Luận văn Thực trạng và giải pháp cho hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Mục tiêu nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP

1.1. Lý luận chung về thẩm định giá doanh nghiệp

1.1.1 Khái niệm thẩm định giá

1.1.2 Vai trò của thẩm định giá trong nền kinh tế thị trường định hu?ng XHCN

1.1.3 Lý luận chung về thẩm định giá trị doanh nghiệp

1.1.3.1 Khái niệm doanh nghiệp và thẩm định giá trị doanh nghiệp

1.1.3.2 Vai trò, mụcđích của thẩm định giá trị doanh nghiệp

1.1.3.3 Tác động của thẩm định giá trị doanh nghiệp đối với nền kinh tế

1.2. Thẩm định giá trị doanh nghiệp theo tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế

1.2.1 Một số khái niệm

1.2.2 Cơ sở thẩm định giá

1.2.3 Quy trình thẩm định giá

1.2.4 Phương pháp thẩm định giá

1.2.4.1 Phương pháp tài sản

1.2.4.2 Phương pháp dòng tiền chiết khấu (Discounted Cash Flow – DCF)

Phương pháp chiết khấu dòng cổ tức

Phương pháp chiết khấu dòng tiền vốn chủ sở hữu (Free cash flow to equity – FCF

1.2.4.3 Phương pháp so sánh : Phương pháp tỷ số giá bán/ Thu nhập (P/E : The Price Ratio)

1.3 Sự phát triển nghề thẩm định giá trên thế giới

1.3.1 Sự phát triển nghề thẩm định giá trên thếgiới và khu vực

1.3.2 Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm cần thiết cho nước ta

