Luận văn Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

PHẦN MỞ ĐẦU 4

1. Tính cấp thiết của đề tài 4

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 6

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu. 7

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 8

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 9

6. Bố cục của Luận văn 9

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VĂN BẢN QPPL VÀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG 10

1.1 Khái niệm văn bản QPPL 10

1.2 Khái niệm văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành 14

1.2.1 Văn bản QPPL của chính quyền địa phương là sự cụ thể hóa các qui định của pháp luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên 15

1.2.2 Văn bản QPPL của chính quyền địa phương điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh ở địa phương 16

1.3 Thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản QPPL của chính quyền địa phương 17

1.4 Trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương 18

1.4.1 Trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân. 18

1.4.2 Trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của Ủy ban nhân dân 20

1.5 Hiệu lực văn bản QPPL của chính quyền địa phương 21

1.5.1 Hiệu lực văn bản QPPL của chính quyền địa phương theo thời gian 22

1.5.2 Hiệu lực văn bản QPPL của chính quyền địa phương theo không gian 24

1.5.3 Hiệu lực văn bản QPPL của chính quyền địa phương theo đối tượng áp dụng 25

1.6 Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành 26

1.6.1 Khái niệm chất lượng văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành 26

1.6.2 Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành 27

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VĂN BẢN QPPL VÀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 33

2.1 Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Hải Phòng. 33

2.2. Các văn bản của thành phố Hải Phòng quy định, hướng dẫn về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 35

2.3 Những thành tựu về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. 38

2.4 Những hạn chế của văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng 42

2.5 Nguyên nhân của những tồn tại trong văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng 45

2.5.1 Nguyên nhân khách quan: 46

2.5.2 Nguyên nhân chủ quan: 48

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VĂN BẢN QPPL VÀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 49

3.1 Tính cấp thiết của việc nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. 49

3.2 Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng 50

3.3 Một số giải pháp nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng 51

3.3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ và thống nhất 51

3.3.2 Đổi mới việc lập chương trình xây dựng văn bản QPPL 53

3.3.3 Đổi mới quy trình soạn thảo văn bản QPPL. 55

3.3.4 Đổi mới quy trình thẩm định văn bản QPPL của HĐND và UBND 56

3.3.5 Đổi mới quy trình lấy ý kiến, thông qua và công bố văn bản QPPL 58

3.3.6 Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tại các cấp chính quyền địa phương tại thành phố Hải Phòng. 59

3.3.7 Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý đối với văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL. 60

KẾT LUẬN 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64

 

 

