Luận văn Xác định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái Móng Cái sinh sản tại công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp Hải Phòng

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

2.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh học, sinh lý, sinh dục của lợn Móng Cái

2.1.1. Nguồn gốc

Là một giống lợn quý ở nước ta, thuộc lớp động vật có vú Maminalia, nằm trong bộ guốc chẵn Artiodactyla, thuộc họ Sllidae, chủng Sus và thuộc loài Sus domesticus. Là giống lợn phổ biến nhất ở Việt Nam, có nguồn gốc từ huyện Hà Cối nay thuộc huyện Đầm Hà và Móng Cái tỉnh Quảng Ninh.

2.1.2. Đặc điểm sinh học

Hình dáng của gống lợn Móng Cái khá đặc trưng của một giống lợn địa phương. Mình ngắn, cổ ngắn, tai nhỏ, chân nhỏ và ngắn, lưng võng, bụng xệ. Do hai đặc tính lưng võng và chân lùn nên gần như toàn bộ bụng đặc biệt là lợn nái luôn sa xuống mặt đất.

Mằu sắc da lông của lợn Móng Cái đen toàn bộ cơ thể. Trên nền đen ấy có một đốm trắng hình tam giác hoặc hình thoi nằm giữa trán, mõm trắng, cuối đuôi có chòm lông trắng, bụng và 4 chân trắng. đặc biệt có một khoang trắng nối giữa hai bên hông với nhau vắt qua lưng trông giống như cái "Yên Ngựa" là nét đặc trưng nhất về màu sắc của lợn Móng Cái.

Giống lợn Móng Cái thường có từ 10 - 16 vú xếp thành 2 dãy đều nhau, song song với nhau trên hai bên bẹ bụng. Hầu như không có cá thể nào của giống lợn Móng Cái có số vú lẻ. Giống lợn Móng Cái có khả năng sinh sản tốt, đẻ nhiều con nhất trong các giống lợn nội Việt Nam. Sức đề kháng của giống lợn Móng Cái rất cao, trong quá trình chăn nuôi hầu như ít bị mắc bệnh.

2.1.3. Tuổi thành thục về tính

Tuổi thành thục về tính là tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả năng sinh sản. Ở gia súc, tuổi thành thục về tính có các biểu hiện như sau:

Bộ máy sinh dục đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, con cái rụng trứng, con đực sinh tinh. Tinh trùng và trứng gặp nhau có khả năng thụ tinh. Các đặc tính sinh dục thứ cấp bắt đầu xuất hiện. Xuất hiện các phản xạ sinh dục: Con cái động dục, con đực có phản xạ giao phối.

Nói cách khác thành thục về tính của gia súc cái được đánh giá bằng hiện tượng động dục và rụng trứng. Lợn cái sau khi thành thục về tính thì biểu hiện động dục, lần thứ nhất thường không rõ ràng và tiếp sau đó ở các kỳ sau sẽ dần đi vào quy luật.

Tùy thuộc vào loại gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về tính khác nhau. Tuổi thành thục về tính của lợn cái khoảng 6 tháng,dao động từ 5 - 8 tháng tuổi. Lợn cái nội thành thục sớm hơn lợn cái ngoại.

Mặt khác tuổi thành thục về tính sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc, cho nên để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường của cơ thể mẹ, đảm bảo sự sinh trưởng và phẩm chất giống ở thế hệ sau thì ta nên cho gia súc phối giống khi chúng đã thành thục về thể vóc. Với lợn cái hậu bị thường cho phối giống lần đầu lúc 8 tháng tuổi. Tuy nhiên không cho lợn phối quá muộn vì sẽ ảnh hưởng tới hoạt động sinh sản của con cái và ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của một đời lợn nái. Tuổi phối giống lần đầu của lợn nái ngoại thường vào lúc 8 tháng tuổi và khối lượng đạt 100 - 110kg. Trong thực tế sản xuất thường bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục đầu và bắt đầu phối ở chu kỳ động dục thứ 3.