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH GIÁ

DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

2.1 Sơ lược quá trình phát triển nghề thẩm định giá tại Việt Nam 2

2.2 Môi trường cho hoạt động thẩm định giá doanh nghiệp ở Việt Nam

2.2.1 Về khung pháp lý cho hoạt động thẩm định giá doanh nghiệp

2.2.2 Về cơ chế thực hiện thẩm định giá doanh nghiệp

2.2.3 Về mục đích sử dụng kết quả thẩm định giá doanh nghiệp

2.2.4 Phương pháp thẩm định giá trị doanh nghiệp

2.3 Quy trình thẩm định giá doanh nghiệp đang áp dụng ỡ Việt Nam

2.4 Những mặt tích cực và những tồn tại của việc thẩm định giátrị doanh nghiệp ở Vie

2.4 Những mặt tích cực và những tồn tại của hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp

Nam

2.4.1 Những mặt tích cực và thuận lợi

2.4.2 Những tồn tại

2.4.2.1 Về quản lý vĩ mô

2.4.2.2 Về cơ chế thực hiện

2.4.2.3 Về phuong php d?nh gi hi?n hnh

a. Phương pháp tài sản

b. Phương pháp chiết khấu dòng tiền

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH

NGHIỆP Ở VIỆT NAM

3.1 Những đòi hỏi của nền kinh tế đối với hoạt động thẩm định giá doanh nghiệp

3.2 Giải pháp đối với hoạt động thẩm định giá doanh nghiệp ở Việt Nam

3.2.1 Về quản lý vĩ mô của Nhà nước

3.2.2 Về cơ chế thực hiện

3.2.3 Về phương pháp thực hiện thẩm định giá

3.2.3.1 Phương pháp tài sản

3.2.3.2 Phương pháp chiết khấu doanh nghiệp

3.2.3.3 Các phương pháp thẩm định giá doanh nghiệp khác

3.2.4 Về quy trình xác định giá trị doanh nghiệp của phương pháp chiết khấu giá thành

3.2.5 Đối với các tổ chức thẩm định giá

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5720 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp cho hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c định giá trị DNNN chủ yếu là qua đấu giá về cơ bản là theo giá trị thị trường, do thị trường quyết định. Kết quả của các trung tâm, đơn vị định giá chỉ là mức giá để tham khảo khi xác định vốn điều lệ, giá để làm cơ sở cho chủ sở hữu đưa ra mức giá sàn chào. Trong đấu giá, những phân vân trong việc định giá như giá trị hữu hình, vơ hình, thương hiệu, thương quyền, lợi thế đất đai... khi đấu giá sẽ khắc phục được. + Mục tiêu thu hút các nhà đầu tư chiến lược cũng sẽ được đáp ứng: Khơng chỉ đối với nhà cung cấp nguyên liệu, mà cả những nhà đại lí gắn bĩ lâu dài với DN, phần trăm ưu đãi cũng rất hấp dẫn, cụ thể và rõ ràng. + Đảm bảo chính sách cho người lao động, khuyến khích họ trở thành cổ đơng của DN, đáp ứng mục tiêu lớn mang tính bản chất của Đảng ta, chế độ ta nhưng lại đảm bảo trên một sân chơi bình đẳng, lợi ích sịng phẳng. + Minh bạch hố, cơng khai hố; và vì vậy, đảm bảo dân chủ hố, chống được thất thốt, tham nhũng, tiêu cực, mĩc ngoặc trong quá trình định giá. Kết quả đấu giá cổ phiếu của cơng ty Bảo Minh, VINAMILK, Cơng ty cổ phần giống cây trồng thành phố Hồ Chí Minh, thuỷ điện sơng Hinh.v.v là những thành 30 cơng ban đầu cho ta thấy những ưu điểm của phương cách xác định giá trị DN theo NĐ 187CP. Nghị định số 101/2005/NĐ-CP về thẩm định giá vừa được Thủ tướng Phan Văn Khải ký ban hành ngày 3/8/2005 đã cho phép lập những cơng ty thẩm định giá đầu tiên tại Việt Nam. Điều này cũng thể hiện sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước đối với hoạt động thẩm định giá nói chung, trong đó có hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp. - Hai là, tuy ngành thẩm định giá ở Việt Nam ra đời muộn nhưng do đó có điều kiện tiếp cận kỹ thuật và kinh nghiệm thẩm định giá của một số nước trên thế giới. Ngành thẩm định giá nói chung cũng như hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp nói riêng trên thế giới và trong khu vực phát triển rất mạnh mẽ. Chúng ta có nhiều cơ hội để tiếp cận với các cơ sở lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế để từ đó áp dụng vào thực tế tình hình Việt Nam. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho quá trình thẩm định giá doanh nghiệp. - Ba là, ngành thẩm định giá nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước. Cho đến nay Nhà nước đã ban hành những chuẩn mực và những hướng dẫn khá cụ thể cho hoạt động thẩm định giá nói chung. Những văn bản này rất gần với các chuẩn mực quốc tế và có những thay đổi để phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian sắp tới, Nhà nước sẽ tiếp tục ban hành các chuẩn mực cũng như các hướng dẫn cụ thể hơn cho hoạt động thẩm định giá doanh nghiệp ở Việt Nam. - Bốn là, thẩm định giá doanh nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho xã hội. Kết quả của hoạt động thẩm định giá doanh nghiệp, chính là báo cáo thẩm định giá trị doanh nghiệp, phục vụ cho nhiều mục đích kinh doanh. Báo cáo này, tuỳ theo mục đích sử dụng mà báo cáo này phục vụ cho mục đích quản lý vĩ 31 mô của Nhà nuớc, cho nhu cầu cung cấp thông tin của công chúng đầu tư và phục vụ cho cả mục tiêu quản lý của nhà quản lý. Mặc dù vậy, sau vài năm thực hiện, hoạt động thẩm định giá nói chung và thẩm định giá trị nói riêng đã bộc lộ những yếu điểm cần phải khắc phục trong thời gian ngắn. 2.4.2 Những tồn tại 2.4.2.1 Về quản lý vĩ mô - Thứ nhất : nhìn chung do mới bắt đầu xây dựng nên trình độ thẩm định giá trị doanh nghiệp thấp so với các nước khu vực và thế giới, thị trường còn nhỏ bé. Hiện nay các đối tượng thực hiện thẩm định giá chỉ là các doanh nghiệp nhà nứơc đang trên đường cổ phần hoá. Số lượng các doanh nghiệp này thì có giới hạn. Về kỹ thuật thẩm định giá chúng ta cũng đang từng bước hoàn thiện và gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình ứng dụng những phương pháp của thế giới vào thực tế Việt Nam. - Thứ hai : nguồn nhân lực còn yếu kém về số lượng lẫn chất lượng. Về tổ chức thực hiện thẩm định giá, hoặc là doanh nghiệp tự thực hiện thẩm định giá hoặc là thuê các tổ chức có chức năng thẩm định giá trị doanh nghiệp. Thực tế các tổ chức này đang trong giai đoạn “vừa làm vừa học”, vẫn chưa được quan tâm và đào tạo đầy đủ về chuyên môn để có thể thực hiện thẩm định giá trị doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp và hiệu quả cao. - Thứ ba : công tác quản lý nhà nước về thẩm định giá còn nhiều bất cập : các tiêu chuẩn, chuẩn mực, qui tắc hành nghề …chưa được ban hành đầy đủ; Một số văn bản hiện hành liên quan đến việc thực hiện thẩm định giá tuy đã có nhưng chưa phù hợp với tình hình thực tiễn; chưa có mô hình quản lý thẩm định giá thống nhất. 32 2.4.2.2 Về cơ chế thực hiện Theo quy định hiện hành, cĩ hai cơ chế định giá được phép áp dụng là thành lập Hội đồng định giá hoặc thuê cơng ty tư vấn định giá độc lập. Thành viên của Hội đồng định giá là cán bộ đại diện của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau, ví dụ như Sở Tài chính, Sở KH-CN, Uỷ ban Nhân dân v.v., vì thế ý kiến đánh giá của họ khơng phải bao giờ cũng thống nhất và cĩ thể bị nghiêng về những mục tiêu quản lý riêng. Do đĩ, định giá theo cơ chế này thường khơng phản ánh được giá trị "thực tế" của DNNN. Hơn nữa, mâu thuẫn về quyền lợi giữa DNNN với các cơ quan quản lý nhiều khi làm cho việc định giá chậm được thống nhất. Việc sử dụng cơng ty tư vấn độc lập để định giá tuy tỏ ra cĩ hiệu quả hơn nhưng vẫn cịn những hạn chế trong việc xác định giá trị tài sản vơ hình như thương hiệu hay lợi thế kinh doanh. Hơn nữa, hầu hết các cơng ty tư vấn độc lập của Việt Nam vẫn chưa đủ kinh nghiệm và trình độ để định giá