.84 34 Với X =1,2, Y =2,38 và Z = 2,19 và thứ bậc lần lượt mà HT, CBQL và GV đánh giá nội dung quản lý này là 32, 32 và 34, có thể thấy rằng, HT chưa thực hiện tốt việc tư vấn về chuyên môn tin học. Soạn giáo án điện tử cần có phương pháp và cần có trình độ CNTT nhất định. Nếu HT không làm tốt, thậm chí không hỗ trợ GV nâng cao trình độ tin học, tập hợp được những người có kinh nghiệm hỗ trợ GV khác thì việc ứng dụng CNTT khó đạt được hiệu quả mong muốn. Bảng 2.13 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT chỉ đạo khai thác tài nguyên dạy học trên mạng internet và trang web của ngành giáo dục HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 3.40 1.52 15 3.69 1.18 10 2.52 1.66 30 Xét đến việc chỉ đạo khai thác tài nguyên dạy học trên internet dựa vào kết quả của bảng 2.13, HT, CBQL đã đánh giá nội dung quản lý này ở mức trung bình khá với X =3,4, thứ bậc 15 và Y =3,69, thứ bậc 10. Trong khi đó, GV thì có ý kiến khác hơn khi đánh giá công tác quản lý này của HT chỉ ở mức trung bình khi Z =2,52, thứ bậc 30, một thứ bậc thấp trong cả 39 nội dung quản lý được khảo sát. Ngoài ra Sz=1,66, độ phân tán của GV cao chứng tỏ GV có rất nhiều ý kiến trái ngược về nội dung quản lý này. Do đó, có thể nói HT, CBQL đánh giá chưa chính xác về công tác quản lý của mình và việc chỉ đạo khai thác tài nguyên dạy học chưa đạt được hiệu quả cao. Tiếp theo, sử dụng email, blog, diễn đàn để trao đổi thông tin, kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học là rất cần thiết. Kết quả khảo sát của nội dung quản lý này được thể hiện trong bảng 2.14 dưới đây: Bảng 2.14 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT chỉ đạo việc sử dụng email , trang blog, diễn đàn để trao đổi thông tin, kinh nghiệm giảng dạy ứng dụng CNTT HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 2.80 0.84 22 3.08 0.95 27 2.56 1.55 29 Bảng 2.14 cho kết quả tương đối đồng đều về đánh giá của cả 3 đối tượng với X =2,8, thứ bậc 22; Y =3,08, thứ bậc 27 và Z =2,56, thứ bậc 29. Qua đó, có thể nói rằng HT thực hiện việc chỉ đạo email, blog và các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm ứng dụng CNTT ở mức độ trung bình. Với Sz=1,55, GV có những ý kiến đánh giá trái ngược nhau. Vì thế, hạn chế của HT trong nội dung quản lý này là có thể nhận ra được. Bảng 2.15 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT tổ chức bồi dưỡng nâng cao kỹ năng ứng dụng CNTT vào dạy học trong đó chú trọng kỹ năng thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử cho CBQL và GV HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 3.80 1.10 7 3.92 0.76 6 3.51 1.31 9 Dù chưa chỉ đạo tốt việc khai thác tài nguyên dạy học trên mạng cũng như chỉ đạo việc sử dụng email, blog và các diễn đàn để trao đổi kinh nghiệm, HT thực hiện tương đối tốt việc tổ chức bồi dưỡng cho GV nâng cao kỹ năng ứng dụng CNTT, đặc biệt là chú trọng kỹ năng thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử. Bảng 2.17 với X =3,8; Y =3,92 và Z =3,51 thể hiện nội dung quản lý này được các đối tượng khảo sát đánh giá ở mức độ tương đối khá. Thứ bậc đánh giá của các đối tượng cũng tương đối giống nhau với thứ bậc 7, 6 và 9 lần lượt của HT, CBQL và GV. Qua đó, có thể nói rằng HT đã có chú ý quan tâm đến việc bồi dưỡng cho GV làm thế nào để soạn và sử dụng bài giảng điện tử, một điều rất