 

doc56 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 6044 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xác định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái Móng Cái sinh sản tại công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Trong quá trình đổi mới của đất nước, nền nông nghiệp nước ta đang được chú trọng phát triển để đạt được mục tiêu có nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, đạt hiệu quả kinh tế cao. Ngành chăn nuôi lợn là ngành sản xuất quan trọng của nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam thịt lợn chiếm 70 - 75% trong tổng số thịt cung cấp trên thị trường. Ngành chăn nuôi của nước ta gần đây có chiều hướng phát triển mạnh cả về số đầu con và năng suất đàn lợn. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về chất lượng và phẩm chất thịt ngày càng tăng, nhiều giống lợn ngoại cho năng suất cao đã được nhập vào Việt Nam làm tăng chất lượng thịt nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Tuy nhiên không phải mọi cơ sở sản xuất đều có điều kiện chăn nuôi các giống lợn ngoại vì điều kiện kinh tế còn hạn chế nhất là đối với các hộ gia đình. Để khắc phục những khó khăn này chúng ta đã sử dụng những giống lợn nội trong đó có lợn Móng Cái để làm nái nền lai tạo với các giống lợn ngoại nhằm tận dụng ưu thế lai của các giống lợn nội. Để đáp ứng nhu cầu trên của các cơ sở sản xuất kinh doanh nước ta đã có những trang trại chăn nuôi lợn nội nhằm cung cấp cho thị trường những giống lợn Móng Cái chất lượng cao và duy trì nguồn giống và quỹ Gen cho Quốc gia. Do đó việc chăn nuôi lợn nái Móng Cái là vấn đề rất quan trọng. Một trong những trại chăn nuôi đó là trại chăn nuôi lợn Móng Cái thuộc công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp Hải Phòng. Đây là cơ sở sản xuất và lưu giữ giống lợn Móng Cái cung cấp giống cho địa phương và các tỉnh thành trong cả nước. Giống lợn Móng Cái là giống lợn nội lâu đời có ưu thề là khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu Việt Nam, mắn đẻ, đẻ sai và nuôi con khéo do đó chúng ta có thể tận dụng làm nái nền cho quá trình lai tạo, tận dụng ưu thế lai. Để việc chăn nuôi đạt hiệu quả cao, chúng ta phải tiến hành hạch toán kinh tế, đánh giá việc sử dụng các yếu tố kinh tế vào sản xuất kinh doanh xem đã đạt được hiệu quả hay chưa. Từ đó chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xác định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái Móng Cái sinh sản tại công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp Hải Phòng” 1.2. Mục đích của đề tài - Xác định được các chỉ tiêu kinh tế về sinh sản của lợn nái Móng Cái. - Điều tra và đánh giá các khoản chi phí từ chăn nuôi lợn nái Móng Cái. - Điều tra và đánh giá các khoản thu từ chăn nuôi lợn nái Móng Cái. - Xác định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái Móng Cái sinh sản. - Từ đó đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái Móng Cái. PHẦN 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh học, sinh lý, sinh dục của lợn Móng Cái 2.1.1. Nguồn gốc Là một giống lợn quý ở nước ta, thuộc lớp động vật có vú Maminalia, nằm trong bộ guốc chẵn Artiodactyla, thuộc họ Sllidae, chủng Sus và thuộc loài Sus domesticus. Là giống lợn phổ biến nhất ở Việt Nam, có nguồn gốc từ huyện Hà Cối nay thuộc huyện Đầm Hà và Móng Cái tỉnh Quảng Ninh. 2.1.2. Đặc điểm sinh học Hình dáng của gống lợn Móng Cái khá đặc trưng của một giống lợn địa phương. Mình ngắn, cổ ngắn, tai nhỏ, chân nhỏ và ngắn, lưng võng, bụng xệ. Do hai đặc tính lưng võng và chân lùn nên gần như toàn bộ bụng đặc biệt là lợn nái luôn sa xuống mặt đất. Mằu sắc da lông của lợn Móng Cái đen toàn bộ cơ thể. Trên nền đen ấy có một đốm trắng hình