các DNNN lớn và phức tạp. 2.4.2.3 Về phương pháp định giá hiện hành Theo quy định, để xác định giá trị khi cổ phần hoá, doanh nghiệp có thể áp dụng hai phương pháp là chiết khấu dòng tiền (DCF) và xác định giá trị theo tài sản. Tuy nhiên các doanh nghiệp cho rằng, hai cách này đang gặp phải rất nhiều hạn chế. a. Phương pháp tài sản Cụ thể, phương pháp này có công thức tính như sau : Giá trị doanh nghiệp = Giá trị thực tế của toàn bộ tài sản theo giá thị trường + Lợi thế kinh doanh Trong đó, Lợi thế kinh doanh = Phần vốn nhà nước theo sổ kế toán tại thời điểm định giá x (Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân trong 3 năm trước - Lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm gần nhất) 33 khi cổ phần hoá Các tỷ suất lợi nhuận được sử dụng Tuy nhiên theo ông Trần Việt Đức – Giám đốc tư vấn Công ty kiểm toán Việt Nam, việc tính toán chỉ dựa trên các chỉ số này sẽ không bảo đảm tính chính xác. Chẳng hạn như tỷ suất lợi nhuận có thể tăng đột biến trong 1-2 năm gần đây do điều kiện đặc biệt hay doanh nghiệp kê khai không chính xác nên sẽ ngay lập tức ảnh hưởng đến kết quả tính toán. Chia sẻ quan điểm này, ông Lê Xuân Vệ, Ban đổi mới doanh nghiệp, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cũng cho rằng, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố như chi phí sản xuất, trình độ quản lý và ngay cả chính sách, trong khi lợi thế chỉ là một yếu tố cấu thành nên lợi nhuận của doanh nghiệp. Oâng Vệ cũng nêu ví dụ về một doanh nghiệp trực thuộc là Công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm dầu mỏ. Đơn vị này kinh doanh mặt hàng xăng dầu, lợi nhuận của công ty phụ thuộc chủ yếu vào giá cả trên thế giới và chính sách giá cả của Nhà nước. Nếu giá nhập khẩu xăng dầu cao mà giá bán ra vẫn giữ nguyên (Nhà nước quản lý giá mặt hàng này) thì đương nhiên lợi nhuận của công ty sẽ bị giảm, thậm chí lỗ nếu không được bù giá. Hậu quả của những nhược điểm trên đây là việc không xác định được lợi thế thương mại của những doanh nghiệp này. Lúng túng định giá thương hiệu Một vấn đề bức xúc nữa trong quá trình dịnh giá doanh nghiệp là việc xác định giá trị thương hiệu. Vinaconex (thuộc Bộ Xây dựng) là một tổng cơng ty lớn của Nhà nước đang tiến hành cổ phần hĩa. Một chuyên gia của Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học Cơng nghệ) cho biết, tổng tài sản của Vinaconex vào khoảng 3.600 tỉ đồng, trong đĩ trị 34 giá thương hiệu Vinaconex - theo nhiều nguồn tin khác nhau - chỉ được tính xấp xỉ 3,5 tỉ đồng - chưa bằng 1/1.000 tổng tài sản doanh nghiệp. Một con số quá nhỏ nhoi. Bản thân ơng Phí Thái Bình - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vinaconex khơng thừa nhận con số 3,5 tỉ này. Ơng nĩi: "Trong quá trình tiến hành cổ phần hĩa, chúng tơi đề nghị các doanh nghiệp tự đánh giá giá trị của cái tên Vinaconex, ở đâu đĩ vào khoảng từ 5 đến 15% giá trị doanh nghiệp. Cịn đối với cả tổng cơng ty, giá trị thương hiệu Vinaconex được tính bao nhiêu là một bài tốn rất phức tạp, chắc chắn cần phải cĩ sự tư vấn của các chuyên gia, tạm thời chúng tơi cũng chưa biết tính như thế nào...". Sự lúng túng trong việc định giá thương hiệu là vấn đề chung của nhiều doanh nghiệp Việt Nam chứ khơng chỉ riêng của một số doanh nghiệp Nhà nước đang tiến hành cổ phần hĩa. Ơng Đặng Lê Nguyên Vũ - Giám đốc Cơng ty Cà phê Trung Nguyên - một doanh nghiệp được coi là đi tiên phong ở VN trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu - cũng thừa nhận: “Trong hồn cảnh ta hiện nay chưa thể định giá chính xác được thương hiệu của một doanh nghiệp. Đưa ra bất kỳ con số nào cũng là chủ quan”. Ơng Hồ Xuân Hùng - Phĩ trưởng ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương - nhận xét: "Đến tài sản hữu hình cịn chưa định giá đúng, định giá đủ, nĩi gì đến tài sản vơ hình như thương hiệu!". Trong khi đĩ, theo ơng Phạm Đình Chướng - Cục trưởng Cục Sở hữu Trí tuệ - vấn đề định giá thương hiệu, hay rộng hơn là tài sản trí tuệ - đã bắt đầu được thế giới tính đến từ vài thập niên. Trong các lý thuyết kinh tế, quan điểm về tài sản doanh nghiệp đã cĩ sự thay đổi căn bản. Bên cạnh những tài sản hữu hình (động sản, bất động sản...) giờ đây xuất hiện các tài sản vơ hình (bao gồm các mối quan hệ của doanh nghiệp, các hợp đồng lợi thế và các sản phẩm trí tuệ - bao gồm bằng sáng chế, thương hiệu, bí quyết thương mại...). 35 Càng ngày, vai trị của các tài sản vơ hình càng quan trọng. Đối với một cơng ty chuyên sản xuất một sản phẩm hữu hình (thuốc lá) như Philip Moris, giá trị tài sản vơ hình vẫn chiếm 78% tổng tài sản. Cịn đối với nhiều cơng ty, thậm chí nhiều ngành kinh tế, tài sản vơ hình gần như là tồn bộ tài sản. Ví dụ: Giá trị tài sản vơ hình chiếm 98% tổng tài sản của Microsoft, 99% giá trị tài sản của Yahoo... Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các cơng ty nhiều khi chính là sự cạnh tranh tạo ra nhiều giá trị vơ hình hơn. Trong khi đĩ, ở Việt Nam, rất đáng tiếc, định giá thương hiệu vẫn cịn là một vấn đề quá mới mẻ. Cách đây ít năm, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã "trịn xoe" mắt khi thấy phía đối tác nước ngồi đề nghị mua thương hiệu P/S với giá 5 triệu USD, thương hiệu Dạ Lan với giá hơn 1 triệu USD... Vậy mà trong quá trình cổ phần hĩa, chuyển đổi sở hữu, mua bán, sáp nhập... đang diễn ra ồ ạt hiện nay, nhiều doanh nghiệp Nhà nước cĩ những thương hiệu tương đối cĩ uy tín nhưng lại khơng biết tính thành tiền như thế nào. Người ta rất chi li trong việc tính giá một ngơi nhà, một chiếc xe, một cỗ máy... nhưng lại "cho khơng biếu khơng" những thương hiệu dày cơng vun đắp hàng chục năm. Thương hiệu Vinamilk đã khơng hề được tính thành tiền. Trong phương án đấu giá thuỷ điện Vĩnh Sơn - Sơng Hinh vừa qua cũng như Phả Lại, Thác Bà sắp tới, giá trị thương hiệu cũng khơng được tính tới. Ơng Phạm Đình Chướng thừa nhận, trong tồn bộ hệ thống chính sách về sở hữu trí tuệ ở nước ta cịn thiếu hẳn một mảng lớn quy định về cách xác định giá trị thương hiệu doanh nghiệp. Cũng như chưa cĩ một cơ quan nào đứng ra nghiên cứu phát triển tài sản sở hữu trí tuệ. 36 Sự thiếu hụt này sẽ gây ra những tổn thất nghiêm trọng đối với Nhà nước và các doanh nghiệp - một tổn thất khơng “vơ hình” chút nào. Đánh giá giá trị tài sản Như đã trình bày ở trên, hiện nay các doanh nghiệp được thẩm định giá trị chủ yếu dựa trên phương pháp tài sản. Tuy nhiên khi thực hiện thẩm định giá trị các tài sản hiện có của doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều bất cập. Trước hết là việc định giá tài sản cố định hữu hình - Một ví dụ cụ thể là việc thẩm định giá trị doanh nghiệp ở Hải Phòng vừa qua : Quá trình đánh giá lại, đối với tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, địa phương sử dụng Quyết định số 31/QĐ-UB ngày 5/10/1998 của UBND thành phố phê duyệt đơn giá chuẩn và tỷ lệ phần trăm chất lượng cịn lại của cơng trình; đối với tài sản là máy mĩc, thiết bị, phương tiện vận tải, sử dụng kết quả thẩm định chất lượng hàng hố của Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng thuộc Sở Khoa học - cơng nghệ và tính tốn theo quy định về cách tính giá trị thực tế của tài sản. Tuy nhiên cho đến nay, việc xác định tỷ lệ phần trăm chất lượng cịn lại của cả nhà cửa vật kiến trúc, hay máy mĩc thiết bị và phương tiện cịn lại vẫn chưa cĩ cách tính khoa học, phản ánh thực tế đã