doc66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4996 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự phân công, phân cấp hoạt động trong toàn bộ bộ máy nhà nước và khả năng giải quyết thực tế của từng cơ quan. Khi cơ quan nhà nước ban hành văn bản QPPL là cơ quan đó thực hiện quyền lực mà Nhà nước trao cho họ để tác động vào đối tượng khác trong xã hội bằng việc quy định cho các đối tượng những quyền và nghĩa vụ cụ thể, vì vậy nội dung văn bản không đúng hoặc vượt quá giới hạn thẩm quyền của cơ quan ban hành thì đó là văn bản trái thẩm quyền. Các văn bản được ban hành trái thẩm quyền có thể ảnh hưởng tới sự hài hòa, thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước, vi phạm tiêu chuẩn pháp lý và sẽ không có hiệu lực trên thực tế. Để văn bản QPPL được ban hành đúng thẩm quyền, cần chú ý bảo đảm cả hai phương diện về thẩm quyền là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức là thẩm quyền của các chủ thể trong việc ban hành những hình thức văn bản QPPL do pháp luật quy định. Việc tuân thủ thẩm quyền hình thức của văn bản QPPL là yếu tố đảm bảo để văn bản phát huy hiệu lực. Dưới góc độ tổ chức nhà nước, việc tuân thủ thẩm quyền hình thức của văn bản QPPL là minh chứng cho kỷ luật và kỷ cương hành chính, thể hiện tính pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước. Thẩm quyền nội dung là giới hạn quyền lực của các chủ thể trong quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy định. Về thực chất đó là “giới hạn của việc sử dụng quyền lực nhà nước mà pháp luật thực định đã đặt ra đối với từng cơ quan trong bộ máy nhà nước về mỗi loại công việc nhất định” [19, tr.71]. Đây chính là việc chủ thể có thẩm quyền chỉ được ban hành văn bản QPPL giải quyết công việc trong những lĩnh vực, phạm vi nào đó mà pháp luật quy định và không được ban hành ngoài phạm vi đó. Ban hành văn bản QPPL đúng thẩm quyền về nội dung phản ánh việc các chủ thể có thẩm quyền phải có trách nhiệm giải quyết công việc phát sinh trong phạm vi thẩm quyền, phạm vi không gian và phạm vi thời gian do pháp luật quy định, mà không giải quyết công việc thuộc phạm vi thẩm quyền của cơ quan khác. Việc tuân thủ thẩm quyền nội dung của văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành sẽ đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hộ phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương, với yêu cầu tác động đến đối tượng bị quản lý mà nhiều trường hợp văn bản QPPL của trung ương do chưa dự trù được hết mọi tình huống nên chưa quy định; Khía cạnh thứ hai của tiêu chuẩn này là văn bản QPPL phải có nội dung hợp pháp. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều văn bản QPPL có hiệu lực cao thấp khác nhau. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi nội dung của văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với nội dung của văn có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trong hoạt động ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương đây là yêu cầu đầu tiên bảo đảm cho văn bản ban hành hợp pháp. Nếu văn bản có nội dung trái với nội dung của văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn thì đó được coi là văn bản có nội dung trái với pháp luật. Như vậy, trong công tác ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương một đòi hỏi đặt ra là phải bảo đảm tính hợp pháp trong sự phù hợp với các văn bản khác do cơ quan trung ương ban hành; Khía cạnh thứ ba của tiêu chuẩn này là văn bản QPPL của chính quyền địa phương phải được ban hành đúng thủ tục. Trong hoạt động ban hành văn bản QPPL, những quy định về thủ tục, trình tự đóng vai trò quan trọng. Mục đích của các thủ tục này là phối hợp nhịp nhàng hoạt động của các cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật, đưa ra quy trình hợp lý cho hoạt động xây dựng văn bản và cuối cùng là tạo ra các văn bản QPPL có chất lượng cao. Ngoài ra, văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành phải có nội dung tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, kí kết. Yêu cầu này đòi hỏi các văn bản QPPL phải đảm bảo sự bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật khu vực và quốc tế. Sự tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết hoặc tham gia không chỉ đặt ra đối với các văn bản QPPL do chính quyền trung ương ban hành, mà còn đặt ra đối với các văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành. Đảm bảo tính hợp lý Thực tế cho thấy rằng, có nhiều văn bản QPPL không đi vào đời sống xã hội hay hiệu quả rất thấp. Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là do văn bản thiếu sự phù hợp với lĩnh vực mà nó điều chỉnh. Để đảm bảo tính khả thi, văn bản QPPL của chính quyền địa phương cần: Một là: phải phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội. Trong mọi trường hợp và ở mọi thời điểm, pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển kinh tế. Sự phù hợp của văn bản QPPL với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội là một điều kiện đảm bảo tính khả thi của văn bản QPPL. Do đó, để đảm bảo chất lượng văn bản QPPL của chính quyền địa phương, khi xác định nội dung của văn bản phải xuất phát từ điều kiện kinh tế, đời sống xã hội, tránh chủ quan, duy ý chí, xa rời thực tiễn; cần cân nhắc lựa chọn phương án có hiệu quả kinh tế cao; Hai là: phải phù hợp với văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc. Văn hóa, truyền thống là cốt cách của dân tộc. Vì vậy, các văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành phải phù hợp với văn hóa, truyền thống của dân tộc, phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương. Sự phù hợp của văn bản QPPL với văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc vừa nâng cao giá trị thực tế của văn bản QPPL, vừa đảm bảo kết quả điều chỉnh bền vững của văn bản QPPL, dễ dàng thiết lập và duy trì trật tự xã hội với sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân; Ba là: phải phù hợp với đối tượng tác động của văn bản QPPL. Với nội dung là các quy tắc xử sự chung, văn bản QPPL có đối tượng tác động được xác định một cách chung chung, trừu tượng. Do vậy, để văn bản QPPL của chính quyền địa phương có tính khả thi cao thì việc xác định đúng đối tượng tác động của văn bản là rất quan trọng. Bởi lẽ, pháp luật được thực hiện bằng chính hành vi của từng con người cụ thể thông qua nhận thức của các chủ thể đó. Văn bản QPPL có được tự giác thực hiện hay không phụ thuộc vào việc văn bản có phù hợp với mong muốn, nguyện vọng, có đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của họ hay không. Vì vậy, nội dung của bản QPPL cần phù hợp với điều kiện vật chất, tinh thần, độ tuổi, tâm sinh lý, trình độ nhận thức của người thi hành; Bốn là: phải phù hợp với cách thức trình bày. Để đảm bảo chất lượng của văn bản QPPL của chính quyền địa phương, HĐND và UBND khi ban hành văn bản QPPL cần phải chú ý đến cách thức trình bày theo quy định của pháp luật. Yêu cầu này được hình thành trên cơ sở xem xét văn bản QPPL từ góc độ kỹ thuật soạn thảo, coi văn bản QPPL là phương tiện quan trọng và chủ yếu để thể hiện ý chí nhà nước trong quản lý nên cần được soạn thảo với cách thức, kỹ thuật pháp lý phù hợp với trình độ chung của xã hội; Bên cạnh đó, việc sử dụng ngôn ngữ phải đảm bảo các yêu cầu là sử dụng tiếng Việt chuẩn, từ ngữ sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, không sử dụng khẩu ngữ địa phương, từ lóng, từ cổ…, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu; đối với thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung thì phải được giải thích trong văn bản. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng văn bản QPPL của chính quyền địa phương. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VĂN BẢN QPPL VÀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1 Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Hải Phòng Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm phía Đông miền Duyên hải Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 km, có diện tích là 1.519km2. Về ranh giới hành chính: Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; Phía Tây giáp tỉnh Hải Dương; Phía Nam giáp tỉnh Thái Bình; Phía Đông giáp biển Đông. Hải Phòng là một thành phố cảng và công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam, là đô thị loại 1 - thành phố trực thuộc trung ương, là đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Với lợi thế cảng nước sâu, phát triển vận tải biển tại Hải Phòng là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hải Phòng hiện nay bao gồm 15 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 7 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Đồ Sơn, Dương Kinh), 8 huyện (An Dương, An Lão, Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Thuỷ Nguyên, Vĩnh Bảo). Dân số thành phố là trên 1.837.000 người, trong đó số dân thành thị là trên 847.000 người và số dân ở nông thôn là trên 990.000 người. (theo số liệu điều tra dân số năm 2009). Mật độ dân số 1.207 người/km2. Kinh tế phát triển ổn định và liên tục tăng trưởng; Cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô kinh tế thành phố tiếp tục phát triển rõ nét; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tiên tiến; tiềm năng, lợi thế của thành phố cảng được khai thác, phát huy toàn diện và hiệu quả hơn; đang từng bước trở thành một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ của vùng Duyên hải Bắc bộ; tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong giai đoạn 2006- 2008 (bình quân tăng 12,76%/năm); từ năm 2009 đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng chậm hơn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, bình quân trong 5 năm đạt 11,32%; tuy không đạt mục tiêu Đại hội đề ra (12-13%/năm), song vẫn gấp 1,5 lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Nhiều chỉ tiêu đạt cao, về trước kế hoạch từ 1 đến 3 năm, như sản lượng hàng hoá thông qua cảng, thu ngân sách trên địa bàn, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Quy mô kinh tế tăng đáng kể so với năm 2005, GDP năm 2010 gấp 1,7 lần, GDP bình quân đầu người tăng 63,4% (năm 2010 