tam giác hoặc hình thoi nằm giữa trán, mõm trắng, cuối đuôi có chòm lông trắng, bụng và 4 chân trắng. đặc biệt có một khoang trắng nối giữa hai bên hông với nhau vắt qua lưng trông giống như cái "Yên Ngựa" là nét đặc trưng nhất về màu sắc của lợn Móng Cái. Giống lợn Móng Cái thường có từ 10 - 16 vú xếp thành 2 dãy đều nhau, song song với nhau trên hai bên bẹ bụng. Hầu như không có cá thể nào của giống lợn Móng Cái có số vú lẻ. Giống lợn Móng Cái có khả năng sinh sản tốt, đẻ nhiều con nhất trong các giống lợn nội Việt Nam. Sức đề kháng của giống lợn Móng Cái rất cao, trong quá trình chăn nuôi hầu như ít bị mắc bệnh. 2.1.3. Tuổi thành thục về tính Tuổi thành thục về tính là tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả năng sinh sản. Ở gia súc, tuổi thành thục về tính có các biểu hiện như sau: Bộ máy sinh dục đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, con cái rụng trứng, con đực sinh tinh. Tinh trùng và trứng gặp nhau có khả năng thụ tinh. Các đặc tính sinh dục thứ cấp bắt đầu xuất hiện. Xuất hiện các phản xạ sinh dục: Con cái động dục, con đực có phản xạ giao phối. Nói cách khác thành thục về tính của gia súc cái được đánh giá bằng hiện tượng động dục và rụng trứng. Lợn cái sau khi thành thục về tính thì biểu hiện động dục, lần thứ nhất thường không rõ ràng và tiếp sau đó ở các kỳ sau sẽ dần đi vào quy luật. Tùy thuộc vào loại gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về tính khác nhau. Tuổi thành thục về tính của lợn cái khoảng 6 tháng,dao động từ 5 - 8 tháng tuổi. Lợn cái nội thành thục sớm hơn lợn cái ngoại. Mặt khác tuổi thành thục về tính sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc, cho nên để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường của cơ thể mẹ, đảm bảo sự sinh trưởng và phẩm chất giống ở thế hệ sau thì ta nên cho gia súc phối giống khi chúng đã thành thục về thể vóc. Với lợn cái hậu bị thường cho phối giống lần đầu lúc 8 tháng tuổi. Tuy nhiên không cho lợn phối quá muộn vì sẽ ảnh hưởng tới hoạt động sinh sản của con cái và ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của một đời lợn nái. Tuổi phối giống lần đầu của lợn nái ngoại thường vào lúc 8 tháng tuổi và khối lượng đạt 100 - 110kg. Trong thực tế sản xuất thường bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục đầu và bắt đầu phối ở chu kỳ động dục thứ 3. 2.1.4. Chu kỳ động dục Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái phát triển mạnh đặc biệt là cơ quan sinh dục có biến đổi kèm theo sự rụng trứng. Sự phát triển của trứng dưới sự điều tiết của hooc môn tùy theo tuyến yên làm cho trứng chín và rụng một cách có chu kỳ. Nó biểu hiện bằng những triệu trứng động dục theo chu kỳ, được gọi là chu kỳ động dục. Thời gian một chu kỳ động dục được tính từ lần rụng trứng trước tới lần rụng trứng sau. Theo John R.Dieh và các cộng tác viên (1996) thì chu kỳ động dục của lợn thường kéo dài từ 20 - 33 ngày nhưng có thể xê dịch trong phạm vi 18 - 25 ngày, trung bình là 21 ngày và được chia làm 4 giai đoạn sau: Giai đoạn trước động dục (1 - 2 ngày): quan sát thấy lợn nái có hiện tượng xưng huyết ở âm hộ và âm hộ bắt đầu sưng lên, hơi mở ra và có màu hồng tươi, có tiết chất nhờn loãng chảy ra. Lợn biếng ăn thích nhảy lên lưng con khác nhưng không thích con khác nhảy lên lưng mình. Giai đoạn động dục hay chịu đực (2 - 3 ngày): giai đoạn này gồm 3 thời kì: hưng phấn, chịu đực, không chịu đực. Ở giai đoạn này lợn nái có hoạt động sinh dục mãnh liệt, âm hộ mở to hơn, chuyển sang màu mận chín, dịch nhờn keo đặc, lợn rất biếng ăn, nếu gặp lợn đực nhảy lên lưng thì sẽ đứng yên (đây là hiện tượng chịu đực hay mê đực). Ở giai đoạn này nếu trứng gặp tinh trùng và được thụ tinh thì sẽ chuyển