Luận văn Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gia vị của của Việt Nam

mục lục

Lời mở đầu . 1

Chương I. Những vấn đề cơ bản về sản xuất và xuất khẩu gia vị . 2

1. Khái niệm, vai trò và tác dụng của gia vị . 2

2. Thành phần cơ cấu gia vị và nhu cầu về gia vị . 2

3. Dự báo nhu cầu gia vị hiện nay và trong thời gian tới . 3

4. Vị trí, vai trò sản xuất và xuất khẩu gia vị . 4

5. Những lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gia vị . 4

Chương II. Thực trạng thị trường gia vị thế giới và tình hình sản xuất,

xuất khẩu gia vị của Việt Nam trong thời gian vừa qua . 6

I. Thực trạng thị trường gia vị thế giới . 6

1. Nhập khẩu và tiêu thụ gia vị trên thế giới . 6

2. Xuất khẩu và cung cấp gia vị trênthị trường thế giới . 7

3. Diễn biến giá cả quốc tế các loại gia vị trong thời gian qua . 8

4. Kênh phân phối gia vị thị trường thế giới . 10

5. Các phương thức buôn bán, đóng gói và vận chuyển hàng gia vị. 10

5.1. Phương thức buôn bán . 10

5.1.1. Buôn bán thông thường . 11

5.1.2. Giao dịch tái xuất. 11

5.2. Các phương thức đóng gói hàng gia vị . 11

5.3. Các phương thức vận chuyển hàng gia vị . 12

6. Những yếu tố tác động đến nhập khẩu gia vị của các nước . 12

II. Tình hình sản xuất và xuất khẩu gia vị của Việt Nam . 13

1. Tình hình sản xuất và chế biến gia vị của Việt Nam . 13

1.1. Hạt tiêu . 13

1.2. Nhóm gia vị có chứa tinh dầu (quế, hồi, gừng, nghệ, ớt, tỏi) . 14

2. Tình hình xuất khẩu gia vị của Việt Nam . 15

2.1. Khái quát chung tình hình xuất khẩu gia vị của Việt Nam . 15

2.2. Tình hình xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam . 16

3. Những vấn đề tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu gia vị của Việt Nam . 17

3.1. Diện tích cây trồng không ổn định . 17

3.2. Thiếu dự báo chính xác về thị trường . 18

3.3. Chính sách bảo hiểm nông sản còn hạn chế . 18

3.4. Chưa có hợp đồng bao tiêu sản phẩm hoặc tính khả thi trong thực

hiện hợp đồng còn thấp giữa người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu 19

3.5. ởthế bị động trong hoạt động kinh doanh . 19

3.6. Thiếu các cơ sở chế biến . 20

4. Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, các nguy cơ và cơ hội xuất khẩu gia

