Luận văn Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại địa bàn tỉnh Gia Lai

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ, đồ thị

MỞ ĐẦU. 1

1. Lý do chọn đề tài luận văn. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn. 3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn. 6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn. 6

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩ thực tiễn của luận văn . 7

7. Kết cấu của luận văn . 8

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ. 9

1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ . 9

1.2. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ . 22

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ . 40

Tiểu kết Chương 1. 45

Chương 2. THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG

LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA

LAI . 46

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Gia Lai. 46

pdf117 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại địa bàn tỉnh Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể nói là lỏng lẻo, tình trạng mạnh ai người đó làm vẫn còn diễn ra phổ biến, vì vậy hiệu quả của hoạt động này cũng bị ảnh hưởng. Việc phân công, phân cấp và quy trách nhiệm cho các chủ thể trong công tác xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB hiện nay còn nhiều bất cập, nhiệm vụ này chủ yếu dồn cho CSGT và Thanh tra Giao thông, trong khi đó lực lượng này lại quá tập trung vào hoạt động xử phạt, vì vậy có thể nói tính hiệu quả của hoạt động xử lý không đáp ứng được những kỳ vọng của nhà nước và xã hội. 1.3.3. Đội ngũ cán bộ, công chức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ Trong xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ thì năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng chức năng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Trong thực tiễn vẫn còn tình trạng cán bộ được giao thẩm quyền xử lý các VPHC trong lĩnh vực 42 GTĐB còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ; kiến thức pháp luật về xử lý VPHC còn chưa đầy đủ, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ còn lúng túng khi áp dụng pháp luật vào xử lý những tình huống cụ thể; có trường hợp người làm công tác xử lý không nắm được đầy đủ những kiến thức liên quan đến hoạt động này. Điều này đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến công tác xử lý với các hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Bên cạnh sự yếu kém về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ làm ảnh hưởng đến năng lực thực thi pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB thì kỹ năng xử lý tình huống cũng là một vấn đề cần phải lưu ý, phải xác định rõ tầm quan trọng của kỹ năng xử lý và giải quyết tình huống trong công tác xử lý VPHC về GTĐB để từ đó có những giải pháp kịp thời để nâng cao kỹ năng này cho đội ngũ thực thi công vụ. 1.3.4. Ý thức pháp luật của cá nhân, tổ chức đối với xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ Nhận thức của người tham gia giao thông ở Việt Nam, và trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng khi tham gia giao thông nhìn chung còn thấp; chính bởi nhận thức của người tham gia giao thông không cao, vì vậy dẫn đến những sai lệch hành vi của người tham gia giao thông, điều này được thể hiện thông qua tình hình VPHC trong lĩnh vực GTĐB của người tham gia giao thông vẫn còn ở mức cao. Trong các hành vi sai lệch của nhóm đối tượng điều khiển xe mô tô, xe gắn máy và các phương tiện tương tự được khảo sát, thì hành vi không mang theo giấy phép lái xe hoặc bảo hiểm dân sự bắt buộc là cao nhất, chiếm 70,08%, bởi họ quan niệm với những loại giấy tờ đó không cần thiết phải mang theo khi điều khiển phương tiện xe cơ giới; tiếp đó, các vi phạm như không đội mũ bảo hiểm hay không chấp hành đèn tín hiệu giao thông cũng là những vi phạm phổ biến. Mặc dù theo quy định của pháp luật đây là những yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các chủ thể điều khiển phương tiện khi tham gia giao thông, nhưng do ý thức pháp luật của các chủ thể này không cao vì 43 thế đã dẫn đến những hành vi sai lệch như trên. Cũng từ sự yếu kém về ý thức của các chủ thể khi tham gia gia thông, vì vậy khi tiến hành xử lý đối với các vi phạm của các chủ thể này, đã gặp nhiều khó khăn, bởi nhiều người vi phạm nhận thấy vi phạm của mình chưa đến mức phải xử lý và các lực lượng chức năng hoàn toàn có thể “thông cảm” và “bỏ qua”; khi không được “thông cảm” hay “bỏ qua” thì xuất hiện