Luận văn Xử lý các vấn đề tài chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa. Thực tế tại Công ty Dich vụ Nông nghiêp Từ Liêm

Tổng diện tích đất Công ty đang quản lý và sử dụng là: 147.888 m2

 Trong đó:

 + Đất văn phòng phục vụ cho kinh doanh: 2.209 m2

 + Đất dùng trong sản xuất kinh doanh: 8.832,5 m2

 + Đất sản xuất nông nghiệp: 129.445,5 m2

 + Đất khác: 7.401,5 m2

 Có thể nói rằng, diện tích đất mà Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đang quản lý và sử dụng là rất lớn so với các đơn vị khác. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất của Công ty là không cao. Đất đai bỏ hoang là chính, không có những dự án khả thi, có một số nơi thì đã bị dân cư lần chiếm làm nhà ở.

 Hiện nay, đơn vị chỉ sử dụng 2 diện tích đất là:

 - Xã Mỹ Đình, Từ Liêm Hà Nội, diện tích 1.507,12 m2 làm văn phòng Công ty.

 - Kiều Mai, Phú Diễn, Từ Liêm Hà Nội, diện tích 7.884 m2 đang góp vốn liên doanh với Công ty COTREXIM làm trung tâm thương mại.

 Khi cổ phần hóa, với mục đích đảm bảo hiệu quả sử dụng tài sản của Nhà nước, vấn đề đất đai của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm cần được xem xét và giải quyết. Đặc biệt, việc xác định giá trị của các diện tích đất đang là vấn đề chưa giải quyết được.

 

doc59 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 902 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xử lý các vấn đề tài chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa. Thực tế tại Công ty Dich vụ Nông nghiêp Từ Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị doanh nghiệp có khi rất nhiều. Về phía nhà nước khi các công ty có tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp thì Nhà nước có thể thu hồi lại để bán cho cá nhân hoặc tổ chức khác. Tuy nhiên, khi bán, giá trị thu được thường nhỏ hơn giá trị còn lại trên sổ sách của công ty. Đây cũng là một hình thức nhà nước bị mất vốn. Ngoài ra, nếu tài sản loại ra là nhà cửa, vật kiến trúc thì việc thu hồi lại để bán hay bàn giao cho đơn vị khác là rất khó vì không thể chuyển đi được. Vì vậy việc xác định chính xác những tài sản này có thực sự là doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng hay không là rất cần thiết để giảm thiệt hại cho nhà nước. c. Chi phí treo và các khoản lỗ luỹ kế. Chi phí treo được hiểu là những khoản chi phí doanh nghiệp đã chi nhưng chưa hạch toán doanh thu, hiện tại vẫn treo trên sổ sách hoặc những khoản chi phí đã chi nhưng chưa có nguồn bù đắp. Treo một số khoản chi phí thực chất là một hình thức dấu lỗ. Tình trạng này xảy ra rất nhiều tại các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Chi phí treo bao gồm những loại sau: - Chi phí cho các dự án nhưng không thực hiện được, vì vậy không có đối tượng để phân bổ. Chi phí treo loại này thường xảy ra ở các công ty xây dựng. - Chi phí không hợp lý, hợp lệ bị cơ quan thuế xuất toán, các khoản tiền phạt chậm nộp thuế, phạt hợp đồng kinh tế, tiền lương chi quá không đúng chế độ quy định Theo quy định những chi phí này đơn vị phải hạch toán vào lợi nhuận sau thuế hoặc thu hồi lại nhưng thực tế vì không có đủ lợi nhuận bù đắp và không thu hồi lại được nên vẫn treo lại. - Chi quỹ khen thưởng phúc lợi vượt quá nguồn hiện có. - Các khoản chi phí đã thực chi nhưng đơn vị do muốn đảm bảo có lãi nên không hạch toán vào kết quả kinh doanh mà cố tình treo ở tài khoản “chi phí chờ kết chuyển”. Tuy nhiên, do công tác quản lý nhà nước còn yếu kém