sang giai đoạn chửa, ngược lại nếu trứng không được thụ tinh sẽ chuyển sang giai đoạn sau động dục. Giai đoạn sau động dục (3 - 4 ngày): giai đoạn này có dấu hiệu sinh dục giảm dần. Lợn giảm hưng phấn thần kinh, sự tăng sinh và tiết dịch của tử cung ngưng lại, âm hộ teo dần và tái nhợt. Lợn cái không muốn gần con đực, không cho con khác nhảy lên lưng nó. Con vật dần trở lại trạng thái bình thường, ăn uống bình thường. Giai đoạn nghỉ ngơi hay giai đoạn yên lặng sinh dục (12 - 14 ngày): đây là giai đoạn dài nhất thường bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi trứng rụng mà không thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu hủy. Ở giai đoạn này hoàn toàn không có phản xạ sinh dục. Âm hộ teo nhỏ, màu trắng nhạt, lợn ăn uống bình thường. Đây là giai đoạn nghỉ ngơi để khôi phục lại cấu tạo chức năng cũng như khôi phục lại năng lượng cho chu kỳ tiếp theo. Chu kỳ động dục, thời gian động dục cũng như các biểu hiện về hành vi sinh dục ở lợn cái thay đổi tùy theo giống, lứa tuổi, mùa vụ, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc... Hơn nữa, lợn nái hậu bị thường có chu kỳ động dục dài hơn lợn nái cơ bản hoặc nếu chăm sóc nuôi dưỡng kém thì chu kỳ động sẽ kéo dài. 2.2. Khả năng sinh sản của lợn nái 2.2.1. Khái quát về khả năng sinh sản Sinh sản là một thuộc tính trọng yếu của sinh vật nói chung và gia súc nói riêng, là một đặc trưng quan trọng vào loại bậc nhất của sinh vật nhằm duy trì nòi giống và đảm bảo sự tiến hóa của con vật. Ở gia súc nói chung và lợn nói riêng thì sinh sản là một chức năng quan trọng mang ý nghĩa tái sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Chính vì vậy mà sinh sản là một tính trạng mà con người hết sức quan tâm và chú trọng nhằm mục đích làm sao trong một thời gian ngắn nhất gia súc sinh sản được nhiều nhất, thế hệ sau có những đặc tính tốt hơn thế hệ trước, trong đó năng suất sinh sản được nâng cao thì mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong chăn nuôi. Quá trình sinh sản chiụ sự điều khiển của thần kinh và thể dịch, có thể được hoàn thiện dần trong quá trình phát triển nhằm đảm bảo cho sự điều tiết trong quá trình sinh sản. Trong từng giai đoạn khác nhau của cơ thể luôn có sự gắn kết giữa thần kinh và thể dịch. Mối quan hệ này luôn luôn tuân theo một quy luật hệ thống kế tiếp và thống nhất trong một cơ thể với cơ chế hoạt động nhiều chiều của thần kinh và thể dịch. Mối quan hệ này luôn luôn tuân theo một quy luật hệ thống kế tiếp và thống nhất trong một cơ thể với cơ chế hoạt động nhiều chiều của thần kinh và thể dịch. Nếu trong một khâu nào đó của mối quan hệ nhiều chiều này bị rối loạn thì cơ thể gia súc sẽ thay đổi theo hướng có lợi hoặc có hại đến khả năng sinh sản. Sự thay đổi này được thể hiện dưới hình thức chậm động dục ở lợn cái hậu bị và chậm động dục trở lại ở lợn nái sinh sản hay ở gia súc động dục mà không có trứng rụng dẫn đến hiện tượng vô sinh ở gia súc cái. 2.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái và những yếu tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu đó Trong thực tế có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái, nhưng các nhà di truyền và chọn giống lợn chỉ quan tâm đến một số tính trạng có năng suất nhất định, mà theo họ là chỉ tiêu quan trọng nhất trong chăn nuôi lợn nái sinh sản. 2.2.2.1. Số con cái đẻ ra trên ổ Số con đẻ ra trên ổ được đánh gía bằng số lợn con còn sống và số con chết trong một ổ, chỉ tiêu này nói lên mức độ đẻ sai của lợn nái. Số con đẻ ra trên ổ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Giống khác nhau thì số con đẻ ra trên ổ cũng khác nhau. Lợn Móng Cái đẻ 12 - 14 con/ lứa. Số con đẻ ra trên ổ nhiều hay ít còn phụ thuộc vào số lượng