xảy ra. Đơn cử như trong quyết định của thành phố về phê duyệt đơn giá chuẩn đối với dạng nhà xây dựng cĩ quy định thời gian sử dụng để làm căn cứ tính chất lượng cịn lại, nhưng thực tế chất lượng cịn lại ở những khu vực địa lý khác nhau thì chất lượng cịn lại cũng khác nhau. Cụ thể như nhà cửa của DN đĩng tại khu vực sát biển khơng thể như trong khu vực nội đơ vì ảnh hưởng của giĩ biển, hay việc sử dụng các phương tiện nĩi chung của các DN cũng cĩ nơi mang tính đặc trưng như DN làm nghề xây dựng phải thi cơng những cơng trình ở miền núi, hải đảo.... Vì vậy, trong trường hợp này, các căn cứ trên vẫn mang tính ước lệ và thoả thuận giữa cơ quan thẩm định với DN. - Thực tế ở các tổ chức định giá thành phố Hồ Chí Minh : Theo quy định hiện hành, khi đánh giá giá trị tài sản, nhà thẩm định tự xác định giá trị tài sản hoặc dựa vào ý kiến của những chuyên gia thẩm định khác. Tuy nhiên theo khảo sát 37 thực tế, nhà thẩm định giá trị doanh nghiệp khi thẩm định giá trị tài sản hữu hình thường dựa trên những nhận định chủ quan, thậm chí áp dụng ngay tỷ lệ tối thiểu mà Thông tư 126 đề cập là 20% trên giá trị sổ sách mà không có kết quả thẩm định của các chuyên gia thẩm định giá tài sản . Khĩ khăn trong việc định giá tài sản vơ hình Một số DNNN lớn, hoạt động tốt như Bảo Minh, Vietcombank đã cĩ kế hoạch cổ phần hố trong năm nay và những năm tới đây. Các DNNN này đều cĩ thương hiệu và tên tuổi nổi tiếng, tài sản vơ hình cĩ thể cĩ giá trị khơng kém tài sản hữu hình. Mặc dù Bộ Tài chính đã quy định cơng thức tính giá trị lợi thế kinh doanh của các DNNN (dựa trên giá trị tài sản trên sổ sách và tỷ lệ lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp), các cơng thức này khĩ áp dụng trên thực tế. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng đối với các DNNN lớn trong các ngành dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn. Nhiều quan điểm cho rằng phương pháp định giá tốt nhất trong những trường hợp này là đấu giá cơng khai. Song một số DNNN lo ngại rằng đấu giá cơng khai sẽ chỉ thu hút các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ chứ khơng giúp họ đạt được mục tiêu chính khi cổ phần hố là đem lại những định chế đầu tư chiến lược để đĩng gĩp kinh nghiệm quản lý và chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp. Vì thế, cịn rất nhiều tranh luận xung quanh việc tìm ra giải pháp định giá tài sản vơ hình phù hợp, đặc biệt là đối với các DNNN lớn. Đối với việc tính tốn giá trị lợi thế của DN được thực hiện theo quy định tại các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính, nhưng số DN cĩ giá trị là lợi thế DN khơng nhiều vì hầu hết các DN địa phương quy mơ nhỏ, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh khơng cao. Mặt khác, việc tính tốn xác định giá trị tài sản vơ hình như giá trị lợi thế DN được tính tốn căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của DN, cĩ đối chiếu so sánh với lãi suất trái phiếu Chính phủ, nhưng thực tế ở một số DN cĩ kết quả kinh doanh khơng sát thực, phần lớn rơi vào các DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, xây dựng đã sử dụng phương pháp khốn. 38 Tranh luận quanh vấn đề tính giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ) khi định giá Đối với việc tính tốn giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN cổ phần hố thì hầu như khơng cĩ, vì theo quy định của Nghị định 64 và Nghị định 87 của Chính phủ về chuyển DNNN thành cơng ty cổ phần quy định thì DN được quyền lựa chọn hình thức thuê đất hoặc hình thức giao đất. Qua kết quả xác định giá trị DN cổ phần hố của Hải Phịng thì việc tính tốn các tài sản hữu hình là nguồn chủ yếu làm tăng giá trị