Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi người lao động cần có những phẩm chất và

năng lực mới. Nhận thức điều này, SV Thành phố kịp thời chuyển hướng sự phấn đấu

của mình theo những yêu cầu mà xã hội đang đặt ra. Qua điều tra, chúng tôi thấy rằng

phần đông SV ý thức được những phẩm chất cần có ở người lao động Việt Nam hiện

nay. Đặc biệt, các phẩm chất sau đây được SV cho là rất quan trọng và quan trọng: giỏi

chuyên môn với 98,7% SV được điều tra đồng tình; trung thực, thẳng thắn, giữ chữ tín

với 99,3%; lương tâm, trách nhiệm (98,7%); thông minh, tháo vát (87%); tiết kiệm, quý

trọng thời gian (89,6%); có chí tiến thủ, khiêm tốn (88,6%); quan hệ xã hội rộng, có ý

thức hợp tác (82,6%); nhân ái, độ lượng (77,6%); bản lĩnh chính trị vững vàng, tin vào

Đảng, vào CNXH (75,7%); quan tâm đến năng suất, chất lượng, hiệu quả (91,4%); chủ

động, tự giác (94%); năng động, thích ứng nhanh với cơ chế mới (93,3%). Kết quả trên

cho thấy SV Thành phố có sự thích ứng, hòa đồng nhanh với cơ chế mới, hoàn cảnh

mới, có sự lựa chọn, chuyển đổi thích hợp.