trứng rụng, mà số trứng rụng còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng. Theo J. P. burger (1952), L. N. Barker và cộng sự (1958) thì các giống lợn màu trắng có số trứng rụng nhiều hơn các giống lợn màu đen. C.E Hainer và cộng sự (1959) cho biết số trứng rụng trong một chu kỳ động dục đầu tiên là: 1,3; chu kỳ thứ 2 là 12,3. Theo J. S perry (1954) thì trứng rụng của nái tơ là 13,5 và nái trưởng thành là 21,4. O. Vangen (1981) cho rằng số trứng rụng trung bình của lợn nái là từ 15 - 20. Thường thì số trứng rụng ở chu kỳ động dục đầu tiên ít hơn chu kỳ động dục thứ hai và thứ ba, do đó trong phối giống thường phối giống ở chu kỳ thứ hai và thứ ba. Từ nhiều thí nghiệm nuôi dưỡng lợn nái hậu bị, chờ phối. L. L Anderson và cộng sự (1982) rút kết luận: Thời gian thích hợp tập trung thức ăn năng lượng cao để tăng số trứng rụng là 11 - 14 ngày trước khi động dục. Theo Hughes và Varley (1980): Mức ăn cao trong vòng một ngày trước động dục thì số trứng tăng 0,9 trứng, ăn cao trong vòng 10 ngày thì số trứng tăng 1,6 trứng và trong vòng 21 ngày thì số trứng rụng tăng 3,1 trứng. Trong một số quy định chăn nuôi lợn nái của Philippin, của tập đoàn Cargill (Mỹ) đã áp dụng chế độ nuôi dưỡng bồi thực (Flushing) với thức ăn hơn 3 kg cho lợn cái hậu bị trong vòng 14 ngày trước phối và chế độ bồi thực cho lợn nái từ sau cai sữa cho đến phối giống nhằm tăng số lượng trứng rụng để tăng số con đẻ ra/ ổ. Số con đẻ ra/ ổ cũng bị ảnh hưởng bởi tỉ lệ chết phôi và chết thai trong giai đoạn lợn nái chửa. Nhiều thí nghiệm đã chứng minh rằng: tỷ lệ chết phôi thai và chết thai từ lúc thụ tinh đến khi đẻ chiếm từ 30 - 50% và gần 2/3 số đó rơi vào giai đoạn đầu thời kỳ chửa. J. S.Perry (1954) cho biết 28% phôi chết vào ngày chửa thứ 13 - 18 và 34,8% vào ngày chửa thứ 20 - 40. 2.2.2.2. Số con sơ sinh còn sống đến 24 giờ sau khi đẻ Đây là chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật rất quan trọng. Nó nói lên khả năng đẻ nhiều con hay ít con của giống, nói lên kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái có chửa và kỹ thuật thụ tinh của dẫn tinh viên. Trong vòng 24h sau khi đẻ những lợn con được sinh ra nếu không đạt trọng lượng sơ sinh trung bình của giống thì không phát dục hoàn toàn đầu to, mông bé v.v . . . thì sẽ bị chết. Ngoài ra trong thời gian này, lợn con chưa nhanh nhẹn, dễ bị mẹ đè chết. Nếu lợn nái được đẻ trong cũi có song sắt chắn, thì sẽ tránh được hiện tượng lợn con bị mẹ đè chết. Tỷ lệ sống (%) = số con sơ sinh sống đến 24h/số con đẻ ra * 100. 2.2.2.3. Số con đẻ ra/ ổ Số con để nuôi/ổ là số lợn con đủ tiêu chuẩn giống được giữ lại nuôi. Số con đẻ nuôi/ổ chịu ảnh hưởng từ số con đẻ ra còn sống trên ổ, độ đồng đều của lợn con lúc sơ sinh cũng như khả năng tiết sữa nuôi con của lợn mẹ và trình độ chăm sóc của công nhân viên. Với thực tế tại trại chăn nuôi lợn Móng Cái thuộc công ty chăn nuôi Hải Phòng thì số lợn con để nuôi/ổ phần lớn là ưu tiên cho những con cái, vì mục đích cũng như nhu cầu của trại là cung cấp giống cho các tập thể chăn nuôi và duy trì giống cho quốc gia, những con đực chỉ được giữ lại nuôi khi trại có nhu cầu cần đực thay thế hay có sự đặt hàng từ trước của các cơ sở chăn nuôi khác hoặc dùng ghép đàn khi số lợn cái vẫn chưa đáp ứng đủ số lượng sữa của lợn nái, tránh tình trạng lãng phí nguồn sữa sẵn có của lợn mẹ. 2.2.2.4. Số con cai sữa/ổ Là số lợn con được nuôi sống cho đến khi cai sữa mẹ. Thời gian cai sữa dài hay ngắn tùy thuộc vào cơ sở chăn nuôi, khả năng nuôi con của lợn mẹ và phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật chế biến thức ăn cho lợn con. Tại các nước tiên tiến, người ta cho lợn con tách mẹ ở 21, 28, 35 ngày tuổi. Tách lợn ra khỏi mẹ sớm sẽ làm cho