xung đột thậm chí va chạm giữa người vi phạm và các lực lượng chức năng. Số vụ việc có biểu hiện chống lại các lực lượng chức năng của người vi phạm giao thông trong những năm gần đây đang có xu hướng gia tăng là một minh chứng cho vấn đề này. Bên cạnh đó cũng xuất phát từ ý thức pháp luật của một bộ phận người vi phạm, vì lợi ích cá nhân (đặc biệt lợi ích về kinh tế), nên tâm lý muốn giảm bớt các thiệt hại cho bản thân mà sẵn sàng “làm luật” còn phổ biến, dẫn đến tình trạng “chung chi” cho lực lượng thi hành công vụ còn diễn ra; cũng như việc một số người có thẩm quyền xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB lợi dụng quyền hạn của mình đế nhũng nhiễu, đòi người vi phạm “chung chi”. Thậm chí một số trường hợp lợi dụng sự thiếu kiến thức pháp luật về GTĐB của người tham gia giao thông để “hù dọa” buộc người vi phạm phải “làm luật” [6] theo Báo cáo số 171-BC/BTGTU của Ban tuyên Giáo Tỉnh ủy Gia Lai, điều này đã làm ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Vì vậy bên cạnh việc nâng cao nhận thức của người tham gia giao thông thì còn phải thay đổi nhận thức của các chủ thế có thẩm quyền xử lý các VPHC trong lĩnh vực GTĐB về tầm quan trọng của việc chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực này, và cần phải có biện pháp xử lý thực sự nghiêm khắc đối với những vi phạm của các chủ thế có thẩm quyền xử lý. Nhận thức của chủ thể có thẩm quyền xử lý VPHC trong GTĐB cũng còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục. Do nhận thức xử lý VPHC trong lĩnh 44 vực GTĐB chỉ là xử phạt các hành vi VPHC trong lĩnh vực này, vì vậy lực lượng này chỉ chú ý vào việc là phải cố gắng đế hoàn thành nhiệm vụ xử phạt mà không chú ý đến những hoạt động khác. Trong khi đó rõ ràng xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB không chỉ thuần túy là hoạt động xử phạt mà còn bao gồm cả những biện pháp ngăn chặn và khắc phục hậu quả. Hơn thế thông qua hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB các chủ thể có thẩm quyền còn phải làm tốt nhiệm vụ tuyên truyện vận động dẫn đến thay đổi nhận thức của người vi phạm về trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như các lợi ích khi họ chấp hành đúng các quy định của pháp luật khi tham gia GTĐB. Vì vậy cần phải có một nhận thức thực sự đúng đắn và đầy đủ về bản chất cũng như nội dung của hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, có như vậy mới có thể mang lại những hiệu quả mong muốn. Trong nhận thức của một số cán bộ, chiến sĩ làm công tác xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB còn hiểu chưa đúng về tính chất và mục đích của công tác tuần tra, kiểm soát, và khi xử lý vi phạm mong muốn được làm công việc này để đem lại những lợi ích cho bản thân, vì vậy đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực này. 1.3.5. Đầu tư nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật đối với xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ Thực tiễn cho thấy khi chúng ta có được nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật đủ mạnh thì chúng ta mới có điều kiện để đầu tư cho các hoạt động hoàn thiện pháp luật (trong đó có pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB), cũng như có những chính sách đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, từ đó hạn chế những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực trong thực thi công vụ của nhóm chủ thể này. 45 Tiểu kết Chương 1 Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài nghiên cứu, ở Chương 1, luận văn tập trung xây dựng cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB thông qua việc phân tích, làm rõ khái niệm vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB; chỉ ra các đặc điểm của vi phạm hành chính và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích, rút ra khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là hoạt động của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt VPHC, các biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử lý VPHC đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB nhằm đảm bảo trật tự ATGTĐB. Đồng thời, xác định 06 đặc điểm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB; 07 nguyên tắc chung, 02 nguyên tắc riêng cho hoạt động xử lý VPHC trong GTĐB và xác định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB. Đặc biệt, quá trình tổ chức thực hiện và kết quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB nói riêng chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố cơ bản như: Mức độ hoàn thiện của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của bộ máy xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Đội ngũ cán bộ, công chức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Ý thức pháp luật của cá nhân, tổ chức đối với xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Đầu tư nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật đối với xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. 