pdf110 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7572 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, tự rèn luyện mỗi cá nhân cần phải biết dựa vào dư luận xã hội, sự góp ý của quần chúng để bản thân ngày càng hoàn thiện hơn. Với Hồ Chí Minh, giáo dục hình thành đạo đức, lối sống cho TN còn phải kết hợp chặt chẽ giữa xây với chống. Xây là xây dựng, đề ra những chuẩn mực, giá trị mới, tiến bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội để định hướng cho mọi người. Chống là tiêu trừ cái sai, cái ác, cái xấu là biểu hiện của tàn dư đạo đức, lối sống cũ còn rơi rớt và những tiêu cực mới phát sinh. Xây gắn liền với chống nhưng phải hướng vào xây và lấy xây làm chính. 1.4.4. Giáo dục bằng tập hợp thanh niên trong các tổ chức, đoàn thể Theo Hồ Chí Minh, giáo dục TN còn phải biết dựa vào sức mạnh của tổ chức, sức mạnh của tập thể. Người chủ trương đưa TN vào trong các tổ chức đoàn thể xã hội như: Đoàn TN, Hội TN; Hội SV, Hội phụ nữ … Thông qua hoạt động của các tổ chức này để giáo dục TN. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của Đoàn TN trong việc tập hợp, giáo dục, giác ngộ và rèn luyện thế hệ trẻ “Đoàn TN Lao động phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ TN và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản” [54, tr.21]. Muốn tập hợp rộng rãi, thu hút đông đảo TN thì mỗi đoàn viên phải gương mẫu, giữ vững đạo đức cách mạng, khiêm tốn, cần cù, hăng hái, dũng cảm. Phải tránh tư tưởng kiêu ngạo, công thần, tự tư tự lợi, xung phong trong mọi công việc để lôi cuốn TN. Tổ chức Đoàn các cấp phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của TN, “Phải nghiên cứu tìm ra nhiều hình thức và phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức TN một cách rộng rãi và vững chắc” [52, tr.263]. Nội dung giáo dục TN của các tổ chức Đoàn, Hội là định hướng chính trị và định hướng lối sống cho TN. Thông qua các phong trào cách mạng, các cuộc vận động, tổ chức Đoàn, Hội phải lôi kéo TN tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội, từng bước giác ngộ lý tưởng cách mạng cho TN, giúp TN không bị sa ngã về phía các thế lực thù địch. Đoàn, Hội cần phải tổ chức những hoạt động vui chơi có tính tập thể như: sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, hoạt động thể dục thể thao … vừa để đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của TN vừa hướng TN vào những sinh hoạt lành mạnh, bổ ích, tránh những tác động xấu từ phía xã hội. Tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là một hệ thống các quan điểm của Người về vai trò của TN và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; về nội dung và phương pháp giáo dục nhằm giúp TN hình thành những phẩm chất đạo đức mới, lối sống mới đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN sẽ góp phần quyết định đối với quá trình xây dựng đạo đức, lối sống cho TN nước ta nhằm tạo ra động lực và sức mạnh to lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chương 2 GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 2.1. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN VÀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1.1. Thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên Là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa … của khu vực phía Nam, Thành phố Hồ Chí Minh tập trung một số lượng lớn các trường đại học và cao đẳng. Tính đến năm 2004, trên toàn quốc có 230 trường đại học, cao đẳng thì riêng Thành phố này có 61 trường, chiếm tỷ lệ 26,52%; trong tổng số 1.319.754 SV hiện nay, có 334.797 SV ở Thành phố, chiếm 25,37% [64, tr.531; 533; 535]. Như vậy, Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm đào tạo bậc đại học, cao đẳng lớn của Việt Nam. Nghiên cứu về SV có thể tiếp cận nhiều mặt. Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi đề cập vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho SV trên cơ sở hiểu được thực trạng đạo đức, lối sống của tầng lớp này. Để đánh giá thực trạng đạo đức, lối sống SV Thành phố, chúng tôi dựa trên những cơ sở như sau: + Căn cứ vào nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho TN của Chủ tịch Hồ Chí Minh (nêu tại mục 1.3) và quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (nêu ở mục 2.2). + Kết hợp việc kế thừa, sử dụng thành quả nghiên cứu của các đề tài khác với kết quả nghiên cứu khảo sát cá nhân và phương pháp điều tra xã hội học. 2.1.1.1 Mặt tích cực trong đạo đức, lối sống của sinh viên Thành phố hiện nay Thứ nhất, sinh viên Thành phố có lòng yêu nước và tự hào dân tộc: Yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc là một trong những truyền thống văn hóa và đạo đức quý báu của dân tộc ta. Yêu nước ngày nay là yêu CNXH, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ra sức cống hiến nhằm xây dựng Việt Nam trở thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trên cơ sở nhận thức rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và cả dân tộc, mục tiêu của Đảng là đấu tranh cho độc lập của Tổ quốc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đưa đất nước đi lên CNXH, SV Thành phố luôn quan tâm đến Đảng, tin vào mục tiêu và đường lối đúng đắn sáng suốt của Đảng. Đa số SV ra sức phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng với mong muốn góp phần hiện thực hóa mục tiêu trên. Theo kết quả điều tra của Thành Đoàn vào tháng 12 năm 2004 thì có đến 67,1% SV Thành phố có nguyện vọng trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam [33, tr.117]. Số SV còn lại (32,9%) cho biết lý do không có nguyện vọng vào Đảng là do: tiêu chuẩn Đảng viên cao, bận lo học và lý do khác (xem biểu đồ 2.1). Biểu đồ 2.1: Lý do SV không có nguyện vọng vào Đảng [33, tr.118] 41.80% 10.40% 47.80% Lo hoïc Lyù do khaùc Tieâu chuaån Ñaûng vieân cao Việc SV cho rằng tiêu chuẩn Đảng viên cao, nhìn ở một góc độ khác cho thấy SV Thành phố đã có sự quan tâm, tìm hiểu và nắm được tiêu chuẩn trở thành Đảng viên. Đây là một tín hiệu đáng mừng vì SV không hoàn toàn thờ ơ với các vấn đề chính trị của đất nước. Tuy nhiên cũng cần khắc phục tâm lý ngại khó trong việc phấn đấu vào Đảng của SV. Cuộc khảo sát của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự. Có 227 trong tổng số 300 SV được điều tra, chiếm tỷ lệ 75,7%, đồng ý với quan điểm người lao động Việt Nam hiện nay cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin vào Đảng, vào CNXH. Hơn thế nữa, họ còn khẳng định đó là một trong những phẩm chất rất quan trọng. Lòng yêu nước và tự hào dân tộc của SV Thành phố còn biểu hiện ở sự quan tâm đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. So với các vấn đề khác như: thể thao, văn hóa, phim ảnh, thời trang, khoa học kỹ thuật, thì thời sự trong nước và quốc tế được nhiều SV chú ý khi đọc báo hoặc xem ti vi, nghe đài. Có 70,9% SV được hỏi cho rằng họ rất thường xuyên và thường xuyên theo dõi thời sự trong nước; 65,7% quan tâm đến thời sự quốc tế. Với câu hỏi “Bạn có tâm trạng gì khi thấy Việt Nam còn nghèo nàn, lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới?”, thì đại đa số SV cho rằng họ rất băn khoăn, tủi hổ, chỉ có rất ít không quan tâm (xem biểu đồ 2.2). Biểu đồ 2.2: Thái độ SV trước thực trạng còn nghèo nàn, lạc hậu của đất nước 3% 76.30% 12.30% 8.30% Baên khoaên Tuûi hoå Khoâng quan taâm Khoâng yù kieán Chính lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc làm cho đại bộ phận SV Thành phố (84,6%) lo âu, trăn trở trước thực trạng đất nước hiện nay. Điều này chứng tỏ SV không chỉ biết nghĩ đến tương lai của bản thân mà còn rất quan tâm đến các vấn đề chính trị – xã hội, vận mệnh của dân tộc. Họ ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình đối với Tổ quốc. Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc còn được biểu hiện bằng chính những hoạt động của SV Thành phố nhằm góp phần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, với những biểu hiện cụ thể như sau: + Họ thấy được vai trò quan trọng của việc học tập đối với việc mưu sinh lập nghiệp của bản thân và với việc cống hiến cho xã hội. Khi được hỏi “Mục đích học tập của bạn là gì?” thì có 70,3% SV cho rằng để tìm kiếm một việc làm có thu nhập cao; 34,3% cho rằng có bằng cấp để dễ tiến thân; 39,7% cho rằng để có khả năng cống hiến được nhiều hơn; 61% cho rằng để thích nghi theo kịp với sự phát triển của xã hội; 47,7% cho rằng để làm hài lòng bố mẹ, người thân và lý do khác là 11,3%. Nếu động cơ học tập của các thế hệ SV trước đây là vì lợi ích của đất nước, dân tộc, thì động cơ học tập của SV ngày nay có xu hướng nhắm đến lợi ích của bản thân nhiều hơn (70,3%), còn động cơ phục vụ, cống hiến cho xã hội có phần ít hơn (39,7%). Điều này có thể làm cho nhiều người không hài lòng bởi vì bao giờ họ cũng mong muốn thế hệ trẻ phải hướng vào mục tiêu lợi ích xã hội. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, nếu SV trang bị cho mình tri thức, tự bồi dưỡng những phẩm chất nhân cách để có nghề nghiệp ổn định nhằm đảm bảo cuộc sống cá nhân thì họ càng có khả năng cống hiến cho xã hội nhiều hơn. Và như vậy lợi ích quốc gia vẫn được đảm bảo trong khi đó lợi ích cá nhân cũng được đáp ứng. Nhìn chung, động cơ học tập của SV Thành phố là rất lành mạnh và luôn gắn với nhu cầu mưu sinh lập nghiệp. Thế nhưng mức chênh lệch hơn 30% giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng là khá lớn. Vì vậy, SV Thành phố cần có sự định hướng của giáo dục để xây dựng lối sống đúng đắn, luôn biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, góp phần đắc lực trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. + SV tích cực tình nguyện tham gia hoạt động vì cộng đồng. Từ nhận thức của mình về các vấn đề xã hội, những khó khăn của đất nước trong quá trình xây dựng CNXH, SV Thành phố hăng hái tham gia các hoạt động xã hội do các tổ chức Đoàn, Hội phát động như: hiến máu nhân đạo, mùa hè xanh, các ngày thứ bảy tình nguyện, các ngày chủ nhật xanh, cứu trợ đồng bào lũ lụt, chăm lo trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tiếp sức mùa thi … Con số 47,2% SV Thành phố có tham gia phong trào tình nguyện là khá ấn tượng, trong đó có 92% SV cho rằng việc tham gia phong trào xuất phát từ nguyện vọng muốn đóng góp công sức cho cộng đồng và xem đây là môi trường rèn luyện tốt nhất [33, tr.116]. Thứ hai, sinh viên Thành phố sống có mục đích, lý tưởng tốt đẹp: Mục đích, lý tưởng sống của SV Thành phố hiện nay là học tập, rèn luyện không chỉ vì tương lai của bản thân mà còn xuất phát từ mong muốn được góp một phần công sức vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Kết quả điều tra nhận thức của SV Thành phố về các vấn đề trong cuộc sống cho thấy: có 23,6% SV cho rằng giá trị xã hội quan trọng nhất là sống có lý tưởng, tiếp đến là giàu tri thức (15,2%), hòa bình (11,8%), công bằng (10,4%), sống có ích cho xã hội (8,5%). Điều này chứng tỏ SV Thành phố có nhận thức rõ và đúng đắn về những giá trị xã hội chân chính, thể hiện nhận thức chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đối với nhiều SV, sự nổi tiếng, giàu có và quyền lực không phải là những giá trị xã hội quan trọng nhất. Cho nên tỉ lệ SV được điều tra hướng tới các mục tiêu ấy thấp: chỉ 0,4% cho mục tiêu “sự nổi tiếng”, 2% cho “quyền lực” và 3,5% cho “giàu có” (xem bảng 2.1). Bảng 2.1: Giá trị xã hội quan trọng nhất mà SV lựa chọn [33, tr.120-121] Tiêu chí Số phiếu Tỷ lệ % / 9.284 phiếu Tỷ lệ % /7.879 phiếu Sống có lý tưởng 2.190 23,6 27,8 Hòa bình 1.094 11,8 13,9 Công bằng 970 10,4 12,3 Có ích cho xã hội 786 8,5 10,0 Nổi tiếng 34 0,4 0,4 Giàu có 328 3,5 4,2 Giàu tri thức 1.412 15,2 17,9 Dân chủ 482 5,2 6,1 Quyền lực cao 187 2,0 2,4 Sáng tạo 396 4,3 5,0 Tổng số trả lời 7.879 84,9 100,0 Không trả lời 1.405 15,1 Tổng số 9.284 100.0 Đa số SV Thành phố, chiếm 61,3% số SV được điều tra chọn tiêu chí giỏi chuyên môn là yếu tố quan trọng nhất để thuận lợi trong cuộc sống, tiếp theo là tính trung thực, chiếm 21,3% (xem biểu đồ 2.3) Biểu đồ 2.3: Yếu tố quan trọng nhất để thuận lợi trong cuộc sống [33, tr.121] 8.60% 21.30% 3.10% 61.30% Gioûi chuyeân moân Döïa vaøo ngöôøi coù theá löïc Coù nhieàu tieàn Trung thöïc Sự lựa chọn đó cho thấy SV không thờ ơ với cuộc sống và luôn mang hoài bão, khát khao được cống hiến cho xã hội, cho đất nước. Đây cũng chính là động cơ phấn đấu gia nhập vào tổ chức Đoàn, Đảng của SV. Trong 5 năm, Hội SV Thành phố đã giới