số lứa đẻ của một nái/ năm tăng lên, đồng thời hạn chế được một số bệnh hay lây lan từ mẹ chuyển sang con. Tại nước ta các trại chăn nuôi nhà nước có thể cho lợn con tách mẹ lúc 35 ngày tuổi. Còn chăn nuôi trong các hộ nông dân thì vẫn cai sữa ở 60 ngày tuổi. Số con cai sữa/ổ là chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật rất quan trọng, quyết định hiệu quả kinh tế của ngành chăn nuôi lợn. Nó phụ thuộc vào khả năng tiết sữa của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi lợn con theo mẹ, cũng như khả năng hạn chế các yếu tố bệnh tật cho lợn con. Tỷ lệ nuôi sống (%) = số lợn con sống đến cai sữa/số lợn con để lại nuôi *100. 2.2.2.5. Số con cai sữa/ nái/ năm Chỉ tiêu này là đánh giá tổng quát nhất đối với nghề nuôi lợn nái. Người nuôi lợn nái có thể thu được lãi hay không là nhờ ở số lượng lợn con cai sữa/nái/năm. Nếu tăng số lứa đẻ/nái/năm và tăng số lượng lợn cai sữa trong mỗi lứa thì số lượng lợn cai sữa/nái/năm sẽ cao. 2.2.2.6. Khoảng cách lứa đẻ Là thời gian hình thành một chu kỳ sinh sản. Bao gồm: Thời gian chửa + thời gian nuôi con + thời gian chờ động dục lại sau cai sữa và phối giống có chửa. Trong ba yếu tố trên thì thời gian mang thai là không thể thay đổi. Còn thời gian nuôi con và thời gian chờ phối là có thể thay đổi để rút ngắn khoảng cách giữa hai lứa đẻ. Khoảng cách lứa đẻ ngắn sẽ làm tăng số lứa đẻ của nái/ năm. + Thí dụ: Một lợn nái: Thời gian mang thai: 114 ngày Thời gian nuôi con: 28 ngày Thời gian chờ phối: 10 ngày Tổng cộng cả chu kỳ sinh sản hết 152 ngày. Vậy một năm một nái ấy đẻ tối đa 2,4 lứa. - Một lợn nái khác: Thời gian chửa: 114 ngày Thời gian nuôi con: 42 ngày Thời gian chờ phối: 6 ngày Tổng cộng hết 162 ngày cho một chu kỳ sinh sản. Vậy lợn nái này đẻ được 2,2 lứa/năm. 2.2.2.7. Khối lượng cai sữa Khối lượng cai sữa/ con là chỉ tiêu nói lên khả năng nuôi dưỡng lợn con của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc quản lý và phòng bệnh cho lợn nái nuôi con và lợn con của một số cơ sở chăn nuôi. Do đó thành tích này là bao gồm cả phần của lợn nái và phần nuôi dưỡng của con người, nhưng trước hết là thành tích của lợn nái. Khối lượng cai sữa càng cao thì càng tốt. Lợn sẽ tăng trọng nhanh ở các giai đoạn phát triển sau. 2.2.2.8. Khối lượng lúc 90 ngày tuổi/con Với cơ sở chăn nuôi lợn thuần như trại chăn nuôi lợn Móng Cái thì việc xác định khối lượng lúc 90 ngày tuổi cũng đồng nghĩa với việc xác định khối lượng bán. Do đây là cơ sở chăn nuôi còn mang nhiều hình thức thủ công, công nghệ chăn nuôi còn hạn chế cho nên chưa đủ điều kiện cai sữa sớm và do nhu cầu cũng như thị hiếu của người mua cho nên cơ sở chăn nuôi chỉ nuôi lợn sau cai sữa trên dưới 90 ngày tuổi thì sẽ xuất lợn đem bán. 2.2.2.9. Số lứa đẻ/nái/năm Đây là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, nó nói lên khả năng nuôi con của lợn mẹ, cũng như kỹ thuật và điều kiện chăn nuôi của cơ sở chăn nuôi. Số lứa đẻ /nái /năm càng cao thì càng tốt như vậy hiệu quả sử dụng của nái càng cao, nó cũng nói lên hiệu quả của việc chọn và gây nái của giống và của cơ sở. Ngoài ra số lứa đẻ/nái/năm còn phụ thuộc vào thời gian cai sữa của lợn trong quá trình nuôi con. 2.2.2.10. Thời gian sử dụng lợn nái Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của việc chọn nái làm giống, cũng như chất lượng, hiệu quả của nái được chọn làm giống. Thời gian sử dụng của một nái càng nhiều thì càng nói lên chất lượng của nái đó tốt. Trong thực tế chăn nuôi có những nái được sử dụng rất lâu, do khả năng nuôi con khéo của nó. Với những nái này thì thường cho chúng ta những con rất tốt và thế hệ sau sẽ được kế thừa yếu tố di truyền này. Thời gian này được tính từ khi nái được chọn làm giống cho tới khi loại thải. 