cần thiết trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học. Tuy nhiên, Sz=1,31 thể hiện độ phân tán ý kiến trong GV còn cao, tức là vẫn còn GV chưa đồng tình hoàn toàn với việc HT thực hiện nội dung quản lý này ở mức khá. Để ứng dụng CNTT vào dạy học có hiệu quả rất cần phải học hỏi kinh nghiệm từ những mô hình đã thành công trước đó. HT cần phải tổ chức cho GV tham quan các mô hình đó để tự rút kinh nghiệm cho cả HT, lẫn GV trong quá trình học hỏi, tìm tòi để ứng dụng thành công. Kết quả khảo sát nội dung quản lý này được thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.16 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT tổ chức tham quan, học tập các mô hình ứng dụng CNTT HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 0.80 1.79 36 1.46 1.98 36 1.17 1.69 38 Điểm trung bình của 3 đối tượng đánh giá về nội dung ở mức rất thấp X =0,8, Y =1,46 và Z =1,17, và thứ bậc gần như là thấp nhất với thứ bậc 36, 36 và 38 của HT, CBQL và GV. Số liệu trên cho thấy rằng HT chưa tổ chức hoặc tổ chức rất kém việc học tập mô hình các trường bạn đã ứng dụng thành công CNTT vào dạy học. Điều này sẽ gây trở ngại cho việc tìm kiếm những định hướng cho việc dạy học có ứng dụng CNTT trong nhà trường, nhất là đối với những trường chưa có một kế hoạch cụ thể cho việc ứng dụng CNTT. Hơn nữa, HT cũng rất khó khăn trong việc đánh giá thực tế tình hình của đơn vị mình và GV sẽ không nhận thức được mức độ ứng dụng CNTT vào dạy học của mình như thế nào. Thiết bị dạy học và hệ thống internet đóng vai trò rất quan trọng trong việc ứng dụng CNTT, có thể nói đó là điều kiện cần của việc ứng dụng CNTT. Tuy nhiên, thiết bị dạy học và internet ở trường tiểu học có những hạn chế cần phải được phân bổ thời gian để sử dụng hợp lý để mọi GV đều có thể sử dụng được. Đánh giá về việc bố trí thời gian, thời khóa biểu để mọi người có thể sử dụng hiệu quả nhất thiết bị dạy học, cả 3 đối tượng khảo sát đã cho ý kiến với kết quả trong bảng sau: Bảng 2.17 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT tạo thời gian hợp lý, bố trí thời khóa biểu hợp lý để CBQL, GV đều được sử dụng hệ thống thiết bị dạy học, hệ thống mạng của nhà trường HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 3.60 1.34 9 3.31 1.44 20 2.99 1.58 22 Với kết quả X =3,6; Y =3,31 và Z =2,99, nội dung quản lý này của HT được đánh giá ở mức trung bình khá. Đặc biệt ở GV, dù đánh giá ở mức trung bình nhưng với Sz=1,58 nhưng một độ lệch chuẩn cao thể hiện sự không tương đồng trong ý kiến của GV. Xét đến thứ bậc chung thì sự chênh lệch trong đánh giá càng được nhận thấy rõ ràng hơn giữa thứ bậc 9 của HT với 20 và 22 của CBQL và GV. Điều này chứng tỏ rằng có hạn chế nhất định trong nội dung quản lý này của HT. Trong chỉ đạo – tổ chức thực hiện, việc đưa ứng dụng CNTT thành một tiêu chí thi đua là một trong những biện pháp mà HT có thể sử dụng để thúc đẩy, tạo động lực cho GV ứng dụng CNTT vào dạy học một cách có hiệu quả. Kết quả của việc đánh giá nội dung quản lý này được thể hiện trong bảng 2.18 dưới đây: Bảg 2.18 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT đưa vào tiêu chí thi đua đối với việc ứng dụng CNTT vào dạy học HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 0.80 1.79 36 2.08 2.10 33 2.29 2.02 32 Với số liệu X =0,8, đa số HT chưa thực hiện việc đưa ứng dụng CNTT