thiệu 17.404 hội viên ưu tú để kết nạp vào tổ chức Đoàn, nâng tổng số hội viên là Đoàn viên lên 75.537 người. Số lượng SV vào Đoàn ngày càng tăng (xem biểu đồ 2.4). Biểu đồ 2.4: Hội viên được giới thiệu phát triển vào Đoàn trong SV [33, tr.90] 807 2076 2747 4238 7356 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 8000 1999-2000 2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004 Số SV được xét kết nạp vào Đảng cũng không ngừng gia tăng. Năm 2004 là 301 SV, tăng 52,94% so với năm 2003 [24, tr.43]. Một năm sau, con số đã lên tới 380 SV, tăng 26,2% so với năm 2004 [25, tr.31]. Nhìn chung, SV Thành phố đã biết hướng tới một lối sống tích cực, lành mạnh. Đó là lối sống có mục đích, có lý tưởng tốt đẹp phù hợp với xu thế chung của toàn xã hội. Mục đích và lý tưởng sống tích cực sẽ là đôi cánh nâng đỡ cho SV trên con đường phấn đấu, rèn luyện để trở thành những công dân hữu ích cho xã hội. Thứ ba, sinh viên đã nhận rõ vai trò của học vấn, của kiến thức chuyên môn nên ngày càng có ý thức chủ động, tích cực trong học tập, trong nghiên cứu khoa học vì ngày mai lập nghiệp. Ngày nay, khoa học công nghệ đang thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp và nòng cốt, là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế – xã hội. Nhận thức rõ điều này, SV Thành phố rất tích cực học tập, trau dồi kiến thức chuyên môn để lập thân, lập nghiệp và cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Ngoài giờ học trên lớp, SV còn dành một khoảng thời gian thỏa đáng cho việc tự học. Theo số liệu điều tra của chúng tôi, có 62 /300, chiếm tỷ lệ 20,7% SV được điều tra dành từ 10 –14 giờ/tuần cho việc tự học; thời gian tự học trên 15 giờ/ tuần thì có 71/300 SV, chiếm tỷ lệ 23,7%. Như vậy, có 44,4% SV có thời gian tự học trung bình trong ngày là 2 giờ. Bên cạnh việc trau dồi kiến thức chuyên môn, SV còn tự bổ sung những tri thức cần thiết khác như tin học, ngoại ngữ; có 58,5% SV Thành phố được điều tra cho rằng có học thêm tin học, ngoại ngữ. Đặc biệt, xuất hiện một số SV xuất sắc cùng trong khoảng thời gian ở đại học đã đạt được 2 hoặc 3 bằng cử nhân. Nhiều SV nghèo, hoàn cảnh khó khăn, đã vượt qua mọi trở ngại trở thành những tấm gương về ý chí quyết tâm và lòng hiếu học. Hàng năm có hàng chục gương mặt SV đạt kết quả cao trong học tập và rèn luyện được báo chí ca ngợi, xã hội quan tâm. SV cũng tích cực tham gia nghiên cứu khoa học từ cấp bộ môn, khoa, trường và cao hơn. Trong 5 năm qua (1999–2004), đã có 16.092 lượt SV tham gia nghiên cứu khoa học với 12.838 đề tài. Số lượt SV tham gia và số đề tài khoa học năm sau luôn cao hơn nhiều so với năm trước (xem biểu đồ 2.5). 913 839 1257 1137 2156 2526 3648 5098 4864 6492 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 1999-2000 2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004 Bieåu ñoà 2.5 : Nghieân cöùu khoa hoïc trong SV [33, tr.104] Soá ñeà taøi Soá löôït sinh vieân Chất lượng nghiên cứu khoa học của SV từng bước được nâng cao. Nhiều đề tài được xét trao giải SV nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Giải thưởng khoa học SV Euréka hoặc được các doanh nghiệp hỗ trợ, mua tác quyền đưa vào sản xuất. Có thể thấy phần lớn SV Thành phố đã ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với gia đình, quê hương, đất nước. Từ đó mà tích cực, chủ động phấn đấu vươn lên với mục tiêu rèn đức, luyện tài vì ngày mai lập nghiệp, vì tương lai của Tổ quốc. Thứ tư, sinh viên Thành phố thích nghi nhanh trước những chuyển đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, năng động, nhạy cảm trước cái mới, biết hướng mọi hoạt động về một tương lai tốt đẹp, tính tích cực xã hội ngày càng cao. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi người lao động cần có những phẩm chất và năng lực mới. Nhận thức điều này, SV Thành phố kịp thời chuyển hướng sự phấn đấu của mình theo những yêu cầu mà xã hội đang đặt ra. Qua điều tra, chúng tôi thấy rằng phần đông SV ý thức được những phẩm chất cần có ở người lao động Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, các phẩm chất sau đây được SV cho là rất quan trọng và quan trọng: giỏi chuyên môn với 98,7% SV được điều tra đồng tình; trung thực, thẳng thắn, giữ chữ tín với 99,3%; lương tâm, trách nhiệm (98,7%); thông minh, tháo vát (87%); tiết kiệm, quý trọng thời gian (89,6%); có chí tiến thủ, khiêm tốn (88,6%); quan hệ xã hội rộng, có ý thức hợp tác (82,6%); nhân ái, độ lượng (77,6%); bản lĩnh chính trị vững vàng, tin vào Đảng, vào CNXH (75,7%); quan tâm đến năng suất, chất lượng, hiệu quả (91,4%); chủ động, tự giác (94%); năng động, thích ứng nhanh với cơ chế mới (93,3%). Kết quả trên cho thấy SV Thành phố có sự thích ứng, hòa đồng nhanh với cơ chế mới, hoàn cảnh mới, có sự lựa chọn, chuyển đổi thích hợp. Phần lớn SV có những nhận thức đúng trong tình bạn và tình yêu. Có 82,7% SV được hỏi cho rằng tình bạn trong sáng, chân chính nhất thiết phải được xây dựng trên cơ sở hiểu biết, cảm thông, giúp đỡ nhau một cách vô tư không vụ lợi. SV không đồng ý với các quan niệm: yêu hiện đại là sống thoải mái không cần hôn nhân (76%); 73% không đồng tình với việc sống thử mà một số TN, SV đang vấp phải. Trong cuộc sống, SV còn biết quan tâm đến cộng đồng, tự giác tham gia các hoạt động xã hội. Năm học 2003 – 2004, ở Thành phố có 12.299 SV tình nguyện tham gia hiến máu nhân đạo, 39.586 SV tham gia chiến dịch tình nguyện “Mùa hè xanh” với 1.502.190 ngày công, 28.213 SV tham gia phong trào “Các ngày thứ bảy tình nguyện”, 24.043 SV tham gia phong trào “Các ngày chủ nhật xanh”, quyên góp được 151 triệu đồng cứu trợ đồng bào lũ lụt… [33, tr.95]. Điều này thể hiện SV Thành phố đang hướng tới xây dựng cho bản thân một lối sống cao đẹp, tiến bộ. Theo chúng tôi, các biểu hiện tích cực trong đạo đức, lối sống của SV Thành phố thời gian qua là kết quả của những nguyên nhân sau: + Học tập và sinh hoạt ở Thành phố Hồ Chí Minh, một trong hai trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn nhất cả nước, SV có được môi trường văn hóa, xã hội thuận lợi cho việc rèn luyện phát triển nhân cách. + Do gia đình, nhà trường và xã hội đã bước đầu ý thức được vai trò của mình và có sự quan tâm trong giáo dục con cái, học trò và công dân của mình. + Do có sự đầu tư, quan tâm của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Đoàn thể qua việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục đạo đức, lối sống với các hình thức phong phú như: triển lãm, chiếu phim tư liệu, hội diễn, hội thi văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao … trong SV, tạo ra các sân chơi lành mạnh, bổ ích, mang tính giáo dục cao giúp SV có được môi trường vừa chơi, vừa học, vừa rèn luyện, hòa nhập và tham gia các công việc có ích cho xã hội lẫn bản thân. + Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh nhất cả nước. Để có một việc làm với thu nhập ổn định trong một môi trường cạnh tranh gay gắt như ở Thành phố buộc SV không ngừng nỗ lực học tập, ra sức rèn luyện, hoàn thiện bản thân, vươn lên trong cuộc sống. + Do sự tự giáo dục, rèn luyện của bản thân SV ít nhiều có sự chuyển biến. Một bộ phận SV đã có ý thức tự giác cao và biết nghiêm khắc với bản thân mình. 2.1.1.2. Mặt hạn chế trong đạo đức, lối sống của sinh viên Thành phố hiện nay Bên cạnh những ưu điểm, tiến bộ, SV Thành phố cũng còn những hạn chế trong đạo đức, lối sống biểu hiện ở một số mặt sau: Thứ nhất, một bộ phận sinh viên có động cơ, thái độ học tập không đúng, vi phạm kỷ luật học tập, thiếu tôn trọng thầy cô. Hoạt động cơ bản của SV là học tập, mọi hoạt động khác đều phải xoay quanh cái trục đó. Thông qua học tập, chúng ta không chỉ đánh giá được năng lực mà còn thấy được cả phẩm chất, nhân cách của SV. Đối với SV lựa chọn ngành học đồng nghĩa với việc định cho mình một nghề nghiệp trong tương lai. Không ít SV ở Thành phố có những biểu hiện lệch lạc trong việc lựa chọn ngành nghề theo học. Thay vì phải xuất phát từ năng lực của bản thân và niềm say mê với công việc thì họ lại bị chi phối bởi những nguyên do hoặc động cơ khác, nhiều khi không phù hợp. Gần 50% SV cho rằng việc lựa chọn vào trường đại học và ngành học là do cha mẹ, người thân quyết định. Một số khác lại chọn những ngành mà sau khi ra trường dễ có việc