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sức sản xuất của lợn nái Trong các nhân tố ảnh hưởng tới sức sản xuất của lợn nái có thể chia thành hai loại: -Nhân tố tác động do di truyền. -Nhân tố tác động do ngoại cảnh: + Nhân tố tác động do thời tiết, khí hậu. + Nhân tố tác động do con người như thụ tinh nhân tạo, cai sữa sớm, bổ sung thức ăn cho lợn con v.v. . . 2.3.1. Nhân tố tác động di truyền 2.3.1.1. Tính trạng số lượng Tính trạng số lượng là tính trạng được quy định bởi nhiều cặp gen mà mỗi cặp gen chỉ có hiệu ứng nhỏ (minorgene). Tính trạng số lượng bị tác động rất lớn bởi môi trường và sự sai khác về mức độ hơn là sự sai khác về chủng loại, đó là các tính trạng đa gen (polygene). Hầu hết, những tính trạng có giá trị của gia súc đều là những tính trạng số lượng mà các tính trạng số lượng thường có hệ số di truyền thấp và chịu nhiều tác động của ngoại cảnh. Có hai hiện tượng di truyền cơ bản liên quan đến tính trạng số lượng. Mỗi hiện tượng di truyền này là một cơ sở lí luận cải tiến di truyền giống vật nuôi: trước hết là sự giống nhau giữa các con vật thân thuộc, quan hệ thân thuộc càng gần con vật càng giống nhau. Đó là cơ sở di truyền của sự chọn lọc. Thứ hai là hiện tượng suy thoái cận thân và hiện tượng ngược lại về sức sống của con lai và ưu thế lai. Đây là cơ sở di truyền của sự chọn phối để nhân thuần hoạc tạp giao. Các tính trạng năng suất sinh sản và khả năng sản xuất là các tính trạng số lượng do nhiều gen điều khiển, mỗi gen đóng góp một mức độ khác nhau vào cấu thành năng suất của con vật. Giá trị kiểu hình của các tính trạng năng suất sinh sản và khả năng sản xuất có sự phân bố liên tục và chịu tác động bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh. 2.3.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng Giá trị kiểu hình (P) của bất kì một tính trạng số lượng nào cũng có thể phân chia thành: giá trị kiểu gen (G) và sai lệch môi trường (E). Giá trị kiểu gen có thể phân chia thành giá trị cộng gộp của các gen (A), giá trị trội của các gen (D) và giá trị át gen (EG) và sai lệch môi trường riêng (ES). Giá trị kiểu hình (P) được biểu thị như sau: P = G + E P = A + D + I + EG + ES * Giá trị kiểu gen Giá trị kiểu gen (E) của tính trạng số lượng do nhiều cặp gen quy định. Phương thức di truyền của các cặp gen này tuân theo các quy luật cơ bản của di truyền: phân ly, tái tổ hợp, liên kết. Tác dụng của các gen khác nhau trên cùng một tính trạng có thể là cộng gộp (A) nhưng cũng có thể là không cộng gộp. Giá trị cộng gộp hay còn gọi là giá trị giống. Bố mẹ chỉ truyền cho con các gen của chúng chứ không phải truyền kiểu gen cho thế hệ sau, kiểu gen phải được sáng tạo lại mới ở mỗi thế hệ sau. Để đo lường giá trị di truyền của bố mẹ cho đời con phải có một giá trị đo lường có quan hệ với gen chứ không phải có liên quan đến kiểu gen, đó là “ hiệu ứng trung bình ” của các gen. Hiệu ứng trung binh của một gen là sai lệch trung bình của cá thể so với trung bình của quần thể mà nó nhận gen từ một bố hoặc một mẹ nào đó trong quần thể, còn gen kia nhận từ mẹ hoặc bố khác. Tổng các hiệu ứng trung bình của các gen mà nó mang (tổng các hiệu ứng được thực hiện với từng cặp gen ở mỗi locut và trên tất cả các locut) được gọi là giá trị cộng gộp hoặc giá trị giống của cá thể. Giá tri giống là thành phần quan trọng của kiểu gen vì nó cố định và có thể di truyền được, do đó nó là nguyên nhân chính gây nên sự giống nhau giữa các con vật thân thuộc, nghĩa là nó là nhân tố chủ yếu sinh ra đặc tính di truyền của quần thể và sự đáp ứng của quần thể đối với sự chọn lọc. Hơn nữa nó là thành phần duy nhất mà người ta có thể xác định được từ sự đo lường các tính trạng đó ở quần thể. Tác động của các gen