vị của Việt Nam . 20

4.1. Điểm mạnh . 20

4.2. Điểm yếu . 20

4.3. Cơ hội . 21

4.4. Thách thức . 21

Chương III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gia vị

của Việt Nam trong thời gian tới . 22

I. Một số định hướng phát triển gia vị của Việt Nam trong thời gian tới . 22

1. Trong sản xuất . 22

2. Trong chế biến, bảo quản . 22

3. Trong xuất khẩu . 23

II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gia vị của Việt Nam

ra thị trường thế giới . 23

1. Tổ chức lại sản xuất theo hướng kinh tế trang trại, quy hoạch vùng sản

xuất tập trung đối với một số gia vị chính cho chế biến xuất khẩu . 23

2. Nghiên cứu đề ra chiến lược cạnh tranh . 24

3. Giải pháp đầu tư và tài chính . 24

4. Giải pháp chế biến ổn định số lượng và chất lượng . 24

5. Giải pháp về thị trường. 25

6. Giải pháp phát triển và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ

trong sản xuất, chế biến gia vị xuất khẩu. 26

III. Một số ý kiến nghị với Nhà nước. 26

1. Các biện pháp tín dụng

1.1. Tín dụng xuất khẩu và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu . 26

1.2. Bảo hiểm rủi ro không thanh toán. 27

2. Một số biện pháp về thị trường và xúc tiến. 27

2.1. Đẩy mạnh sự ra đời của các sàn giao dịch hàng hoá . 27

2.2. Nâng cao khả năng nhận biết với các rào cản phi thuế quan. 27

2.3. Chính sách thị trường đối với hàng gia vị xuất khẩu . 28

3. Chính sách thuế trong nông nghiệp . 28

Kết luận. 29

Tài liệu tham khảo . 30

pdf33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2634 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gia vị của của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p xuất nhập khẩu lớn lựa chọn phương thức vận chuyển bằng đường biển. Trong trường hợp chuyên chở bằng containơ, hàng được giao cho người vận tải theo một hay hai phương thức: Nếu hàng đủ một containơ, chủ hàng phải đăng kí thuê containơ, chịu chi phí chở containơ từ bãi containơ về cơ sở của mình đóng hàng vào containơ, rồi giao hàng cho người vận tải. Nếu hàng không đủ một containơ, thì chủ hàng phải giao cho người vận tải tại ga containơ và người vận tải tổ chức thu xếp containơ của nhiều chủ hàng rồi cấp vận đơn cho từng chủ hàng. Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty hàng hải. Cũng như các hàng hoá chuyên chở trên biển để tránh rủi ro tổn thất. Cần bảo hiểm hàng hoá đường biển, dùng loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. 6. Những yếu tố tác động đến nhập khẩu gia vị của các nước. - Cung và cầu là yếu tố quan trọng mà chủ yếu tác động đến xuất nhập khẩu của các nước. - Thị hiếu tiêu dùng gia vị của các thị trường tiêu thụ. Nhu cầu của các nước nhập khẩu cả các nước công nghiệp phát triển và đang phát triển về gia vị vẫn tăng, đây là cơ hội để các nước đẩy mạnh xuất khẩu… Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh13 - Các chính sách thương mại của các nước nhập khẩu trong đó đặc biệt là chính sách thuế và phi thuế quan : đối với hàng gia vị, là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của các nước đang phát triển và chậm phát triển và không cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm của các nước phát triển lên mức thuế quan nhìn chung không cao và nhiều gia vị xuất khẩu được miễn thuế. Nhưng do yêu cầu về vệ sinh, an toàn thực phẩm và môi trường rất cao, yêu cầu ngặt nghèo về điều kiện quy cách phẩm chất lên đã cản trở lớn tới xuất khẩu của các nước xuất khẩu… - Tính cạnh tranh và các kênh phân phối trên các thị trường nhập khẩu: Ví dụ : Thị trường gia vị Châu Âu có tính cạnh tranh rất cao và do các nhà chế biến, các nhà xay, nghiền lớn chi phối. Đối với một số phân đoạn thị trường phát triển nhanh, có cơ hội cho các nhà xuất khẩu các sản phẩm gia vị mà chất lượng đảm bảo độ tin cậy, đáp ứng được nhưng tiêu chuẩn ngặt nghèo của EU và đảm bảo giao hàng