tài sản của DN. QSDĐ của nhiều DNNN tính theo giá thị trường là rất lớn, thậm chí cĩ thể cịn lớn hơn cả giá trị của tất cả các tài sản khác của doanh nghiệp. Nếu khơng tính đến giá trị QSDĐ thì DNNN cĩ thể bị định giá quá thấp. Vì vậy, Nhà nước đã cĩ chủ trương thực hiện tính giá trị QSDĐ khi định giá DNNN để cổ phần hố. Tuy nhiên, thực hiện chủ trương này trên thực tế cịn rất khĩ khăn do thiếu những quy định cụ thể, chưa cĩ thị trường cũng như các tổ chức định giá chuyên nghiệp. Lãnh đạo các DNNN chuẩn bị cổ phần hĩa thường khơng đồng tình với chính sách tính giá trị QSDĐ khi định giá để cổ phần hĩa vì làm như vậy sẽ đẩy giá cổ phần của các DNNN cổ phần hĩa lên quá cao, làm cho họ bất lợi hơn các doanh nghiệp khác và khơng hấp dẫn các nhà đầu tư tiềm năng. Các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân khác, theo Luật Đất đai sửa đổi, vẫn được quyền lựa chọn hình thức thuê đất nên khơng phải tính giá trị QSDĐ vào giá trị doanh nghiệp, do đĩ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Việc tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN theo quy định của Nghị định 187 chưa đồng bộ với Nghị định hướng dẫn về thi hành Luật Đất đai, đĩ là tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN. Liên quan đến mặt bằng đất đai khi tính giá trị DN hiện vẫn cịn tồn tại, cụ thể là chưa cĩ phương pháp tính lợi thế về quyền thuê đất và thuê nhà tại những địa điểm thuận lợi, các vị trí đắc địa. Định giá phần gĩp vốn của DNNN trong liên doanh Nhiều DNNN cĩ vốn gĩp tham gia liên doanh (LD) đang gặp khĩ khăn trong việc xác định giá trị phần vốn gĩp này khi cổ phần hố. Trong nhiều trường hợp, DNNN 39 gĩp vốn bằng QSDĐ, và một số DNNN giờ đây thừa nhận rằng QSDĐ đĩ cĩ thể đã được định giá quá cao khi thành lập LD. Một vấn đề khác là phần lớn các LD đều phát sinh lỗ trong những năm đầu hoạt động, do vậy nếu tính giá trị phần vốn gĩp tại thời điểm DNNN cổ phần hố thì phần vốn gĩp đĩ thường bị thấp hơn so với số liệu ban đầu khi thành lập LD. Trong những trường hợp này, cơ quan tài chính khơng chấp nhận xác định giá trị phần vốn gĩp LD theo sổ sách tại thời điểm cổ phần hố nhưng cũng chưa tìm ra được một giải pháp định giá nào hợp lý. Hiện nay cĩ rất nhiều DNNN cĩ vốn gĩp LD với nước ngồi chưa thể cổ phần hố vì lý do này. Đối với hình thức giao, bán DNNN, việc xác định giá trị DN được thực hiện về cơ bản tương tự như các DN thực hiện cổ phần hố, quá trình xử lý linh hoạt hơn, đặc biệt đối với các trường hợp khi tính tốn khơng cịn vốn để giao, bán thì cách xử lý là tính giá trị san lấp mặt bằng, tăng giá trị nhà cửa vật kiến trúc trên đất trên cơ sở thống nhất của DN. Riêng trường hợp thí điểm bán đấu giá DNNN được Thủ tướng Chính phủ cho phép, giá khởi điểm bán DN đưa lên sàn đấu giá là giá trị DN thể hiện trên sổ sách kế tốn. Đối với những DN thực hiện cổ phần hố là đối tác trong nước tham gia liên doanh, ngồi tồn tại là xử lý phần vốn gĩp liên doanh, trong trường hợp DN sau cổ phần hố khơng muốn kế thừa hoạt động liên doanh do giá trị lớn, trong khi đối tác nước ngồi lại khơng đồng ý thay đổi đối tác. Cịn trường hợp là DN kế thừa hoạt động liên doanh phải tính lại vốn gĩp liên doanh theo quy định tại Điều 20 của Nghị định 187, nhưng vốn gĩp của DN là giá trị quyền sử dụng đất đã ghi trong giấy phép đầu tư thì xử lý thế nào, thời điểm phải tính lại giá đất là thời điểm xác định giá trị DN hay thời điểm thẩm định giá trị DN... Cũng theo quy định của Nghị định 187 thì việc xác định giá trị thực tế của DN là căn cứ để xác định giá khởi điểm bán cổ phần, tuy nhiên trong trường hợp số cổ phần đưa ra ngồi để bán đấu giá thì việc giảm giá trị DN cổ phần hố được thực hiện như thế nào, thẩm quyền giải quyết ra sao khi cổ phần hố... đều chưa cĩ hướng dẫn giải quyết. 