gọi là cộng gộp khi giá trị kiểu hình của kiểu gen dị hợp luôn luôn là trung gian so với kiểu hình của hai kiểu gen đồng hợp. Giá trị cộng gộp (giá trị giống) là cố định và có thể di truyền được. Bố mẹ luôn truyền các giá trị cộng gộp của mỗi tính trạng của chúng cho đời con. Tiềm năng di truyền do tác động cộng gộp của gen bố và gen mẹ tạo nên gọi là giá trị di truyền của con vật hay giá trị giống. Giá trị giống được dùng và chọn lọc có khả năng di truyền cho đời sau. Giá trị không cộng gộp bao gồm: sai lệch trội (D) và sai lệch át gen hoặc tương tác (I). Sai lệch trội là sai lệch được sản sinh do sự tác động qua lại giữa các cặp alen ở trong cùng một locut (đặc biệt là các cặp alen dị hợp tử). Sai lệch trội cũng là một phần thuộc tính của quần thể. Sai lệch trội có thể là: trội hoàn toàn (AA = Aa > aa), siêu trội (Aa > AA > aa), trội không hoàn toàn (AA > Aa > aa). Quan hệ trội của bố mẹ không di truyền được sang con cái. Sai lệch át gen hoặc sai lệch tương tác là sai lệch được sản sinh ra do sự tác động qua lại giữa các gen không cùng một alen, thuộc các locut khác nhau. Từ đó, giá trị kiểu gen biểu thị chi tiết bằng công thức sau: G = A + D +I * Sai lệch môi trường Sai lệch môi trường thể hiện thông qua hai thành phần: sai lệch môi trường chung và sai lệch môi trường đặc biệt. Sai lệch môi trường chung (EG) là sai lệch giữa cá thể do hoàn cảnh thường xuyên và không cục bộ gây ra. Sai lệch môi trường đặc biệt (ES) là sai lệch trong cá thể do hoàn cảnh tạm thời và cục bộ gây ra. Như vậy, khi một kiểu hình của một cá thể được cấu tạo từ hai locut trở lên thì giá trị kiểu hình của nó được biểu thị một cách chi tiết như sau: P = A + D + I + EG + ES Qua việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng chúng ta có thể thấy muốn nâng cao năng suất vật nuôi cần phải: - Tác động về mặt di truyền (G) bao gồm: Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc. Tác động vào hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng cách phối giông hoặc tạp giao. - Tác động về mặt môi trường (E) bằng cách cải tiến điều kiện chăn nuôi: thức ăn, nước uống, thú y, chuồng trai, quy trình chăn nuôi, chế độ quản lý vv... 2.3.1.3. Giống Giống lợn là yếu tố quyết định tới sức sản xuất của lợn nái. Giống và đặc tính sản xuất của nó gắn liền với năng suất. Giống khác nhau, cho năng suất khác nhau: Ví dụ: Lợn Móng Cái đẻ 12 - 14 con/lứa. Lợn Ỉ đẻ 8 - 10 con/ lứa Lợn Yorkshire đẻ 10 - 13 con/lứa. 2.3.1.4. Phương pháp nhân giống Phương pháp nhân giống khác nhau sẽ cho năng suất khác nhau Cho nhân giống thuần chủng thì năng suất của chúng cũng chính là năng suất của giống đó. Ví dụ: ♂ Móng Cái * ♀ Móng Cái ♂ Yorkshire * ♀ Yorkshire Cho lai giống thì năng suất sẽ cao hơn hai giống gốc. Các giống đem lai càng thuần thì khi lai giống cho ưu thế lai càng cao. Như vậy nhân giống thuần hay lai giống tạp giao sẽ cho kết quả sản xuất khác nhau. 2.3.1.5. Tuổi và trọng lượng phối giống lứa đầu Để tiến hành phối giống lứa đầu, lợn nái hậu bị phải thành thục cả về sinh dục và thể vóc. Thành thục sinh dục là lợn cái hậu bị phải có biểu hiện về động dục và rụng trứng. Tuổi trưởng thành về sinh dục phụ thuộc vào đặc điểm của giống và điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc quản lý cơ sở chăn nuôi. Lợn nái nội như giống lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi thành thục sinh dục (động đực lần đầu) vào 4 - 5 tháng tuổi 121 - 158) ngày tuổi. Lợn ngoại như Yorkshire, Landrace có tuổi t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXác định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái Móng Cái sinh sản tại công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp Hải Phòng.doc
Tài liệu liên quan