đều đặn. Rất lên sử dụng các nhà nhập khẩu, các đại lý hay môi giới, những người có thông tin tốt về xu hướng mới nhất của thị trường, biết cách trưng bày, giới thiệu sản phẩm nhằm thâm nhập thị trường thành công. - Giá cả, các điều kiện giao hàng và thanh toán. - Hoạt động quảng cáo xúc tiến xuất khẩu của các nhà xuất khẩu, phân phối… II. Tình hình sản xuất và xuất khẩu gia vị của Việt Nam. 1. Tình hình sản xuất và chế biến gia vị của Việt Nam. 1.1. Hạt tiêu * Sản xuất: Hạt tiêu đã được biết đến và dùng làm gia vị cách đây trên 3.000 năm. Các đặc tính của hạt tiêu đã khiến mặt hàng gia vị này không những trở thành một trong yếu tố cần thiết trong nghệ thuật ẩm thực của thế giới hiện đại ngày nay, mà còn được ứng dụng trong dược phẩm.ở nước ta, thời gian gần đây, cây hồ tiêu đang dần chiếm ưu thế trong mô hình kinh tế vườn trang trại vì lợi ích kinh tế mang lại cao hơn so với các loại cây trồng khác như: cà phê, điều, cao su (cao hơn 1,5 lần). Hiện hồ tiêu tập trung nhiều ở các tỉnh phía nam như: Bình Phước 8.246 ha; Đắc Lắc 8.000 ha; Bà Riạ- Vũng Tàu 4.720 ha; Gia Lai 2.000 ha; Đồng Lai 4.370 ha; Bình Thuận 1.730 ha; Quảng Trị 2.025 ha; Bình Dương 890 ha; Kiên Giang 898 ha; Tây Ninh 894 ha; Lâm Đồng 383 ha và một số tỉnh khác như: Quảng Bình, Phú Yên, Quảng ngãi, TP Hồ Chí Minh, Bình Định, Khánh Hoà, Kon Tum… cũng phát triển mạnh cây hồ tiêu, đưa tổng diện tích cây tiêu trong cả nước hiện lên 50.000 ha, một con số khá lớn. Tuy nhiên, ngành sản xuất hồ tiêu còn đang gặp nhiều khó khăn do người sản xuất đa số là các hộ nông dân nhỏ, vốn ít nên việc đầu tư chăm sóc cũng như bảo quản sau thu hoạch còn nhiều hạn chế. Dưới đây là kết quả cụ thể về sản xuất hạt tiêu. Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh14 Bảng số 4: Tình hình sản xuất hạt tiêu của Việt Nam thời kỳ 1996 – 2003 Đ/v: DT:1.000 ha; SL: 1.000 tấn Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Diện tích 7,4 9,8 12,8 17,6 27,9 36,1 47,8 50,0 Sản lượng 10,5 13,0 15,9 31,0 39,2 60,0 80,0 88,0 Nguồn: Tổng cục thống kê, 2001 - 2003 đánh giá của hiệp hội hồ tiêu VN * Chế biến : Hầu hết hạt tiêu sau khi thu hoạch từ người nông dân đều được phơi và cất giữ theo phương pháp truyền thống (phơi khô tự nhiên trong bóng râm) nên chất lượng không đều. Do vậy, sự đầu tư đồng bộ về sân phơi, máy sấy hoặc bảo quản đúng quy trình là rất cần thiết. Tuy nhiên, cho đến nay cũng chỉ có một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài và một vài công ty Việt Nam đầu tư vào thiết bị chế biến tiên tiến để sử lý hạt tiêu xô thành hạt tiêu có chất lượng cao với công xuất chỉ đảm bảo được khoảng 30% tổng sản lượng hạt tiêu xuất khẩu trong cả nước. Như vậy, đây đang là lĩnh vực bỏ ngỏ cho ngành hồ tiêu Việt Nam trong việc phát triển một ngành công nghiệp chế biến nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường cũng như sự đa dạng hoá các sản phẩm từ hạt tiêu. 1.2. Nhóm gia vị có chứa tinh dầu( quế, hồi, gừng, nghệ, ớt, tỏi ). * Sản xuất : Những năm 80 là thời kỳ nhóm hàng này phát triển mạnh về diện tích. Cả nước thời gian đó có sản lượng trên 10.000 tấn quế thanh (tập trung ở Yên Bái, Lạng Sơn và Quảng Nam – Quảng Ngãi ); 5.000 tấn hồi (chủ yếu ở Lạng Sơn, Quảng Ninh , Cao Bằng ); tỏi, gừng, nghệ được trồng nhiều tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là tỏi và ớt với sản lượng hàng chục ngàn tấn sấy khô. Nhưng từ năm 1990 trở lại đây, do thị trường tiêu thụ bị co hẹp, nên các loại cây gia vị trên đã bị thay thế bằng các loại cây khác. Những địa phương trước đây có vùng tập trung lớn về tỏi, ớt, nghệ như: Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, nay đã chuyển sang canh tác rau, củ vụ đông như cà chua, bắp cải, dưa chuột … * Chế biến : Nhóm hàng gia vị trên được xuất khẩu dưới dạng phơi, sấy khô (bột, thái lát hoặc nguyên quả như ớt). Công