thành một tiêu chí thi đua. Dù có một số CBQL và GV cho rằng HT có thực hiện nội dung quản lý này với mức độ còn yếu khi Y =2,08 và Z = 2,29 nhưng với độ lệch chuẩn Sy= 2,08 và Sz= 2,02 thì rõ ràng việc đa số HT tự đánh giá mình chưa thực hiện biện pháp quản lý này là hợp lý. Thứ bậc rất thấp 36, 33 và 32 của HT, CBQL và GV khi đánh giá nội dung quản lý này cũng thể hiện hạn chế trong việc tạo động lực, khuyến khích GV ứng dụng CNTT một cách tích cực hơn. GV thì phải ứng dụng CNTT vào dạy học, ngược lại HT cũng cần phải ứng dụng CNTT vào quản lý. Đánh giá về việc HT ứng dụng CNTT vào quản lý, cả 3 đối tượng đã đưa ra những kết quả tương đối khác nhau: Bảng 2.19 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT ứng dụng CNTT vào công tác quản lý HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 4.20 0.45 2 3.85 1.28 8 3.42 1.43 12 Qua bảng 2.19, HT thì đánh giá mình đã ứng dụng CNTT vào quản lý ở mức độ tốt với X =4,2, thứ bậc 2. Trong khi đó CBQL và GV thì cho rằng HT chỉ ứng dụng CNTT ở mức độ khá với Y =3,85 và Z =3,42, thứ bậc 8 và 12. Tuy nhiên, với Sy=1,28 và Sz=1,43, rõ ràng CBQL và GV cũng có sự không tương đồng trong khi đánh giá nội dung quản lý này. Điều này cho thấy rằng HT cần phải thể hiện rõ những việc làm có ứng dụng CNTT của mình để làm gương tốt hơn cho CBQL và GV, chứng tỏ mình là người đi đầu trong việc tiếp cận công nghệ. Một trong những nội dung quản lý quan trọng là HT phải tổ chức, phân công GV nghiên cứu, biên soạn bài soạn điện tử. Kết quả của việc đánh giá nội dung này được thể hiện ở bảng 2.20: Bảng 2.20 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT tổ chức, phân công GV nghiên cứu, biên soạn bài soạn điện tử HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 2.80 1.79 22 3.62 1.45 11 3.32 1.44 17 Số liệu X =2,8; Y =3,62 và Z =3,22 cho thấy sự khác biệt trong đánh giá ở 3 đối tượng. Đồng thời, độ lệch chuẩn Sx=2,8; Sy=1,45 và Sz=1,44 tương đối cao thể hiện sự không tương đồng về ý kiến của mỗi đối tượng. Qua đó, có thể nhận thấy rằng HT vẫn cần phải cải thiện nội dung quản lý này để tổ chức, phân công GV biên soạn bài soạn điện tử tốt hơn. Để ứng dụng triệt để CNTT vào dạy học, việc sử dụng thành thạo các phần mềm giảng dạy đóng vai trò rất quan trọng. Phần mềm Microsoft Powerpoint hiện nay là phần mềm được sử dụng phổ biến nhất. Dù vậy, hiện nay với nhiều phiên bản mới, GV vẫn còn lạ lẫm vì họ vẫn quen với phiên bản cũ. Ngoài ra, hiện nay cũng có những phần mềm khác có xuất xứ từ Việt Nam có nhiều tính năng. Chính vì vậy, HT cần phải tổ chức sưu tầm, khai thác các phần mềm giảng dạy. Việc này được đánh giá trong bảng 2.21 dưới đây: Bảng 2.21 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT tổ chức sưu tầm, khai thác các phần mềm giảng dạy HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 1.00 1.73 33 1.85 1.99 35 2.86 1.59 27 X =1, thứ bậc 33 cho thấy HT đã đánh giá rất thấp nội dung này. Ở CBQL thì điểm trung bình Y =1,85, thứ bậc 35 có cao hơn nhưng vẫn ở mức độ yếu. Còn về phía GV, Z =2,86 thể hiện mức đánh giá của họ cho hoạt động quản lý này ở mức độ TB nhưng cũng với thứ bậc 27, một thứ bậc không cao. Qua đó, có thể thấy rằng chất lượng của việc ứng dụng CNTT sẽ bị ảnh hưởng khá nhiều khi mà công cụ quan trọng đóng vai trò quyết định trong CNTT là phần mềm phục vụ cho giảng