vì vậy các cơ quan nhà nước vẫn không phát hiện ra những khoản chi phí treo của doanh nghiệp. Khi thực hiện cổ phần hóa, các doanh nghiệp mới báo cáo để đòi giảm vốn nhà nước. Lỗ là tình trạng doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, chi phí lớn hơn doanh thu. Xét về bản chất thì chi phí treo hay lỗ đều là hình thức làm mất vốn nhà nước. Nếu một doanh nghiệp bị thua lỗ quá nhiều thì khi cổ phần hóa, sẽ làm thiệt hại cho nhà nước. Vì vậy việc xử lý nhưng khoản thua lỗ này thế nào là rất cần thiết để giảm thiệt hại cho nhà nước. 2/ Cơ sở pháp lý để xử lý các vấn đề tài chính xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa ở Việt Nam. Cổ phần hóa là giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước mang tính triệt để và tối ưu đối với đất nước ta. Tuy nhiên, để trở thành một chính sách quốc gia, một chiến lược cải cách thành phần kinh tế nhà nước như ở nước ta hiện nay thì cổ phần hóa đã trải qua một trăng đường dài. Đường lối, chính sách về cổ phần hóa luôn được thay đổi và cập nhật. Qua đó, chính sách xử lý tồn tại tài chính cũng được thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ. Hiện nay, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang được thực hiện theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần và thông tư 146/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ. Nghị định và Thông tư trên quy định việc xử lý một số vấn đề về tài chính khi cổ phần hóa doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với từng tồn tại cụ thể việc xử lý còn phair căn cứ vào Luật kế toán, các chế độ hạch toán kế toán và những văn bản liên quan. CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA VÀ CÁC VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH KHI XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP TỪ LIÊM HÀ NỘI. I/ Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm và quá trình cổ phần hóa của công ty. 1/ Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm: Ngày 16/11/1994 Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã có quyết định số 2851/QĐ-UB về việc sáp nhập bốn đơn vị ngành nông nghiệp của Huyện Từ Liêm là: Công ty Dịch vụ kỹ thuật, Công ty vật tư, Xí nghiệp cơ giới và Xí nghiệp thức ăn gia súc, thành lập Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm. Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm là đơn vị trực thuộc UBND Huyện Từ Liêm. Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty là: Dịch vụ sản xuất nông nghiệp Kinh doanh vật tư nông nghiệp Sản xuất kinh doanh phân bón, giống cây trồng và vật nuôi Thực hiện các hợp đồng về làm đất, vận tải, san nền, sửa chữa cơ khí Xây dựng hạ tầng, sản xuất vật liệu xây dựng Xây dựng và kinh doanh văn phòng, nhà ở. Với ngành nghề kinh doanh trên, cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty Dịch vụ nông nghiệp theo sơ đồ sau: Cơ cấu tổ chức của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm GIÁM ĐỐC CÔNG TY PHÓ GIÁM ĐỐC CÔNG TY PHÓ GIÁM ĐỐC CÔNG TY PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH PHÒNG KẾ TOÁN THỐNG KÊ PHÒNG KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ PHÂN XƯỞNG NPK ĐỘI XÂY DỰNG ĐỘI SAN ỦI ĐỘI KINH DOANH DU LỊCH CỬA HÀNG THÚ Y CỬA HÀNG GIỐNG Do đặc điểm là đơn vị sáp nhập từ 4 đơn vị trực thuộc Huyện, lại đều là những đơn vị kinh doanh không có hiệu quả. Thê m vào đó, sự quản lý của bộ máy giám đốc yếu kém nên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rât