làm, thu nhập cao. Điều đó được họ khái quát ngắn gọn theo thứ tự thu nhập cao thấp “nhất anh, nhì tin, tam kinh, tứ luật” tức thứ nhất là ngành anh văn, thứ hai là tin học, thứ ba là kinh tế, thứ tư là luật. Điều này phản ánh tâm lý muốn kiếm nhiều tiền, ham sung sướng, ngại khó, thiếu tự lập ở một bộ phận SV Thành phố. Trả lời câu hỏi “Mục đích học tập của bạn là gì?” có 70,3% SV lựa chọn đáp án để tìm kiếm việc làm có thu nhập cao trong khi chỉ có 39,7% cho rằng để cống hiến nhiều hơn cho xã hội. Việc SV quan tâm đến lợi ích cá nhân mình không phải là sai. Nhưng điều đáng nói ở đây là họ chưa ý thức được mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa cống hiến và hưởng thụ. Điều này trái với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Khi điều tra về những hạn chế của SV trong học tập, chúng tôi nhận thấy nổi lên một số vấn đề sau: + Một bộ phận không nhỏ SV có tinh thần thái độ học tập chưa đúng. Rõ nét nhất là hiện tượng đi muộn về sớm không có lý do trở nên khá phổ biến trong SV, chiếm đến 60,3% số phiếu được điều tra. Bỏ học không lý do chiếm 51%. Nói chuyện, ăn quà trong lớp học chiếm 43,3%. Làm việc riêng trong giờ học chiếm 59,3%. Thời gian dành cho việc tự học còn quá thấp, 29% SV cho rằng chỉ dành 4giờ/tuần cho việc tự học. Như vậy, bên cạnh số đông SV ra sức nỗ lực học tập vì tiền đồ của bản thân, của dân tộc thì vẫn có một bộ phận không nhỏ SV học tập có tính chất đối phó, lười nhác, không tận dụng thời gian để học hành, trau dồi tri thức. + Đa số SV đều thừa nhận có hành vi sai trái trong học tập, thi cử. Hiện tượng mua bán, xin điểm, giở sách, quay cóp, phô tô tài liệu làm phao trong những ngày thi đã trở thành tệ nạn. Có 8,7% SV khẳng định rằng hiện tượng mua bán, xin điểm là rất phổ biến ở trường của họ. Về quay cóp, có 42,7% SV thừa nhận là rất phổ biến, 53% SV cho rằng hiện tượng này có nhưng ít. Đáng nói là hiện tượng quay cóp, mua bán, xin điểm không chỉ xảy ra ở những SV học kém mà còn ở những SV học khá với mục đích kiếm điểm cao để có học bổng. Tìm hiểu thái độ của SV trước những biểu hiện tiêu cực trên của bạn bè mình, chúng tôi thu được kết quả như sau: 11,3% cho đó là chuyện bình thường mà ai cũng có thể mắc phải và 20,3% cho rằng khó trả lời. Điều này cho thấy một bộ phận SV không có đủ dũng khí để đấu tranh với các hành vi sai trái của bản thân và của bạn bè. + Một điều đáng quan tâm là số SV có những biểu hiện thiếu tôn trọng thầy cô giáo có chiều hướng gia tăng. Số liệu điều tra cho thấy có 13,3% SV cho rằng hiện tượng trên là khá phổ biến, 57% thừa nhận có nhưng ít. Một bộ phận SV cho rằng quan hệ thầy–trò chẳng qua chỉ là quá trình truyền đạt và tiếp nhận kiến thức. Theo tác giả Nguyễn Đức Minh vì đóng góp nhiều khoản học phí, chi phí … nên không ít phụ huynh và SV xem sự tiếp nhận tri thức chỉ là một quá trình mua bán [5, tr.78]. Quan niệm lệch lạc này đã tầm thường hóa tình cảm thiêng liêng trong quan hệ thầy trò, làm xói mòn đạo đức truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc. Thứ hai, còn một bộ phận sinh viên ở Thành phố chưa có ý chí phấn đấu, thờ ơ với các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng. Trong đội ngũ SV Thành phố vẫn còn những SV sống khép mình, xa rời tập thể, ngại tham gia các hoạt động xã hội, đoàn thể, thờ ơ với các diễn biến chính trị, xã hội của đất nước, lý tưởng cách mạng mờ nhạt. Số SV này trong quan hệ với bạn bè và những người xung quanh thường theo xu hướng bàng quan, không quan tâm, không hòa nhập với tập thể, trốn tránh trách nhiệm chung, chỉ tham gia những hoạt động gì có lợi cho bản thân mình. Theo kết quả điều tra của Thành Đoàn, có 2259/9284 SV không tham gia các hoạt động do Đoàn, Hội tổ chức, chiếm tỷ lệ 24,3%. Điều đáng nói là trong 24,3% SV không tham gia sinh hoạt Đoàn, Hội có 13,4% là Đoàn viên [33, tr.115]. Tìm hiểu lý do SV không tham gia hoạt động Đoàn, Hội thì tỷ lệ SV được điều tra nghiêng về các lý do là bận lo học, không thích, lo kiếm tiền … (xem bảng 2.2). Bảng 2.2: Lý do SV không tham gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf169_4346.pdf
Tài liệu liên quan