dạy chưa được quan tâm đúng mức. Bảng 2.22 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT quản lý kế hoạch thực hiện giờ dạy có ứng dụng CNTT HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 3.80 1.30 7 3.54 1.51 15 3.21 1.64 19 Để GV thực hiện ứng dụng CNTT vào dạy học thường xuyên và có hiệu quả, việc quản lý kế hoạch thực hiện giờ dạy có ứng dụng CNTT là một điều rất đáng quan tâm của HT. Với kết quả trên bảng 2.25, X =3,8 và thứ bậc 7 thể hiện sự tự đánh giá của HT là bản thân HT đã quản lý kế hoạch dạy học có ứng dụng CNTT ở mức khá. Không có sự khác biệt trong đánh giá của CBQL và GV khi Y = 3,54 và Z =1,64, nếu có chỉ là sự khác biệt là thứ bậc khi thứ bậc của HT là 7 và của CBQL và GV lại là 15 và 19. Bên cạnh đó, Sx=1,3, Sy=1,51 và Sz=1,64 tương đối cao thể hiện sự không tương đồng trong đánh giá. Do đó dù được đánh giá rằng HT thực hiện nội dung quản lý này ở mức khá nhưng vẫn còn vấn đề bất cập HT cần lưu tâm khi quản lý giờ dạy có ứng dụng CNTT của GV. Ngoài ra, để thu hút sự chú ý của GV và tuyển chọn được nhân tài, việc tổ chức các hội thi thiết kế bài soạn điện tử trong nhà trường là một hoạt động rất cần thiết. Công tác tổ chức của HT được đánh giá trong bảng 2.23: Bảng 2.23 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT tổ chức các hội thi thiết kế bài soạn điện tử HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 4.40 0.55 1 4.15 0.80 3 3.99 1.18 3 Giá trị trung bình cao trong bảng 2.23 X =4,4; Y =4.,5 và Z =3,99 tương ứng là thứ bậc cao lần lượt là 1, 3 và 3 thể hiện HT đã tổ chức khá tốt các hội thi. Độ lệch chuẩn nhỏ hơn 1, trừ Sz=1,13 cho thấy có nhiều ý kiến tương đồng trong đánh giá. Điều này chứng tỏ đây là nội dung quản lý HT cần phải phát huy hơn nữa trong việc đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng CNTT vào dạy học của GV. Dạy học có ứng dụng CNTT rất cần những phương pháp dạy học phù hợp. Việc tổ chức các chuyên đề trao đổi về đổi mới phương pháp dạy học để phù hợp với việc ứng dụng CNTT rất cần thiết đối với GV, góp phần định hướng cho họ có cái nhìn đúng đắn về dạy học có sử dụng công nghệ. Kết quả khảo sát của nội dung quản lý này được thể hiện trong bảng sau: Bảng 2.24 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT tổ chức chuyên đề ở các tổ khối về đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng có sử dụng CNTT HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 3.00 1.87 19 3.46 1.39 17 3.18 1.71 20 Với X =3, Y =3,46 và Z = 3,18 và thứ bậc lần lượt là 19, 17 và 20 của HT, CBQL và GV, việc tổ chức chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng sử dụng CNTT của HT được đánh giá ở mức trên trung bình. Nếu xét đến độ lệch chuẩn Sx=1,87; Sy=1,39 và Sz=1,71 thì điều dễ dàng nhận ra là sự phân tán ý kiến của cả 3 đối tượng rất cao. Qua đó, có thể nhận định rằng HT đã quan tâm đến việc thực hiện nôi dung quản lý này nhưng mức độ hiệu quả trong tổ chức là chưa cao, chưa mang đến những điều thiết thực để GV có thể ứng dụng trong thực tế dạy học. Để cả trường đồng lòng, cùng một mục tiêu áp dụng những điều mới mẻ vào dạy học, vai trò của HT trong việc phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường vận động GV ứng dụng CNTT vào dạy học là rất quan trọng. Bảng 2.25 dưới đây thể hiện kết quả đánh giá của 3 đối tượng cho công tác quản lý