đạt 1.742USD/người); tỷ trọng GDP (theo giá so sánh) trong GDP cả nước chiếm khoảng 4,4% (năm 2005 là 3,6%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiên tiến, tỷ trọng GDP của các nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng từ 87% năm 2005 lên 90% năm 2010 (trong đó dịch vụ tăng từ 50,8% lên 53%). Một số ngành, lĩnh vực kinh tế chủ lực, nhiều lợi thế phát triển nhanh, có thêm sản phẩm mới. Hải Phòng là một thành phố lớn của cả nước, đang trong quá trình chuyển mình để thành một thành phố công nghiệp, các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra sôi động. Để điều hành và quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội, các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng đã thực hiện việc đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản pháp luật của các cơ quan trung trung ương vào đời sống xã hội. Tuy nhiên, các văn bản QPPL của các cơ quan trung ương ban hành ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội chung nhất trên toàn quốc nên không thể điều chỉnh hết tất cả các quan hệ xã hội ở thành phố Hải Phòng. Chính vì thế hoạt động xây dựng pháp luật của các cấp chính quyền ở thành phố Hải Phòng là rất cần thiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội rất đặc trưng của địa phương. 2.2. Các văn bản của thành phố Hải Phòng quy định, hướng dẫn về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật Ở thành phố: Trong những năm qua, văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL ở thành phố Hải Phòng dần đi vào nề nếp, đáp ứng các yêu cầu quản lý của địa phương và thực tiễn cuộc sống. Có được những kết quả đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp của UBND thành phố thể hiện qua việc UBND thành phố đã ban hành các văn bản về công tác văn bản QPPL và hoàn thiện thể chế trong công tác văn bản QPPL, tạo cơ sở pháp lý cho công tác văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. Từ khi chưa có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Ngay từ năm 1993, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 947/QĐ-UB ngày 24-4-1993 ban hành Quy chế quản lý thống nhất việc ban hành văn bản pháp quy ở thành phố. Đến năm 2003, để đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới; Uỷ ban nhân dân thành phố đã ra Quyết định số 2456/QĐ-UB ngày 08-10-2003 ban hành Quy chế quản lý thống nhất việc xây dựng, thẩm định, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở thành phố. Quy chế quy định rõ các bước trong việc ban hành văn bản QPPL gồm: việc lập chương trình xây dựng văn bản QPPL của UBND thành phố, các bước để tiến hành soạn thảo, việc lấy ý kiến tham gia vào dự thảo văn bản QPPL, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thẩm định, quy định về phạm vi, thời hạn thẩm định, quy định về thủ tục thông qua và ban hành văn bản QPPL. Triển khai thi hành Luật ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14-11-2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định 122/2004/NĐ-CP ngày 18-5-2004 của Chính phủ về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế của các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các văn bản hướng dẫn thi hành; trên cơ sở đề nghị của Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành: - Quyết định số 2553/2006/QĐ-UB ngày 28-11-2006, về việc ban hành Quy chế xây dựng, thẩm định, ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng. Quy chế quy định những bước trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL của UBND thành phố bao gồm: Việc lập chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị; các bước của quy trình soạn thảo; việc lấy ý kiến vào dự thảo; quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thẩm định, quy định về phạm vi, thời hạn thẩm định, quy định về thủ tục thông qua và ban hành văn bản QPPL; quy định về trình tự kiểm tra và các hình thức xử lý văn bản QPPL; - Quyết định 1805/2006/QĐ-UBND ngày 14-8-2006 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế ở các Sở, Ban, Ngành ở thành phố. Quyết định này quy định nhiệm vụ quyền hạn của các Sở, Ban, Ngành trong công tác xây dựng pháp luật; trong công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; trong công tác kiểm tra văn bản QPPL; quy định về trách nhiệm của giám đốc Sở Tư pháp, giám đốc Sở Nội vụ và giám đốc các Sở, Ban, Ngành khác; - Quyết định 2482/2007/QĐ-UBND ngày 13-12-2007 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Cộng tác viên kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thành phố Hải Phòng. Đồng thời với việc ban hành các Quyết định, để triển khai có hiệu quả và thống nhất trên toàn thành phố, trong từng giai đoạn, từng thời kỳ Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành các Chỉ thị để chỉ đạo việc triển khai thi hành công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật đối với các cấp, các ngành, cụ thể là: - Chỉ thị số 17/CT-UB ngày 23-11-2004 về việc tăng cường công tác xây dựng, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn thành phố; - Chỉ thị số 11/CT-UB ngày 25-5-2005 về việc triển khai thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên địa bàn thành phố Hải Phòng.