kém. Trong khi đó, Công ty lại đang sở hữu một diện tích đất đai lớn (tổng diện tích 147.888m2, bao gồm cả đất sản xuất kinh doanh nông nghiệp và phi nông nghiệp). Bảng 1: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Đơn vị tính: đồng TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Tổng tài sản 7 438 542 984 7 463 004 758 8 942 616 147 2 Vốn nhà nước tại DN 3 159 184 245 3 588 487 154 3 678 458 154 3 Doanh thu 5 470 710 156 5 570 054 830 6 214 753 951 5 Lợi nhuận sau thuế - 515 177 459 - 487 215 789 - 545 548 931 6 Nộp ngân sách NN 317.021.12 351 845 715 401 128 952 7 Nợ phải trả 4 015 147 158 4 751 489 563 6 303 820 591 8 Nợ phải thu 2 458 962 358 2 852 147 596 2 848 577 988 9 Lao động bình quân 98 100 103 10 Thu nhập bình quân 1 024 587 1 225 748 1 421 745 (Nguồn: Báo cáo tài chính 3 năm của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm) Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm không phải là doanh nghiệp lớn, tuy nhiên tôi chọn trường hợp này vì công ty này có hầu hết các tồn tại tài chính mà các doanh nghiệp hiện có và quá trình cổ phần hóa đã kéo dài nhiều năm nhưng vẫn chưa thực hiện xong. Thêm vào đó, doanh nghiệp này có một diện tích đất đai lớn, đây là trở ngại lớn nhất trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. 2/ Quá trình cổ phần hóa Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm. Do Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm là doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, thua lỗ thường xuyên nên ngày 18 tháng 9 năm 2002, Uỷ ban nhân dân Huyện Từ Liêm đã có công văn số 550/UB-KH về việc đăng ký danh sách doanh nghiệp thực hiện bán khoán năm 2002, trong công văn nêu rõ Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm được xếp vào loại bán trong năm 2002. Tuy nhiên, ngày 30 tháng 6 năm 2003, Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đã có báo cáo xin chuyển đổi sang hình thức cổ phần hóa và được sự chấp thuận của UBND Thành phố Hà Nội với hình thức nhà nước giữ cổ phần chi phối. Tiếp sau đó, ngày 5 tháng 4 năm 2004, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội có quyết định số 2254/QĐ- UB cho phép Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm triển khai cổ phần hóa. Tuy nhiên, do đến nay, việc xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm vẫn chưa được hoàn thành Quá trình cổ phần hóa của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đến nay vẫn không thể hoàn thành được do các nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, Ban lãnh đạo của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm và cán bộ công nhân viên trong công ty chưa nhận thức đúng về cổ phần hóa. Vì vậy, họ sợ sau khi cổ phần hóa quyền lợi của họ sẽ bị ảnh hưởng. Từ đó nảy sinh tư tưởng chần chừ, né tránh, sợ trách nhiệm, thiếu chủ động thực hiện làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Thứ hai, trong quá trình hoạt động, với sự quản lý yếu kém nên Công ty có rất nhiều tồn tại tài chính như: các khoản nợ tồn đọng, các vấn đề về tài sản, lỗ Vì vậy gây khó khăn lớn cho quá trình xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa. Những tồn tại nay đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm được. Thứ ba, Uỷ ban nhân dân Huyện Từ Liêm, cơ quan chủ quản của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm chưa quan tâm thực sự đến quá trình cổ phần hóa của Công ty. UBND