nghệ chế biến chủ yếu là thủ công theo phương pháp truyền thống. Do vậy, chất lượng chưa cao và không ổn định. Đây là điểm yếu khiến nhóm hàng này không có sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường, nhất là đối với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc. Chẳng hạn tỏi Việt Nam tuy thơm và hàm lượng tinh dầu cao hơn tỏi Trung Quốc 1,5 lần nhưng do củ bé, năng suất thấp, nhiều tép vụn nên khi chế biến, các lát tỏi hay bị vỡ vụn, màu sắc tối, giá thành cao gấp gần 2 lần tỏi Trung Quốc nên dần mất khách hàng( hiện tỏi lát sấy khô Trung Quốc giá thành 550USD/ tấn, VN là 900 - 1.000USD/ tấn). Tương tự, mặt hàng ớt Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh15 cũng vậy. ớt bột Trung Quốc màu sắc đỏ tươi, rất hấp dẫn và giá rẻ hơn ớt bột Việt Nam khoảng 15 - 20 USD/ tấn, trong khi ớt bột khô của Việt Nam thường có lẫn những sắc thẫm, xỉn màu và dễ mốc mặc dù giữ được độ cay đặc trưng nhưng khó hấp dẫn khách hàng. 2. Tình hình xuất khẩu gia vị của Việt Nam. 2.1. Khái quát chung tình hình xuất khẩu gia vị của Việt Nam. Việt Nam nằm trong số các nước sản xuất và xuất khẩu gia vị truyền thống của thế giới. Trong thời gian qua, với sự bùng nổ sản xuất hạt tiêu, Việt Nam đã trở thành một trong ba nước sản xuất và cung cấp hạt tiêu đen lớn nhất ra thị trường thế giới. Với tổng kim ngạch xuất khẩu các loại gia vị gồm: hạt tiêu đen, quế, hồi, gừng, nghệ những năm 1999 - 2000 ở mức 147- 158 triệu USD/ năm, Việt Nam đã là một trong những nước cung cấp gia vị chính của thế giới, nếu so với tổng kim ngạch xuất khẩu gia vị của thế giới là khoảng 2,3-2,6 tỷ USD/năm thì Việt Nam chiếm thị phần khoảng 6,0-6,3%. Còn nếu so sánh với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 11,54 tỷ USD (1999) và 14,45 tỷ USD (2000) thì xuất khẩu gia vị chiếm khoảng 1,3- 1,6%. Như vậy, lợi thế so sánh hiển thị của Việt Nam trong xuất khẩu gia vị là rất cao (4,6-5,5). Trong thời gian 1996 - 2000, xuất khẩu các gia vị chính của Việt Nam đã tăng từ 52,33 triệu USD lên 158 triệu USD tức là tăng gấp 3,3 lần, nhịp độ tăng xuất khẩu trung bình hàng năm đạt xấp xỉ 25% đưa tỷ trọng xuất khẩu của nhóm gia vị trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung của đất nước lên trên 1%. Tình hình cụ thể xuất khẩu gia vị của Việt Nam được thể hiện qua (Bảng số 5). Bảng số 5: xuất khẩu gia vị của Việt Nam thời kỳ 1996 - 2000 Đơn vị: 1000 USD Mã số HS Loại gia vị 1996 1997 1998 1999 2000 0904.11.00 Hạt tiêu đen 46.440,2 65.658,1 64.957,7 139.070,6 146.281.0 0906.10.00 Quế 3.639,9 4.415,4 3.760,6 4.493,7 5.253,0 0909.10.00 Hồi 1.829,7 1.741,8 306,3 1.981,9 6.761.8 0910.10.00 Gừng 415,0 558,1 540,3 1.597,6 206,1 0910.30.00 Nghệ 5,6 6,8 63,2 6,4 18,9 Tổng 5 loại gia vị 52.384,4 72.380,2 69.629,1 147.150,2 158.250,8 Nhịp độ tăng qua năm % - +38,2 -3,8 +111,3 +7,5 Tổng xk của Việt nam 7.225.950 9.185.000 9.360.300 11.540.000 14.488.677 Tỷ trọng (%) XK gia vị trong xuất khẩu chung 0,7 0,8 0,7 1,3 1,1 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam 1996 - 2000. Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh16 Cũng qua Bảng Số 5, chúng ta thấy xuất khẩu gia vị của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu hạt tiêu, tỷ trọng áp đảo (88 - 92%) và kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục hàng năm thời gian 1996 -2000 của hạt tiêu đã góp phần quyết định làm tăng xuất khẩu gia vị của Việt Nam thời gian qua. 2.2. Tình hình xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam. Việt Nam sản xuất tiêu đen là chủ yếu. Tiêu thụ nội địa chỉ 5-10% tổng sản lượng sản xuất hàng năm, trên 90% tham gia vào mậu dịch thế giới. Khối lượng xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam không ngừng tăng trong những năm qua: Năm 1998 cả nước xuất khẩu 15 ngàn tấn, chiếm khoảng 8% tổng khối lượng mậu dịch