này: Bảng 2.25 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường vận động GV tích cực ứng dụng CNTT vào dạy học HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 3.40 1.14 15 3.62 1.04 11 3.47 1.41 10 Một lần nữa, số liệu X =3,4, Y =3,62 và Z =3,47 đều ở mức trung bình khá, thể hiện HT đã thực hiện công tác này ở mức độ tương đối. Với Sz=1,41 là độ lệch chuẩn cao nhất trong 3 đối tượng, cho thấy ý kiến của GV đối với việc phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường còn có sự không tương đồng. Tuy nhiên, thứ bậc 10 lại cho thấy GV đánh giá mặt quản lý này của HT cao hơn so với cách đánh giá của chính HT ở thứ bậc 10 và CBQL ở thứ bậc 11. Qua đó, HT cần phải đẩy mạnh công tác này hơn nữa vì bước đầu đã đạt được hiệu quả trong việc vận động GV ứng dụng CNTT thông qua các đoàn thể trong nhà trường. Nhận định chung về bước chỉ đạo – tổ chức thực hiện của HT trong quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy học, có thể thấy rằng HT đã có những cố gắng thực hiện việc chỉ đạo và tổ chức tương đối khá. Tuy nhiên, những hạn chế của HT vẫn có thể được nhận ra ở từng mặt của các nội dung . So về thứ bậc của tất cả các nội dung quản lý thì ở bước này có nhiều nội dung được cả 3 đối tượng đánh giá ở thứ bậc thấp hơn các bước khác. Chỉ đạo – tổ chức thực hiện quá trình ứng dụng CNTT vào dạy học là bước đi vào thực tế quản lý do đó có nhiều ý kiến trái chiều trong việc nhận xét đánh giá HT khi thực hiện công tác này. Nhưng HT cũng cần phải lưu ý để khắc phục những hạn chế để nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng CNTT vào dạy học. 2.2.2.4 Xây dựng các điều kiện hỗ trợ Để việc ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao, ngoài việc xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, xây dựng các điều kiện hỗ trợ như các chính sách, cơ sở vật chất và thiết bị là điều mà HT cần phải quan tâm hàng đầu. Đầu tiên, ứng dụng CNTT cần được HT khuyến khích thông qua việc xây dựng chính sách khuyến khích ứng dụng CNTT vào dạy học. Kết quả khảo sát được thể hiện ở bảng 2.26: Bảng 2.26 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT xây dựng chính sách, chế độ hỗ trợ việc ứng dụng CNTT vào dạy học Nội dung HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc Khuyến khích GV ứng dụng CNTT vào dạy học 2.60 2.19 26 3.15 1.63 26 3.03 1.65 21 Khuyến khích CBQL, GV học tập nâng cao trình độ tin học 2.80 2.05 22 3.31 1.55 20 3.33 1.60 16 Khen thưởn CBQL, GV thực hiện tốt việc ứng dụng CNTT vào dạy học 1.00 2.24 33 1.31 2.10 38 2.13 2.10 35 Điểm trung bình của việc xây dựng chính sách khuyến khích GV ứng dụng CNTT vào dạy học ( X =2,6; Y =3,15 và Z =3,03) cho thấy HT chỉ thực hiện nội dung quản lý này ở mức trung bình. Độ lệch chuẩn rất cao Sx=2,19; Sy=2,63 và Sz=1,65 cũng cho thấy sự không tương đồng trong đánh giá. Qua đó chứng tỏ rằng, HT vẫn còn hạn chế trong việc xây dựng các chính sách khuyến khích GV ứng dụng CNTT vào dạy học. Khi không có các chính sách phù hợp để thúc đẩy GV học hỏi, sử dụng CNTT vào dạy học thì khó có khả năng nâng cao số lượng GV ứng dụng CNTT và cả chất lượng của việc dạy học với CNTT. Trình độ tin học là một rào cản ngăn GV đến với việc dạy học theo hướng hiện đại. Học tập, nâng cao trình độ tin học là một điều cần thiết. Tuy nhiên, để tạo động lực, HT cần phải có