Huyện gần như không có sự chỉ đạo thực hiện đối với Công ty. Trong các nguyên nhân trên thì tồn tại tài chính là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến công tác cổ phần hóa của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm bị chậm trễ và kéo dài. Vì vây, xử lý tồn tài tài chính là việc làm hết sức cần thiết đối với quá trình cổ phần hóa của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm. II/ Vấn đề tài chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm. 1. Định giá tài sản. Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm có số lượng tài sản cố định hữu hình không lớn. Nhà cửa, vật kiến trúc,máy móc thiết bị không nhiều. Tuy nhiên, trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, việc định giá tài sản ủa Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm cũng gặp một số khó khăn thể hiện ở các vấn đề sau: 1.1. Đối với tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc. Số lượng nhà cửa, vật kiến trúc của Công ty tuy không nhiều nhưng hầu như tất cả nhà cửa, vật kiến trúc của Công ty đều đã được đầu tư từ lâu. Hồ sơ về đầu tư xây dựng của Công ty lại không được lưu trữ cẩn thận nên hầu như không còn. Do vậy, rất khó khăn trong việc xác định cấu trúc nhà để định giá. Mặt khác, nhà cửa vật kiến trúc, mặc dù những nhà cửa này được xây dựng từ những năm 90 nhưng đơn giá xây dựng vẫn cao hơn đơn giá theo quy định mới nhất là năm 2007. Theo ý kiến chủ quan thì nguyên nhân là do có sự tham ô, tham nhũng trong quá trình xây dựng dẫn đến việc nhiều khoản mục không cần thiết cũng được hạch toán vào giá thành. Cũng có thể nói đến sự quan liêu trong quản lý của các cơ quan nhà nước, không giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc đầu tư của Công ty vì vậy mà nguyên giá đó vẫn được chấp nhận. Về phần hao mòn tài sản cố định. Hao mòn tài sản là một hình thức thu hồi vốn đầu tư của tài sản. Tuy nhiên, do kinh doanh thua lỗ nên mức trích khấu hao tài sản của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm thường thấp hơn nguyên giá. Vì vậy, giá trị còn lại của tài sản trên sổ sách của Công ty là rất cao. Khi cổ phần hóa, nếu đánh giá lại theo hiện trạng thực tế thì giá trị còn lại sẽ thấp hơn sổ sách. Đây cũng là một trường hợp làm mất vốn của nhà nước. 1.2. Đối với tài sản là đất đai. Tổng diện tích đất Công ty đang quản lý và sử dụng là: 147.888 m2 Trong đó: + Đất văn phòng phục vụ cho kinh doanh: 2.209 m2 + Đất dùng trong sản xuất kinh doanh: 8.832,5 m2 + Đất sản xuất nông nghiệp: 129.445,5 m2 + Đất khác: 7.401,5 m2 Có thể nói rằng, diện tích đất mà Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đang quản lý và sử dụng là rất lớn so với các đơn vị khác. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất của Công ty là không cao. Đất đai bỏ hoang là chính, không có những dự án khả thi, có một số nơi thì đã bị dân cư lần chiếm làm nhà ở. Hiện nay, đơn vị chỉ sử dụng 2 diện tích đất là: - Xã Mỹ Đình, Từ Liêm Hà Nội, diện tích 1.507,12 m2 làm văn phòng Công ty. - Kiều Mai, Phú Diễn, Từ Liêm Hà Nội, diện tích 7.884 m2 đang góp vốn liên doanh với Công ty COTREXIM làm trung tâm thương mại. Khi cổ phần hóa, với mục đích đảm bảo hiệu quả sử dụng tài sản của Nhà nước, vấn đề đất đai của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm cần được xem xét và giải quyết. Đặc biệt, việc xác định giá trị của các diện tích đất đang là vấn đề chưa giải quyết được. 2. Các tồn tại tài