thế giới. Nhưng chỉ sau 3 năm (2001) khối lượng tiêu xuất khẩu đạt 57 ngàn tấn, chiếm 25% mậu dịch tiêu của thế giới, trở thành quốc gia đứng đầu về xuất khẩu hạt tiêu đen. Năm 2002 cả nước xuất khẩu 78 ngàn tấn, chiếm gần 30% tổng khối lượng mậu dịch thế giới; dự kiến đạt từ 80-100 ngàn tấn trong các năm 2003 - 2005. Bảng số 6: Kết quả xuất khẩu mặt hàng hồ tiêu thời kỳ 1996 - 2002 Đ/v: KL: 1.000 tấn; GT: triệu USD Các năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Khối lượng 25,3 24,7 15,1 34,8 37,0 57,0 78,2 Giá trị 46,7 67,2 64,5 137,3 145,9 91,2 109,3 Nguồn: 1996 - 2000 Tổng cục thống kê; 2001 - 2002 Tổng cục Hải quan Hiện có trên 30 quốc gia nhập khẩu sản phẩm hạt tiêu Việt Nam (theo Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, sản phẩm tiêu của nước ta đã đến với thị trường tiêu dùng của trên 70 nước trên thế giới). Ngoại trừ năm 1998, khối lượng xuất khẩu hạt tiêu tăng liên tục từ năm 1995 đến nay, nhanh nhất trong 4 năm 1999 - 2002, bình quân tăng 25%/ năm. Đặc biệt trong vài năm gần đây, khối lượng xuất khẩu trực tiếp tới các thị trường lớn và khó tính như Hoa Kỳ, EU tăng nhanh: Trước năm 2001 chỉ chiếm tới 10% tổng khối lượng tiêu xuất khẩu hàng năm, năm 2002 đạt trên 15%. Các nước có khối lượng nhập khẩu sản phẩm hạt tiêu của Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong năm vừa qua gồm Hoa Kỳ: 11,2 ngàn tấn (15%); Hà Lan: 10 ngàn tấn (13%); Singapore: 8,2 ngàn tấn (11%); CHLB Đức: 5,0 ngàn tấn (6,5%). Các tiểu Vương quốc ả rập thống nhất, Liên bang Nga, Trung Quốc nhập với khối lượng từ 2 đến trên 5 ngàn tấn. Dưới đây là cơ cấu của một số thị trường chính như (Bảng số 7). Giá xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam biến động theo giá thị trường thế giới. Theo tài liệu của tổng cục thống kê, thời kỳ năm 1996 - 2000 giá bình quân đạt 3.345,8 USD/tấn; cao nhất là năm 1998 với mức 4.272 USD/tấn. Năm 1999 - 2000 giảm xuống dưới 4.000 USD/tấn. Do áp lực cung tiếp tục Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh17 vượt cầu nên từ năm 2001 đến nay giá xuất khẩu hạt tiêu liên tục sụt giảm, từ 1.600 USD/tấn năm 2001 xuống dưới 1.400 USD/tấn trong năm 2002. Gía xuất khẩu biến động ảnh hưởng đến giá mua trong nước: năm 1998 giá 42-46 ngàn đồng/kg, lúc cao nhất năm 1999 lên trên 60-62 ngàn đồng/kg, nhưng cuối năm 2000 giảm xuống 37-38 ngàn đồng/kg. Năm 2001 giá nội địa chỉ xung quanh 23-25 ngàn đồng/kg và tiếp tục trượt xuống mức 20 ngàn đồng/kg trong năm 2002. Sáu tháng đầu năm 2003 giá mua hồ tiêu trong nước vào khoảng 1.800 đồng/kg và giá xuất khẩu chỉ trên dưới 1.350 USD/tấn (FOB). Bảng số 7: Thị trường xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam Đơn vị: KL: tấn; TG: triệu USD Năm 2001 Năm 2002 Các thị trường Khối lượng Trị giá Khối lượng Trị giá Bắc Mỹ 3.291 5,67 11.811 17,82 Châu âu 11.094 17,82 25.645 36,54 Châu á 29.020 45,34 27.066 36,38 Châu Phi và Nam Mỹ 3.399 6,40 2.906 4,07 Trung Đông 3.228 5,47 4.199 5,55 Các vùng khác 6.990 10,537 6.588 8,95 Tổng cộng 57.022 91,237 78.155 109,31 Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam Gần đây, một số địa phương vùng Đông Nam Bộ chế biến hạt tiêu trắng từ hạt tiêu đen đạt chất lượng khá, giá bán trong nước đạt trên 30 ngàn đồng/kg, giá xuất khẩu 2.300 - 2400 USD/tấn (FOB). Trong hoạt động xuất khẩu hạt tiêu, bước đầu các doanh nghiệp đã thiết lập được kênh xuất khẩu hạt tiêu vào một số thị trường có nhu cầu lớn, mở ra triển vọng phát triển sâu rộng hơn đối với thị trường hạt tiêu thế giới. 3. Những vấn đề tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu gia vị của Việt Nam. 3.1. Diện tích cây trồng không ổn định. Như đã phân tích ở trên, các loại cây gia vị hầu hết đều tăng giảm theo giá cả thị trường mà không có quy hoạch cũng như định hướng rõ ràng. Chẳng hạn, thời kỳ 1995 - 2000 hạt tiêu xuất