chính sách khuyến khích học tập, nâng cao trình độ tin học. Điểm trung bình X =2,8; Y =3,31 và Z = 3,33 cho thấy kết quả cả 3 đối tượng cho rằng HT thực hiện nội dung này ở mức trên trung bình. Độ lệch chuẩn một lần nữa ở cả 3 đối tượng vẫn ở mức cao khi mà Sx=2,05; Sy=1,55 và Sz=1,6 thể hiện sự phân tán cao trong ý kiến đánh giá. Điều này có nghĩa là có đơn vị HT đã thực hiện tốt việc động viên CBQL, GV học tập nâng cao trình độ tin học, nhưng ở một số đơn vị khác thì HT chưa hoặc làm không tốt việc này. Không làm tốt nội dung quản lý này tác động không nhỏ đến chất lượng của các tiết học có sử dụng CNTT khi mà trình độ tin học GV không được nâng cao. Động viên, khen thưởng CBQL, GV là việc làm thiết thực nhất để họ không ngừng cố gắng nhất là trong lĩnh vực không dễ dàng như là CNTT. Điều bất ngờ về nội dung quản lý này được thể hiện Có thể thấy X =1; Y =1,31 và Z =2,13 cùng với độ lệch chuẩn rất cao Sx=2,24; Sy=2,1 và Sz=2,1 thể hiện rằng HT chưa thực hiện tốt việc khen thưởng nếu không nói là chỉ thực hiện ở mức yếu. Thứ bậc 33, 38 và 35 là các thứ bậc ở trong nhóm thấp nhất khi HT, CBQL và GV đánh giá về chế độ khen thưởng cho những người thực hiện tốt việc ứng dụng CNTT vào dạy học. Qua trên, HT cần phải lưu ý hơn nữa đến việc có một chế độ khen thưởng thích hợp cho những người tiên phong trong lĩnh vực mới mẻ này vì không phải ai cũng có thể ứng dụng CNTT một cách dễ dàng được. Thiết bị, đặc biệt là máy tính là không thể thiếu trong dạy học có ứng dụng CNTT vì GV thông qua việc thiết kế bài soạn điện tử mới hướng dẫn HS lĩnh hội kiến thức. Bên cạnh đó, xây dựng một mạng internet ADSL ổn định cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT vào dạy học. Việc tạo điều kiện hỗ trợ bằng các trang thiết bị và thiết lập hệ thống mạng được đánh giá như sau qua bảng 2.27: Bảng 2.27 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT trang bị máy vi tính cho các phòng học, thư viện nhà trường Nội dung HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc Trang bị máy vi tính cho các phòng học, thư viện nhà trường 3.60 0.89 9 3.85 0.80 8 2.99 1.52 22 Mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT 3.40 1.34 15 3.62 1.12 11 3.84 1.16 8 Kết nối mạng internet ADSL trong nhà trường 4.00 1.41 4 4.31 0.95 2 3.94 1.44 4 Đối với việc trang bị máy tính cho các phòng học, thư viện, điểm trung bình X =3,6; Y =3,85 cho thấy HT, CBQL thì đánh giá cao việc trang bị máy tính trong nhà trường khi cho rằng nội dung quản lý này ở gần mức độ khá. Trong khi đó với Z =2,99 và Sz=1,22 thì GV đánh giá nội dung quản lý này ở mức thấp hơn và cũng thể hiện nhiều ý kiến tương phản. Thứ bậc 8,9 của HT và CBQL và thứ bậc 22 của GV cho thấy một ý nghĩa tương tự so với điểm trung bình. Qua đó, thấy rằng HT đã cho rằng mình trang bị tương đối đầy đủ máy tính cho GV sử dụng trong nhà trường, tuy nhiên, một số GV vẫn chưa hài lòng về số lượng cũng như chất lượng máy tính hiện có trong nhà trường, phần nào gây khó khăn cho họ trong quá trình ứng dụng CNTT vào dạy học. Dạy học có ứng dụng CNTT trên lớp cần có những thiết bị đặc biệt khác ngoài máy tính. Dù là theo xu hướng mới nào, sử dụng máy chiếu hay ti vi LCD, thì HT cũng cần phải chú ý đến việc mua những thiết bị phù hợp. Có thể nói qua số liệu điểm trung bình X , Y và Z xoay quanh mức 3,5, HT đã thực hiện