chính. Đây là vấn đề phức tạp nhất trong quá trình cổ phần hóa Cồn ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm. Vì đặc điểm của Công ty là sáp nhập từ 4 đơn vị sản xuất kinh doanh không hiệu quả của huyện, thêm vào đó việc quản lý yếu kém nên Công ty có rất nhiều tồn tại tài chính. Có thể kể ra: 2.1/ Nợ tồn đọng. Chúng ta xem xét công nợ tồn đọng của công ty dưới 2 hình thức sau: nợ phải thu và nợ phải trả. * Nợ phải thu Theo số liệu tại bảng 1 về tình hình tài chính của Công ty qua 3 năm 2005, 2006, 2007 ta nhận thấy rằng công nợ phải thu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Cụ thể Năm 2005: 33% Năm 2006: 38% Năm 2007: 32% Như vậy, vốn của công ty đã bị chiếm dụng rất nhiều, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi tiết công nợ phải thu của Công ty được cụ thể tại phụ lục 1. * Nợ phải trả Cũng theo số liệu tại bảng 1 ta thấy công nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Công ty. Cụ thể: Năm 2005: 54% Năm 2006: 64% Năm 2007: 70% Qua chi tiết công nợ phải thu, phải trả của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm, ta có thể nhận thấy: Thứ nhất, việc theo dõi đối tương nợ của Công ty là không rõ ràng, nhiều đối tượng nợ không rõ địa chỉ cụ thể. Ví dụ tại công nợ phải thu: Thuỷ hàng cá, cửa hàng Chèm, Công ty xuất nhập khẩu, hộ nghèo, số dư trước 15/5/1991, ao cá, tài khoản 60 hộ khác, tài khoản 67 hộ khác Tại công nợ phải trả: trạm gạch, 176 TĂGS chuyển sang, đền bù tài sản, hộ khác vì vậy không thể thực hiện đối chiếu xác nhận công nợ Thứ hai, đa số các khoản công nợ đã tồn tại từ rất lâu, hầu hết là từ khi mới thành lập công ty, do các xí nghiệp cũ bàn giao lại. Thứ ba, có rất nhiều khoản công nợ nhỏ, dưới 1.000.000 đồng, thậm trí có nhiều khoản dưới 100.000 đồng đã tồn tại từ lâu nhưng công ty cũng không có biện pháp để giải quyết. Thứ tư, các khoản nợ của Công ty đều không có hồ sơ rõ ràng để có thể xem xét xử lý. Đa số các khoản công nợ không có đối chiếu xác nhận nợ (trừ những khoản phải thu nội bộ mới phát sinh), thậm trí có những khoản không còn có hồ sơ lưu trữ về công nợ. Thứ năm: Công ty không thực hiện bù trừ công nợ. Nhiều khoản công nợ phát sinh cả bên phải thu và bên phải trả. Vì vậy, danh sách theo dõi công nợ của công ty rất nhiều đối tượng. Thứ sáu: Đối với công nợ phải trả, tồn tại khoản nợ vay ngân hàng và nợ ngân sách nhà nước rất lớn. Thứ bày: Qua kiểm tra chi tiết, nhận thấy nhiều khoản công nợ đơn vị hạch toán nhầm tài khoản, đáng ra phải hạch toán ở tài khoản tạm ứng thì đơn vị lại hạch toán ở nợ phải thu. Thứ tám: Có nhiều khoản công nợ phải thu, phải trả nội bộ, đặc biệt là phải thu của các đối tượng đã nghỉ việc khi sáp nhập 4 đơn vị của huyện hoặc đã chuyển công tác nhưng khi các đối tượng đó không còn làm việc thì những công nợ vẫn không được giải quyết dứt điểm nên vẫn kéo dài đến nay. Tồn tại về công nợ phải thu của Công ty có nhiều nguyên nhân, có thể kể đến những nguyên nhân cơ bản sau: - Do đặc điểm của Công ty là đơn vị sáp nhập từ 4 đơn vị của Huyện. Khi sáp nhập năm 1992, việc bàn giao giữa các bên không rõ ràng. Theo quy định, khi sáp nhập các đơn vị phải tiến hành đối chiếu các khoản công nợ phải thu phải trả, lập đủ hồ sơ công nợ. Tuy nhiên do 4 đơn vị của huyện đều là những đơn vị có công tác quản lý kém, kinh doanh kém hiệu quả nên việc theo dõi công nợ kém. Vì vậy, nhiều khoản nợ đến nay không xác định được khách nợ vì chỉ có tên trong sổ mà không