khẩu rất được giá, nên đã kích thích việc phát triển diện tích cây hồ tiêu một cách ồ ạt (hiện 50.000 ha - đây là diện tích đến năm 2010 theo kế hoạch). Theo đó sản xuất và số lượng xuất khẩu cũng tăng mạnh. Nếu như năm 1998 Việt Nam mới xuất khẩu được 18.000 tấn hạt tiêu, thì đến năm 2002 nước ta đã xuất khẩu được 80.000 tấn, gấp hơn 4 lần, nhưng giá trị kim ngạch không tăng tương ứng do giá xuất khẩu giảm nhiều so với các năm 1995 - 1999. Về phía Nhà nước cũng muốn tăng sản xuất và xuất khẩu trong khi chưa tính kỹ về thị trường Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh18 và hiệu quả sản xuất. Do đó chưa kiểm soát chặt chẽ sự tăng trưởng diện tích trồng và lượng hạt tiêu xuất khẩu. 3.2. Thiếu dự báo chính xác về thị trường. Nước ta mới bước vào nền kinh tế thị trưòng nên cả nước, người nông dân và các nhà chế biến, kinh doanh đều chưa có kinh nghiệm và rất yếu trong công tác dự báo thị trường. Doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu thấy lãi là làm, sự nghiên cứu chiến lược lâu dài cho thi trường còn yếu. Về phía nông dân, phần lớn là sản xuất nhỏ, trình độ thông tin còn lạc hậu, tiếp xúc ít, gặp nhiều trở ngại trong tìm hiểu thị trường, nên nhiều khi họ phát triển sản xuất theo kiểu “phong trào”, thấy người khác làm thu lãi lớn là họ cũng làm theo, không tính đến hiệu quả lâu dài cũng như sự ổn định của mặt hàng đó. Ví dụ, từ năm 1998, hầu hết các nước sản xuất hồ tiêu đều tăng rất mạnh diện tích cây tiêu (trung bình từ 30 - 40%/năm). Người trồng tiêu Việt Nam hầu như không nắm được thông tin này, nên cùng thời gian này, diện tích trồng tiêu của ta cũng tăng nên quá nhanh. Kết quả là cung vượt cầu khá lớn (20-30%), và đương nhiên là giá bị giảm mạnh, gây thiệt hại cho người sản xuất và cả nhà xuất khẩu. 3.3. Chính sách bảo hiểm nông sản còn hạn chế. Nhóm hàng gia vị thuộc loại hàng nông sản ở Việt Nam, phụ thuộc nhiều vào diễn biến thời tiết và nhiều yếu tố khác nên những năm được mùa thì giá giảm, mất mùa thì giá tăng. Đặc biệt đối với hạt tiêu, rủi ro rất cao vì sự biến động giá rất lớn so với nhiều loại nông phẩm khác như gạo, hạt điều, cao su…trong khi thời gian qua, chính sách bảo hiểm cho ngành hàng hạt tiêu gần như bị lãng quên. Đây cũng chính là yếu tố khiến nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam e ngại, không dám gắn bó chặt chẽ với mặt hàng này. Qua khảo sát 4 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu trên 10 triệu USD/năm ở Hà nội, họ đều có chung một quan điểm: không đầu tư lớn vào nhóm hàng gia vị, nhất là hạt tiêu. Lý do là độ mạo hiểm cao, có thể thu lãi lớn nhưng cũng có thể mất nghiệp vì mặt hàng này. Chẳng hạn, khi mua vào gặp thời điểm giá thấp (khoảng 40.000 đồng/kg), lúc xuất khẩu được giá (khoảng 120.000 đồng/kg), lợi nhuận thu về lớn. Nếu ngược lại, thiệt hại lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng (tuỳ thuộc vào khối lượng hàng xuất đi), rất dễ bị trắng tay. Các doanh nghiệp đó cũng cho biết rằng, hạt tiêu là mặt hàng có thể dự trữ được do quy trình bảo quản không tốn kém và phức tạp như một số hàng nông sản khác như gạo, cà phê, nhưng ít ai dám làm. Nguyên nhân lại vẫn là giá cả tăng giảm thất thường với độ chênh lệch quá lớn (lên xuống từ 15-20 USD/tấn, thậm chí có thời điểm 100 - 200 USD/tấn, trong khi mặt hàng gạo xuất khẩu mức chênh lên xuống chỉ 2-3 USD/tấn). Trên thực tế, hiện các công ty bảo hiểm không mặn mà lắm với lĩnh vực sản xuất nông sản nói chung và hàng gia vị nói riêng. Tại Việt Nam, hiện chỉ có một công ty là Groupama (100% vốn nước ngoài, nhận giấy phép từ cuối năm 2001) kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.Nhưng phạm vi rủi ro được bảo hiểm cũng còn hạn Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh19 chế, chủ yếu là những rủi ro có thể kiểm soát được hoặc xảy ra với tần suất rất thấp. Nhìn