40 b. Phương pháp chiết khấu dòng tiền Phương pháp chiết khấu dòng tiền được xác định dựa trên cơ sở thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp. Cách tính này được coi là sẽ làm chính xác hơn giá trị của các công ty đang hoạt động có hiệu quả và khả năng phát triển trong tương lai, đặc biệt là các đơn vị đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, bảo hiểm...Việc áp dụng phương pháp này cũng sẽ giải quyết được một phần các vướng mắc trong xác định lợi thế thương mại của doanh nghiệp, tạo độ chính xác của giá trị doanh nghiệp, đặc biệt là những đơn vị đang làm ăn có lãi, thương hiệu và thị phần trên thị trường. Để có thể áp dụng phương pháp này, các doanh nghiệp cần xác định được những thông tin chủ yếu từ tỷ suất lợi nhuận của 3-5 năm liền kề và dự kiến trong 5 –10 năm tương lai, tỷ lệ tăng trưởng, hệ số rủi ro ...Đây là những thông tin không thể thiếu khi áp dụng phương pháp này. Tuy nhiên, theo ông Trần Việt Đức, Giám đốc tư vấn Công ty kiểm toán Việt Nam, việc xác định những thông tin trên hiện nay rất khó khăn và mất nhiều thời gian. Thậm chí nhiều dữ liệu trên để có thể chính xác phải do tính toán của chuyên gia. Với những yêu cầu khá phức tạp của phương pháp trên nên trên thực tế chưa được áp dụng rộng rãi. Bên cạnh đó, do tâm lý đại bộ phận doanh nghiệp không muốn giá trị được đánh giá cao vì sợ khó bán cổ phần cũng như bất lợi trong việc phân chia cổ phần ưu đãi trong nội bộ doanh nghiệp. “Ngoài ra, kết quả của phương pháp này dựa nhiều vào những dự đoán kinh doanh trong tương lai, trong khi đó, không có gì để đảm bảo trong tình hình biến động về các chính sách như hiện nay” Oâng Đức nói. Sự phức tạp của phương pháp trên đã khiến nhiều doanh nghiệp chọn cách tính theo giá trị tài sản. Song nhược điểm lớn nhất lại là không tính được lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp như đã nêu ở trên. 41 2.4.2.4 Về một số qui định khác về cổ phần hĩa cĩ thể gây trở ngại cho việc định giá - Rất nhiều DNNN phàn nàn rằng các quy định về xác định giá trị các khoản phải thu khĩ địi của Bộ Tài chính là quá cứng nhắc, ví dụ như chỉ được phép xố nợ khi chứng minh được con nợ đã chết hoặc phá sản. Do vậy, cĩ những DNNN buộc phải tính các khoản phải thu hầu như khơng cĩ khả năng thu hồi vào giá trị tài sản của doanh nghiệp để cổ phần hố. Trong khi đĩ, các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng khơng xĩa các khoản nợ đã bị quá hạn hoặc treo cho những DNNN này. Kết quả là những DNNN đĩ cĩ thể bị định giá quá cao nên gặp rất nhiều khĩ khăn trong việc huy động cổ đơng. - Như đã trình bày ở trên, mục đích thực hiện thẩm định giá trị doanh nghiệp hiện nay là phục vụ cho quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Do đó quá trình thực hiện thẩm định giá trị doanh nghiệp còn bị ảnh hưởng do những hạn chế của quá trình thực hiện cổ phần hoá, cụ thể như sau : + Do các quy định hiện hành về bán cổ phiếu giá ưu đãi cho cơng nhân, quy định lưu giữ cổ phiếu ít nhất trong vịng 3 năm kể từ sau khi cổ phần hố v.v., việc cổ phần hĩa nhiều DNNN cho đến nay đều mang tính "nội bộ", hầu như khơng thu hút thêm được nhà đầu tư mới, số lượng cổ phần bán cho nhà đầu tư ngồi DNNN chỉ chiếm khoảng 10%. + Số lượng nhà đầu tư rất hạn chế như vậy dẫn đến nhu cầu thẩm định giá trị doanh nghiệp không nhiều, thị trừơng của hoạt động này sẽ bị hạn chế. - Một khĩ khăn cho cơng tác định giá là xác định giá trị thiết bị, dây chuyền sản xuất vì khơng cĩ thị trường để tham k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf44131.pdf