có chứng từ. - Công tác quản lý công nợ và đôn đốc thu hồi công nợ của công ty rất kém. Không chỉ những khoản công nợ tồn tại từ khi sáp nhập 4 đơn vị của huyện mà những khoản công nợ phát sinh sau khi thành lập công ty cũng không có hồ sơ. Hàng năm, công ty không thực hiện việc đối chiếu, xác nhận công nợ và đôn đốc công nợ. Giám đốc công ty cũng không dám chịu trách nhiệm để xử lý những khoản công nợ đã phát sinh từ lâu, có điều kiện để xử lý nên danh sách công nợ cứ dài thêm qua các năm. Với tình hình công nợ của Công ty như trên thì quá trình cổ phần hóa gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý công nợ. Bởi vì, theo quy định các các văn bản của nhà nước về cổ phần hóa và xử lý công nợ thì việc tối thiểu để có thể xử lý là công nợ phải có hồ sơ và phải có đối chiếu xác nhận công nợ. Khi tiến hành cổ phần hóa, UBND Thành phố có yêu cầu công ty thực hiện việc đối chiếu các khoản công nợ, tuy nhiên do đặc điểm công nợ nêu trên nên Công ty chỉ đối chiếu được một số ít những khoản công nợ mới phát sinh. Chính vì vậy mà việc xử lý công nợ tại công ty rất bế tắc. 2.2/ Các vấn đề về tài sản. Không chỉ có công nợ phức tạp mà vấn đề tài sản của công ty cũng tồn tại nhiều vấn đề. 2.2.1/ Tài sản thiếu khi kiểm kê: Khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, tổ chuyên viên liên ngành phải tiến hành kiểm kê tài sản thực tế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi kiểm kê đã phát hiện rất nhiều tài sản có tên trong sổ sách mà không có trên thực tế. Tổng nguyên giá: 221.642.363 đồng Tổng giá trị còn lại: 51.496.451 đồng Những tài sản này vẫn còn giá trị còn lại. Công ty giải thích những tài sản này một phần là khi bàn giao giữa 4 xí nghiệp kinh doanh không kiểm kê thực tế nên sau này mới phát hiện thiếu nhưng vẫn không làm thủ tục giảm trên sổ sách. Một số tài sản, chủ yếu là nhà cửa đã phá dỡ để lấy đất xây dựng công trình khác, đáng ra phải hạch toán vào nguyên giá của công trình mới nhưng công ty không thực hiện. Ngoài ra còn một số máy móc thiết bị đã hử hỏng, vứt bỏ, hoặc đã tháo từng bộ phận để lắp vào máy móc thiết bị khác. Tuy nhiên đó là giải thích do đơn vị đưa ra, còn nguyên nhân thực tế thì rất khó phát hiện để quy trách nhiệm cá nhân và đòi bồi thường vật chất. Qua đó ta có thể nhận thấy công tác quản lý tài sản của đơn vị rất kém. Hàng năm, đơn vị không tiến hành kiểm kê thực tế tài sản mà chỉ theo dõi trên sổ sách. Ngoài ra, công ty rất tuỳ tiện trong việc xử lý tài sản, không đảm bản các thủ tục hành chính theo đúng quy định của nhà nước. Do các tài sản này còn giá trị còn lại nên cũng là một vấn đề cần được xử lý. 2.2.2/ Tài sản không cần dùng, chờ thanh lý: Khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đề nghị loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp và xin thanh lý một số tài sản, chi tiết tại phụ lục 4. Những tài sản này cũng gây khó khăn cho quá trình cổ phần hóa thể hiện ở những mặt sau: Thứ nhất, tất cả các tài sản này tuy đã sử dụng từ lâu nhưng tất cả đều vẫn còn giá trị còn lại. Thứ hai, trong tài sản này, có một số là nhà cửa, vật kiến trúc mặc dù đã bỏ hoang nhưng không thể bàn giao hoặc thanh lý được vì nằm trong trên diện tích đất mà công ty đang quản lý và sử dụng và diện tích đất này dự kiến giao lại cho công ty cổ phần. Thứ ba, có một tài sản là nhà ở, nhà tập thể hiện đã bị dân cư chiếm dụng làm nhà ở, hiện nay không có khả năng đòi lại. 2.2.3. Về đầu tư dài