chung, ở Việt Nam hiện chưa có quỹ bảo hiểm về năng suất cây trồng cũng như về giá các mặt hàng. Thời gian qua, Nhà nước đã có một số chính sách để bảo hiểm và trợ giá cho một số hàng nông sản nhưng mới tập trung vào các mặt hàng như gạo cà phê là hai mặt hàng được đánh giá có giá trị kim ngạch lớn, trực tiếp ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống của nhiều hộ nông dân. Còn mặt hàng hạt tiêu xuất khẩu, từ năm 2002 bắt đầu được hưởng chính sách xuất khẩu 100 đồng/1 USD. Nhưng theo các doanh nghiệp, mức thưởng này không đủ bù đắp sự thua lỗ khi giảm giá. Tuy nhiên theo thời gian, hạt tiêu đã trở thành một trong số 6 mặt hàng xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam (bao gồm: gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu và rau quả), đồng thời theo đề nghị của Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, ngày 20/5/2003, Bộ Tài chính đã có công văn đồng ý thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu hồ tiêu. Quỹ có tư cách pháp nhân, con dấu riêng và do Bộ tài chính quản lý. Đối tượng tham gia quỹ này có thể mở rộng ra các doanh nghiệp chưa phải là thành viên của hiệp hội. Mức thu phí tham gia được tính không quá 0,6% doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp, riêng năm 2003 là 0,25%. 3.4. Chưa có hợp đồng bao tiêu sản phẩm hoặc tính khả thi trong thực hiện hợp đồng còn thấp giữa người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu. Phần lớn việc mua các mặt hàng gia vị trong nước các doanh nghiệp đều thông qua các đầu mối tư nhân nên còn bị động nhiều về số lượng và giá cả. Hợp đồng có thể được ký kết, nhưng việc phá vỡ hợp đồng bị xảy ra thường xuyên do tác động của nhiều đối tác theo kiểu: ai trả giá cao hơn thì bán cho người đó. Phân tích rõ hơn biện pháp này thực sự chưa phát huy tác dụng trong sản xuất hàng xuất khẩu bởi 3 lý do. Thứ nhất là sản xuất hàng gia vị của Việt Nam còn khá manh mún. Để có đủ hàng hoá, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp phải ký hợp đồng và theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng của rất nhiều hộ nông dân, đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí. Thứ hai, doanh nghiệp chỉ có thể ký hợp đồng dài hạn với người sản xuất khi họ có đầu ra ổn định. Trong khi bối cảnh kinh doanh nhiều biến động như hiện nay, việc có đầu ra ổn định rất ít. Đã thế trên thực tế thường xảy ra chuyện người sản xuất (hộ nông dân) không thực hiện đúng theo hợp đồng đã cam kết, sản xuất hàng không đúng chất lượng, hoặc từ chối giao hàng cho doanh nghiệp để bán thẳng ra thị trường khi thấy giá cao hơn, bỏ qua những đầu tư đã nhận trước của doanh nghiệp như giống, cách thức chăm sóc, phân bón, khiến nhiều doanh nghiệp bị thua thiệt hàng trăm triệu đồng, và không có hàng để giao cho đối tác dẫn đến mất bạn hàng. 3.5. ở thế bị động trong hoạt động kinh doanh. Mặc dù là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu nhưng hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này còn bị phụ thuộc Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh20 nhiều vào biến động giá trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp xuất khẩu hạt tiêu Việt Nam về tổng thể chưa đủ sức chi phối thị trường quốc tế, không tạo được thế chủ động. Theo các doanh nghiệp kinh doanh hàng gia vị, nguyên nhân là do Việt Nam chủ yếu là xuất nguyên liệu thô, chưa xây dựng một thương hiệu riêng cho hàng gia vị Việt Nam, chưa có công nghiệp chế biến hạt tiêu tương xứng với tầm vóc của mình. 3.6. Thiếu các cơ sở chế biến. Mặc dù đã được sản xuất và xuất khẩu với số lượng lớn nhưng Việt Nam đang thiếu các cơ sở chế biến hàng gia vị, nhất là hạt tiêu lên chúng ta chỉ xuất khẩu nguyên liệu thô. Vài năm gần đây, Vinafimex (Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm) có quan hệ với một đối tác nước ngoài cho