nội dung quản lý này ở mức trung bình khá. Tuy rằng độ lệch chuẩn đều lớn hơn 1, nhưng nhìn chung HT đã quan tâm đến việc tạo điều kiện không thể thiếu cho GV thể hiện thiết kế của mình trên lớp. Điều đáng ghi nhận là GV đã đánh giá cao việc trang bị các thiết bị phục vụ dạy học có ứng dụng CNTT với Z =3,84 và thứ bậc 8. Có thể nói, đây là nội dung mà HT cần phải phát huy hơn nữa. Internet là một công cụ hữu ích cho GV thu thập thông tin, tìm kiếm tài liệu, hình ảnh hữu ích cho dạy học. Kết nối mạng internet trong nhà trường là một trong những điều kiện tiên quyết đối với việc ứng dụng CNTT trong nhà trường nói chung. Với X =4; Y =4,31 và Z =3,94 và thứ bậc rất cao lần lượt là 4, 2 và 4, đánh giá của 3 đối tượng đối với việc kết nối internet trong nhà trường là ở mức khá. Dù độ lệch chuẩn Sx và Sz lớn hơn 1, tức là ý kiến của các đối tượng còn có mức độ phân tán cao nhưng nhìn chung HT đã thực hiện nội dung quản lý này tốt phù hợp với yêu cầu hiện tại của việc dạy học. Điều kiện lớp học ở các trường tiểu học còn hạn chế, không phải dễ dàng trang bị các thiết bị cần thiết phục vụ cho việc dạy học có sử dụng CNTT. Do đó xây dựng một phòng học đa phương tiện với đầy đủ các thiết bị phù hợp cho việc dạy học có ứng dụng CNTT để GV luân phiên sử dụng là rất cần thiết. Kết quả được thể hiện ở bảng 2.28: Bảng 2.28 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT xây dựng phòng học đa phương tiện HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 1.00 2.24 33 1.46 2.30 36 1.51 2.03 37 Qua bảng trên, có thể thấy rằng đây một trong những nội dung được đánh giá thấp nhất. X =1; Y =1,45 và Z =1,51, thứ bậc lần lượt là 33, 36 và 37 kết hợp với độ lệch chuẩn lớn hơn 2 thể hiện rằng HT chưa thực sự thực hiện tốt nội dung này nếu không nói là có đơn vị HT vẫn chưa nghĩ đến phương án xây dựng phòng học đa phương tiện. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng ứng dụng CNTT vào dạy học của GV khi không có những điều kiện hỗ trợ thích hợp. Một điều kiện hỗ trợ khác cũng cần phải nhắc đến đó là việc nhà trường cần có một trang web (hoặc blog). Đó là sẽ là nơi đăng tải những thông tin hoạt động và hình ảnh của nhà trường, đồng thời cũng là nơi chia sẻ trực tuyến các tài nguyên dạy học dành cho GV trong và ngoài nhà trường. Nhận định về việc xây dựng trang web cho nhà trường, 3 đối tượng đã đánh giá trong bảng 2.29 dưới đây: Bảng 2.29 Ý kiến của HT, CBQL và GV đánh giá về việc HT xây dựng trang web (hoặc blog) cho nhà trường HT CBQL GV X Sx thứ bậc Y Sy thứ bậc Z Sz thứ bậc 2.00 2.00 31 2.54 1.94 31 2.43 2.23 31 Với X =2; Y =2,54 và Z =2,43 cùng với thứ bậc 31 ở cả 3 đối tượng, HT thực hiện việc xây dựng trang web cho nhà trường còn ở mức dưới trung bình. Thực tế Phòng Giáo dục quận 11 đều cung cấp mỗi trường trong quận 11 một tài khoản của quận để đăng tải thông tin trên mạng giáo dục của phòng. Tuy nhiên, việc đó thực sự chưa có hiệu quả vì trang web chung của phòng giáo dục là không dễ truy cập và tiếp cận. Độ lệch chuẩn trên thể hiện sự không tương đồng ý kiến cũng có thể dẫn đến trường hợp có đối tượng cho rằng việc xây dựng trang web của HT là ở mức kém thậm chí là chưa thực hiện. Qua đó, hạn chế của nội dung quản lý này của HT là điều rất đáng lưu ý, cần có bi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5902.pdf
Tài liệu liên quan