hạn của Công ty: * Năm 1997, Công ty có đầu tư xây dựng một nhà nghỉ tại thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, từ khi dự án được đưa vào khai thác chưa năm nào có lãi. Nguyên nhân là do công tác quản lý của đơn vị rất kém, lại ở xa. Từ năm 2001 trở lại đây thì công ty thực hiện cơ chế khoán doanh thu với khách sạn trên, tuy vậy hiệu quả vẫn không cao. Khi tiến hành cổ phần hoá, nếu tính cả giá trị khách sạn trên vào giá trị doanh nghiệp thì giá trị doanh nghiệp sẽ rất lớn nên Công ty đề nghị được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp. * Ngoài ra, năm 2001, Công ty có góp vốn với Công ty Đầu tư xây dựng và Kinh doanh nhà (cũng thuộc Huyện Từ Liêm) đầu tư một liên doanh khai thác cát. Tuy nhiên, liên doanh này cũng hoạt động không có hiệu quả, thua lỗ thường xuyên. Đối với Công ty Đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà, là một đơn vị mạnh của huyện Từ Liêm thì thua lỗ của liên doanh này không ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty nhưng đói với Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm thì đây là một khó khăn lớn. Bảng 2: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của liên doanh khai thác cát Đơn vị: đồng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 -30.245.789 -24.158.753 -21.458.789 -25.145.789 -15.248.599 -10.459.789 * Năm 2005, Công ty có góp vốn liên doanh với Công ty Contrexim xây dựng Trung tâm thương mại tại thôn Kiều Mai, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm. Tuy nhiên, do những biến động trên thị trường vật liệu xây dựng nên tiến độ xây dựng rất chậm, đã hơn hai năm kể từ khi khởi công nhưng vẫn chưa xây dựng xong. 2.3/ Chi phí treo và các khoản lỗ luỹ kế. Năm 1992, Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm được thành lập trên cơ sở sáp nhập 4 xí nghiệp kinh doanh không có hiệu quả của huyện Từ Liêm. Từ ngày thành lập, Công ty kinh doanh không có hiệu quả. Thua lỗ kéo dài thường xuyên. Cụ thể kết quả kinh doanh của Công ty qua các năm: Bảng 3: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Năm Lợi nhuận sau thuế 1998 - 218.894.503 1999 - 121.791.058 2000 - 250.645.616 2001 - 422.529.477 2002 - 325.215.540 2003 - 444.897.789 2004 - 538.177.069 2005 - 515 177 459 2006 - 487 215 789 2007 -545 548 931 Tổng lỗ luỹ kế -2.322.151.052 (Nguồn: báo cáo tài chính của Công ty DVNN Từ Liêm các năm) Nguyên nhân là do trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp yếu kém, không có sự nhạy bén trong quá trình sản xuất kinh doanh nên không nhận được việc làm. Hàng năm, công ty tiền trả lương cho cán bộ công nhân viên được lấy từ tiền cho thuê nhà cửa. Mặt khác, Công ty thực hiện cơ chế khoán cho các Xí nghiệp, các đội, cửa hàng. Do cơ chế khoán không hợp lý nên các khoản thu về cho công ty không đủ để bù đắp chi phí quản lý thường xuyên và khấu hao tài sản. Ngoài ra, do kinh doanh thua lỗ thường xuyên nên nhiều khoản chi phí, Công ty đã chi nhưng không có nguồn bù đắp nên vẫn treo trên sổ sách kế toán tại tài khoản “Chi phí chờ kết chuyển: Tính đến 31/12/2006 tổng chi phí đơn vị còn treo lại là: 321.676.611 đồng. Mặc dù đơn vị báo cáo lỗ nhưng khi quyết toán thuế, Cục thuế Hà Nôi lại xác định đơn vị có lãi. Nguyên nhân là do khâu quản lý chứng từ yếu kém, cơ chế khoán không chặt chẽ vì vậy chứng từ của đơn vị đa số không hợp lý, hợp lệ. Khi kiểm tra, do không đủ chứng từ nên Cục thuế Hà Nội thực hiện áp thuế thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu nên mặc dù báo cáo lỗ nhưng Cục thuế vẫn ra quyết định truy thu thuế, đến nay Công ty vẫn chưa có nguồn để nộp. Bảng 6: Kết quả kinh doanh của Công ty và kết quả xác định của Cục thuế Hà Nội Đơn vị tính: đồng Năm Doanh thu CT báo cáo lỗ Cục thuế ấn định thu nhập chịu thuế Thuế TNDN phải nộp 2002 3.470.883.074 - 325.215.540 370.514.166 118.564.533 2003 3.572.916.712 - 444.897.789 163.704.226 52.285.352 2004 5.998.234.567 - 538.177.069 234.478.733 75.033.069 2005 5.470.710.156 - 515 177 459 367.749.237 757.679.755 2006 5.570.054.830 - 487 215 789 274.296.081 76.802.903 2007 6.214.753.951 - 545 548 931 367.127.849 102.795.798 Tổng -1.308.290.398 1.003.562.709 (Nguồn: báo cáo tài chính và quyết toán thuế các năm của Công ty) Chính vì vậy, hiện nay, liên ngành vẫn chưa thống nhất được cách xử lý kinh doanh thu lỗ của Công ty. Nếu xử lý theo kết quả của doanh nghiệp thì sẽ thuộc loại xử lý lỗ luỹ kế. Nếu xử lý theo kết quả của Cục thuế Hà Nội thì sẽ là xử lý khoản nợ ngân sách không có nguồn bù đắp. 2.4/ Chi quá quỹ khen thưởng phúc lợi. Mặc dù kinh doanh thu lỗ nhưng hàng năm, giám đốc Công ty vẫn chi quỹ khen thưởng phúc lợi cho cán bộ công nhân viên. Đến nay, quỹ khen thưởng phúc lợi đã chi quá là 252.973.953 đồng. Cụ thể: Tõ n¨m 2001 trë vÒ tr­íc chi: 130.427.586 ® N¨m 2002 chi: 20.100.000 ® N¨m 2003 chi: 26.312.717 ® N¨m 2004 chi: 32.491.800 ® N¨m 2005 chi: 28.154.258 đ Năm 2006 chi: 15.487.592 đ CH¦¥NG III: GIẢI PHÁP XỬ LÝ CÁC VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH KHI XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIÊP CỔ PHẦN HÓA A/ GIẢI PHÁP XỬ LÝ CÁC VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. I. Định giá tài sản: Hiện tại ở Việt Nam, việc định giá tài sản vẫn mang tính chủ quan là chủ yếu, chưa có những phương pháp cụ thể để xác định giá trị tài sản. Vì vậy, việc xây dựng các phương pháp để xác định giá trị tài sản là rất quan trọng. Trên thực tế có nhiều phương pháp khác nhau để định giá tài sản. Mỗi phương pháp định giá đều có những ưu thế và những hạn chế nhất định. Có thể kể đến một số phương pháp định giá tài sản phổ biên sau: 1. Phương pháp so sánh trực tiếp: Phương pháp so sánh trực tiếp được xây dựng dựa trên nguyên tắc thay thế, đó là, đó là một người mua thận trọng sẽ không bỏ ra một số tiền nào đó nếu anh ta tốn ít tiền hơn mà vẫn có được những tài sản tương đương để thay thế. Theo nguyên tắc này, giá trị tài sản mục tiêu được coi là hoàn toàn có thể ngang bằng với giá trị của những tài sản tương đương có thể so sánh được. Như vậy, xét về mặt kỹ thuật, theo phương pháp này người ta không cần thiết phải xây dựng các công thức hay mô hình tính toán, mà đơn giản chỉ cần đi tìm các bằng chứng đã được thừa nhận về giá trị của tài sản tương đương có thể so sánh được trên thị trường. * Ưu điểm của phương pháp: Đây là phương pháp phổ biến rộng rãi và được sử dụng nhiều nhất trong thực tế xuất phát từ 2 ưu điểm cơ bản sau: - Là phương pháp định giá ít gặp khó khănvề mặt kỹ thuật vì không có công thức hay mô hình cố định mà chỉ dựa vào sự hiện diện của các giao dịch thị trường để cung cấp các dấu hiệu về giá trị. - Là phương pháp thể hiện sự đánh giá của thị trường- đó là các bằng chứng rõ ràng- đã được thừa nhận trên thực tế về giá trị của tài sản. Vì vậy nó có cơ sở vững

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7914.doc
Tài liệu liên quan