ra đời một cơ sở chế biến hạt tiêu sạch xuất khẩu, đã nâng được giá xuất khẩu lên 20% so với xuất thô, nhưng số lượng chưa nhiều (mới chiếm 30% tổng lượng hạt tiêu xuất khẩu hàng năm của nước ta). Một số doanh nghiệp phía Bắc cũng có ý tưởng tìm đối tác liên doanh nhằm xây dựng nhà máy chế biến hạt tiêu tại phía Nam cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu (tiêu xay) nhưng sau khi tìm hiểu họ cho rằng chi phí quá tốn kém, nhất là trong việc xây dựng thương hiệu cho mặt hàng mà hiệu quả cuối cùng khó đạt được (rủi ro nhiều), trong khi xuất khẩu nguyên liệu thô dễ hơn nhiều. Vì vậy, hiện trong thị trường nội địa, hạt tiêu xay đóng thành lọ nhỏ bán với giá rẻ (2.000 – 8.000 đồng/lọ) được bán khá chạy, nhưng là hàng của Trung Quốc. 4. Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, các nguy cơ và cơ hội xuất khẩu gia vị của Việt Nam. 4.1. Điểm mạnh: Về chất lượng: Hương vị tốt, có độ đậm, hiện có khoảng 20% lượng tiêu xuất khẩu đã đảm bảo chất lượng tiêu sạch của ASTA, Xuất khẩu sang EU và Mỹ. Về giá cả: Có sức cạnh tranh về giá so vối sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh do điều kiện canh tác thuận lợi, năng suất cao, giá thành sản xuất thấp (đặc biệt là hạt tiêu). Về phương thức thanh toán: Buôn bán chính ngạch thanh toán chủ yếu theo phương thức L/C nên đảm bảo chắc chắn trong việc thu tiền hàng, nhưng khối lượng buôn bán tiểu ngạch vẫn lớn và những rủi ro trong thanh toán tiền hàng còn lớn. Về phương thức kinh doanh: Đã mở rộng mạng lưới xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường châu Âu và Mỹ. Về các biện pháp và chính sách khuếch trương xuất khẩu: Đã có nhiều nỗ lực trong những năm qua của nhà nước và doanh nghiệp nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu... 4.2. Điểm yếu: Về chất lượng: không đồng đều, sản xuất phân tán, sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao chưa nhiều, còn nhiễm bẩn gia vị, dạng sản phẩm xuất Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh21 khẩu còn đơn giản, chưa có nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao xuất khẩu... Về giá cả: Giá cả xuất khẩu còn thấp so với giá quốc tế do chưa có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh và do cạnh tranh thiếu lành mạnh (tổ chức nguồn hàng, phương thức thu gom, bán hàng chưa tốt...) Về phương thức thanh toán: Do thiếu linh hoạt trong phương thức thanh toán và kinh doanh nên chưa xây dựng được quan hệ đối tác bền vững để mở rộng và thâm nhập mạnh mẽ hơn vào thị trường quốc tế. Về phương thức kinh doanh: Xuất khẩu chủ yếu vẫn qua trung gian nên hạn chế trong việc nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị trường để có biện pháp thích ứng sản phẩm và đảm bảo phát triển bền vững. Về các biện pháp và chính sách khuếch trương xuất khẩu: Kinh phí cho xúc tiến xuất khẩu của Nhà nước và doanh nghiệp còn hạn hẹp, năng lực và kỹ năng xúc tiến xuất khẩu và marketing xuất khẩu còn hạn chế. 4.3. Cơ hội: Thị trường gia vị thế giới còn có điều kiện mở rộng do ngành công nghiệp chế biến thực phẩm còn tiếp tục phát triển, đặc biệt thị trường các nước đang phát triển. Bên cạnh đó ngành dịch vụ nhà hàng và tiêu thụ gia đình vẫn tiếp tục tăng nhu cầu về gia vị. Việt Nam có lợi thế so sánh rất lớn trong sản xuất và xuất khẩu gia vị như tiêu, quế... Gia vị Việt Nam có điều kiện tăng cường thâm nhập thị trường các nước nhập khẩu gia vị lớn như Mỹ, EU, Nhật bản, Trung Đông, Trung quốc… nhờ tác động của việc tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Việc gia nhập Cộng đồng Hạt tiêu Quốc tế (IPC) hiện nay mà trong tương lai sẽ là Cộng đồng Gia vị Quốc tế sẽ giúp chúng ta tăng cường phối hợp với các nước sản xuất, xuất khẩu lớn khác để duy trì phát triển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gia vị của của Việt Nama.pdf
Tài liệu liên quan