[28,tr1,tr2] Ở các quận, huyện: Thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố và hướng dẫn nghiệp vụ của Sở Tư pháp, các quận, huyện trên địa bàn thành phố trong từng giai đoạn cụ thể đã ban hành các chỉ thị về công tác soạn thảo, ban hành; kiểm tra, xử lý và rà soát hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật; có nhiều huyện, quận đã ban hành quy chế trong việc quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn như: quận Hồng Bàng; quận Ngô Quyền; quận Hải An; huyện Thuỷ Nguyên; huyện Vĩnh Bảo; huyện Tiên Lãng; huyện An Lão... [28, tr 3] Ở các xã, phường, thị trấn: Trong công tác này các xã, phường, thị trấn chủ yếu triển khai thực hiện các văn bản do thành phố và các quận, huyện ban hành. Do đó, cấp xã hầu như không ban hành các văn bản liên quan đến công tác văn bản QPPL. Tóm lại, trong thời gian qua, thành phố Hải Phòng đã ban hành khá đầy đủ các văn bản trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế trong công tác soạn thảo, ban hành văn bản QPPL; đồng thời cũng kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các văn bản của Trung ương. 2.3 Những thành tựu về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng Nhìn chung văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương tại Hải Phòng ngày càng được quan tâm và có những bước phát triển mới, tiến bộ hơn rất nhiều. Số lượng văn bản quy phạm do HĐND và UBND ban hành trong thời gian qua tăng cả về số lượng và chất lượng, điều này chứng tỏ các ngành, các cấp ở Hải phòng đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật, coi văn bản QPPL là công cụ quan trọng không thể thiếu trong quản lý, điều hành. Những văn bản này đã góp phần tạo nên một hệ thống văn bản QPPL khá ổn định ở Hải Phòng, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những văn bản này, cùng với các quy định của pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở Trung ương ban hành đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đánh giá một cách toàn diện, văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại Hải Phòng trong thời gian qua đã đạt được một số thành tựu sau: Một là: Các văn bản QPPL đã được ban hành kịp thời để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của cấp ủy trong việc hướng dẫn áp dụng các Luật, Pháp lệnh và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND phù hợp với tình hình, đặc điểm và yêu cầu chính trị của thành phố Hải Phòng. Ban hành những văn bản QPPL quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước ở Hải Phòng. Trong năm 2009, HĐND, UBND thành phố đã ban hành l26 văn bản; HĐND, UBND cấp huyện đã ban hành 380 văn bản. Trong năm 2010, HĐND , UBND thành phố ban hành 24 văn bản; HĐND, UBND cấp huyện ban hành 400 văn bản.[27, tr2,tr3] Hai là: Chất lượng văn bản QPPL ngày càng được nâng cao, nhất là đối với các văn bản do HĐND và UBND thành phố ban hành. Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với văn bản QPPL khác do chủ thể cùng cấp ban hành hoặc có nội dung không phù hợp với tình hình thực tế của địa phương ngày càng giảm và được chú ý khắc phục. Các văn bản đã ban hành về cơ bản đáp ứng được yêu cầu về hình thức. Tình trạng văn bản QPPL ban hành bằng hình thức không do luật định, trái thẩm quyền, không có chữ ký của người có thẩm quyền, không có dấu, không vào sổ, không đánh số, không đề ngày, tháng, năm, ban hành về cơ bản đã được khắc phục một cách rõ rệt. Ba là: Công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại thành phố Hải Phòng được quan tâm đúng mức. Qua thực hiện công tác này đã phát hiện kịp thời những văn bản mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực để trình cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ. Chính việc kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa kịp thời mà chất lượng văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng ngày càng được nâng cao. Bốn là: Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản QPPL của chính quyền thành phố thời gian gần đây đã có những chuyển biến rõ rệt. Nếu như trước đây, công tác xây dựng và ban hành văn bản QPPL của chính quyền thành phố không theo kế hoạch, tùy tiện, thiếu chủ động, chủ yếu là để giải quyết những trường hợp phát sinh từ thực tiễn. Thì nay, việc việc xây dựng và ban hành văn bản QPPL đã được thực hiện theo kế hoạch. Kế hoạch xây dựng văn bản QPPL đã trở thành cơ sở bảo đảm tiến độ và chất lượng xây dựng văn bản QPPL, làm cho công tác này thực hiện có sự chủ động về thời gian, bố trí lực lượng, phối hợp và kinh phí phục vụ cho công tác soạn thảo văn bản. Kế hoạch được xây dựng dựa trên cơ sở xem xét nhu cầu quản lý, thực trạng kinh tế, xã hội và từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL của chính quyền địa phương. Ngoài ra, chương trình này còn được xây dựng trên cơ sở để đảm bảo thực hiện luật, pháp lệnh, và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, căn cứ vào chương trình pháp triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu quản lý ở địa phương. Qua đó, quản lý được kế hoạch, tiến độ xây dựng văn bản và bảo đảm cho hoạt động này phù hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương; đồng thời khắc phục được tình trạng tùy tiện trong việc ban hành văn bản QPPL; từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn bản QPPL, bảo đảm tính đồng bộ, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật nói chung. Ngay từ tháng 11 của năm trước, văn phòng UBND thành phố đã đôn đốc các Sở, Ban, Ngành thành phố lập dự kiến kế hoạch xây dựng văn bản, và tổng hợp xây dựng dự thảo kế hoạch ban hành văn bản QPPL, trình UBND thành phố xem xét, quyết định. Ở cấp huyện và cấp xã tuy việc xây dựng văn bản QPPL không được xây dựng thành một kế hoạch riêng, nhưng cũng đã được lồng ghép vào chương trình công tác của UBND cấp huyện và UBND cấp xã và được các cấp chính quyền tại đây quan tâm thực hiện. [28,tr1,tr2] Năm là: Hoạt động ban hành văn bản QPPL tại Hải Phòng luôn được các cấp chính quyền quan tâm. Đặc biệt, từ năm 2004 trở lại đây sau khi có Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND có hiệu lực thi hành, công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL của thành phố đã được lãnh đạo thành phố quan tâm, chú trọng hơn, việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UNBD thành phố được thực hiện quy củ và đi vào nề nếp. Trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản QPPL đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật hiện hành. Nghị quyết của HĐND thường được giao cho UBND cùng cấp chủ trì soạn thảo, tiến hành đúng các bước theo quy định của Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND. Việc dự thảo văn bản QPPL được thực hiện trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương liên quan đến dự thảo; nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và thông tin, tư liệu có liên quan đến dự thảo. Việc lấy ý kiến vào dự thảo văn bản QPPL cũng được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng pháp luật. Các cơ quan, tổ chức có liên quan được cơ quan chủ trì soạn thảo gửi dự thảo đến để xin ý kiến. Các cơ quan này, sau khi nhận được dự thảo, tổ chức lấy ý kiến cán bộ công chức, đơn vị thành viên vào dự thảo, tổng hợp thành những ý kiến chung nhất gửi về cơ quan chủ trì soạn thảo. Sáu là: Hoạt động thẩm định của cơ quan tư pháp và thẩm tra của các Ban HĐND ngày càng được quan tâm tại Hải Phòng. Hồ sơ thẩm định, thẩm tra dự thảo các văn bản QPPL tại các phiên họp của cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản được thực hiện đúng theo quy định tại Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND. Ý kiến thẩm định của các cơ quan tư pháp được UBND thành phố đánh giá cao (năm 2005 số văn bản thẩm định là 19/80 văn bản đạt tỷ lệ 23,7%; năm 2006 số văn bản được thẩm định là 52/97 đạt tỷ lệ 53,6%; năm 2007 số văn bản được thẩm định là 53/65 văn bản đạt tỷ lệ 81,5%; năm 2008 số văn bản được thẩm định là 42/58 văn bản đạt tỷ lệ 72,4% ). Đặc biệt, từ năm 2005 đến nay, trong số những văn bản đã thẩm định, Sở Tư pháp đã đề nghị UBND thành phố không ban hành 07 dự thảo văn bản QPPL và đều được UBND thành phố chấp nhận. [28,tr3] Bảy là: Thực hiện đúng quy định tại Điều 8 của Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND, văn bản QPPL do chính quyền thành phố ban hành sau khi thông qua hoặc ký ban hành đều được đăng tải công khai trên cổng thông tin điện tử của thành phố (trang haiphong.gov.vn), hoặc được cập nhật, in ấn thành cuốn Công báo của UBND thành phố và được phát hành tới tận chính quyền cơ sở để chuyển tải, thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan công quyền, tại bộ phận một cửa giải quyết các thủ tục hành chính theo yêu cầu của công dân, tổ chức. Những chuyển biến tích cực và hiệu quả đạt được trong công tác ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền thành phố Hải Phòng thời gian qua có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan. Các văn bản được ban hành cùng với hệ thống các văn bản QPPL của Trung ương đã trở thành công cụ đắc lực, hữu hiệu cho sự nghiệp xây dựng, phát triển Hải Phòng, đóng góp nhiều bài học kinh nghiệm cho Trung ương, các tỉnh thành phố khác của cả nước trong bối cảnh đất nước chúng ta đang tiếp tục con đường đổi mới, hội nhập sâu với thế giới. 2.4 Những hạn chế của văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng Trong thời gian vừa qua, việc xây dựng hệ thống các văn bản QPPL của Hải Phòng đã đạt được nhiều kết quả. Một khối lượng lớn các văn bản QPPL, nhất là trong lĩnh vực xây dựng thể chế kinh tế thị trường đã được ban hành. Các văn bản QPPL đã bao quát một phạm vi rộng lớn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Quy trình xây dựng được thực hiện đúng luật và dân chủ hơn. Chất lượng các văn bản được nâng cao hơn. Những kết quả đã đạt được trong việc xâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVăn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng.doc
Tài liệu liên quan