46 Chương 2 THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Gia Lai 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - an ninh quốc phòng. Với diện tích tự nhiên 15.510,99 km2, phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp tỉnh Đăk Lăk; phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên; phía Tây giáp tỉnh Ratanakiri (Vương quốc Campuchia) với đường biên giới dài 90 km, trong đó có hơn 19 km đường biên giới trên sông. Với địa hình đồi núi, nhiều đèo dốc quanh co. Gia Lai hiện có 17 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Pleiku, thị xã An Khê, thị xã Ayun Pa và các huyện Chư Sê, Chư Pưh, Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa, Đăk Đoa, Mang Yang, Đăk Pơ, Chư Păh, Kông Chro, Kbang, Chư Prông, Đức Cơ và Ia Grai; trong đó có 222 đơn vị cấp xã gồm: 24 phường, 14 thị trấn và 184 xã, 2.161 tổ dân phố, thôn làng, trong đó có 3 huyện, 7 xã biên giới [10]. 2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Gia Lai thuộc vùng khí hậu cao nguyên nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao, có lượng mưa lớn, hầu như không có bão và chỉ ảnh hưởng bởi áp thấp nhiệt đới. Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh: Tổng sản phẩm GRDP (tính theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 33.739,3 tỷ đồng, tăng 7,44% so với cùng kỳ năm 2014 (nông-lâm nghiệp, thủy sản tăng 6,28%; công nghiệp-xây dựng 47 tăng 8,82%; dịch vụ tăng 7,66%, thuế sản phẩm tăng 6,09%). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực; GDP bình quân đầu người đạt 35 triệu đồng [5]. Dân số toàn tỉnh Gia Lai tính đến hết năm 2017 là 1.437.400 người. Mật độ dân số bình quân là 99,67 người/km2. Tỉnh có 34 cộng đồng dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 44,75%. Dân tộc Kinh chiếm 55,3% dân số, dân tộc Jrai (29,5%), dân tộc Bahnar (12%), còn lại dân tộc Giẻ-triêng, Xơ-đăng, Thái, Mường... Cư dân Gia Lai có thể chia làm hai bộ phận: Bộ phận cư dân bản địa đã sinh sống ở Gia Lai từ lâu đời gồm dân tộc Jrai và dân tộc Bahnar, bộ phân cư dân mới đến bao gồm người Việt và các dân tộc ít người khác [10]. 2.1.3. Hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai Do đặc thù địa hình của tỉnh Gia Lai phần lớn là cao nguyên, đồi núi, nên giao thông trên địa bàn tỉnh chủ yếu giao thông đường bộ. Mạng lưới giao thông đường bộ của tỉnh phát triển khá, được xếp loại trung bình của cả nước. Tổng chiều dài đường bộ trong tỉnh khoảng 12.224 km, mật độ đường toàn tỉnh bình quân đạt 0,79 km/km2 và 8,72 km/1.000 dân. Trong đó: quốc lộ dài 764 km (6,25%), đường tỉnh 10 tuyến dài 372 km (3,04%), đường đô thị 965 km (7,89%), đường huyện 1.900 km (15,54%); đường xã, phường, thị trấn, thôn xóm, khu phố khoảng 7.706 km (63,04%), đường chuyên dùng 517 km(4,23%) và 167 cầu với tổng chiều dài 7548 md (mét dài) cầu. Mạng lưới đường bộ hợp lý, đảm bảo sự liên hoàn, thông suốt giữa các huyện, thị xã, thành phố, giữa giao thông tỉnh với giao thông quốc gia. Tổng quan hiện trạng các tuyến đường khái quát như sau: Quốc lộ: Qua địa bàn tỉnh gồm các tuyến QL.19, QL.19D, Đường Hồ Chí Minh (QL.14), QL.14C, QL25, Đường Trường Sơn Đông và Đường Hồ Chí Minh tuyến tránh TP Pleiku, Đường Hồ Chí Minh tuyến tránh Chư Sê. 48 Đường tỉnh: Mạng đường Tỉnh gồm 10 tuyến với tổng chiều dài 372 km; trong đó bao gồm: Bê tông xi măng 11,48km; bê tông nhựa 177,62km; láng nhựa 114,02 km; đường đất 68,91km. Cụ thể: Mạng lưới đường đô thị: Hiện tại toàn tỉnh có 965 km, với 371 Km là mặt đường BTN; 136 mặt đường BTXM; 261 Km mặt đường láng nhựa; 196 Km đường cấp phối và đường đất. Mạng lưới đường huyện, đường xã: Hiện tại toàn tỉnh có 1.900 km đường huyện (với khoảng trên 68,61% đã có kết cấu mặt) và 6.021 km đường xã và đường thôn buôn (với khoảng trên 40,41% đã có kết cấu mặt). Đường chuyên dùng: Hiện tại toàn tỉnh có khoảng 517 km đường chuyên dùng chủ yếu phục vụ cho các công ty cao su, nông, lâm trường, trong đó có khoảng 30% km đường đã có kết cấu mặt, còn lại là đường đất. 6% 3% 16% 63% 8% 4% Quốc lộ Đường tỉnh Đường huyện Đường xã Đường Đô thị Đường chuyên dùng Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ các loại đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai (Nguồn: Sở Giao thông vận tải tỉnh Gia Lai) 2.1.4. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ: Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, số lượng phương tiện cơ giới đường bộ trong tỉnh tăng nhanh trong thời gian vừa qua. Tính đến 31/12/2018, tổng số phương tiện cơ giới đường bộ đã đăng ký là 837.109 phương tiện. Ngoài ra còn có 38.646 xe máy kéo nhỏ phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp chưa được đăng ký vì vướng mắc về thủ tục. 49 Biểu đồ 2.2: Phương tiện cơ giới đường bộ tỉnh Gia Lai (Nguồn: Công an tỉnh Gia Lai) 2.2. Thực trạng tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai 2.2.1 Tai nạn giao thông đường bộ Thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông và Nghị quyết số 30/NQ-CP, ngày 01/3/2013 của Chính phủ ban hành chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW, tình hình tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh trong thời gian gần đây có xu hướng giảm cả 3 tiêu chí song diễn biến phức tạp, rất khó lường. Từ năm 2013 đến năm 2018 toàn tỉnh xảy ra 2.421 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1.415 người và bị thương 2.737 người. 50 Bảng 2.1 Thống kê tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh Gia Lai Năm Số vụ Số người chết Số người bị thương 2013 436 236 512 2014 340 211 348 2015 412 269 472 2016 425 234 494 2017 413 233 486 2018 395 232 425 Tổng 2.421 1.415 2.737 (Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh Gia Lai) Theo báo cáo kết quả điều tra dư luận xã hội về công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai thì đa số các ý kiến cho rằng tình hình trật tự an toàn giao thông thời gian qua có chuyển biến ở cả 03 khu vực: thành phố, thị xã, thị trấn và nông thôn. Trong đó khu vực thành thị có chuyển biến tích cực nhất (27.2%) và khu vực nông thôn được đánh giá là có chuyển biến nhưng còn hạn chế (19.3%); khu vực thị trấn được đánh giá là có chuyển biến ngày càng phức tạp (15.2%). 2.2.2. Tỷ lệ tai nạn giao thông trên 10.000 phương tiện Số lượng phương tiện giao thông cơ giới những năm qua tăng nhanh chóng. Trong khi đó, số vụ tai nạn giao thông và số người chết có sự biến động, tăng, giảm thất thường dẫn đến số người chết trên 10.000 phương tiện có sự thay đổi không ổn định. 51 Đồ thị 2.1: Quan hệ gia tăng phương tiện cơ giới đường bộ và tai nạn giao thông đường bộ tỉnh Gia Lai (Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh Gia Lai) Tai nạn giao thông theo mức độ nghiêm trọng: Các tai nạn nghiêm trọng chiếm khoảng 46.3% tổng số vụ tai nạn giao thông. Các tai nạn rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm khoảng 5.6%. Tỷ lệ của cùng một mức độ nghiêm trọng tăng, giảm thất thường. Từ đó, có thể thấy tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh có diễn biến phức tạp và khó lường. Biểu đồ 2.3: Thống kê mức độ nghiêm trọng của tai nạn giao thông đường bộ tỉnh Gia Lai (Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh Gia Lai) 52 2.2.3. Tai nạn giao thông liên quan đến người đồng bào dân tộc thiểu số Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 44.75% dân số của tỉnh, trình độ văn hóa còn nhiều hạn chế. Về tai nạn giao thông có liên quan đến người đồng bào dân tộc thiểu số trong những năm qua có xu hướng tăng dần qua từng năm. Từ năm 2013 đến năm 2018 xảy ra 612 vụ tai nạn giao thông liên quan đến người đồng bào dân tộc thiểu số (chiếm 25.3% tổng số vụ), làm chết 499 người (chiếm 30.3% tổng số người chết vì tai nạn giao thông) và bị thương 541 người (chiếm 19.8% tổng số người bị thương) Bảng 2.2 Thống kê tai nạn giao thông liên quan đến người đồng bào dân tộc thiểu số Năm Số vụ Số người chết Số người bị thương 2013 58 60 50 2014 75 69 53 2015 84 91 83 2016 101 95 75 2017 138 72 127 2018 156 112 153 Tổng 612 499 541 (Nguồn: Công an tỉnh Gia Lai) 2.2.4. Tai nạn giao thông liên quan đến xe công nông, xe tự chế Luật Giao thông đường bộ năm 2001, đặc biệt là Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông đã quy định “ từ ngày 01/01/2008 đình chỉ lưu hành xe công nông, xe tự chế 3,4 bánh”. Đến Nghị quyết số 05/2008/NQ-CP ngày 04/02/2008, Chính phủ có quy định các tỉnh, thành phố hoàn thành trước 31/12/2008. Tuy nhiên, cũng như các địa phương 53 có đặc thù chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, thì việc sử dụng xe tự chế, xe công nông để phục vụ sản xuất vẫn diễn ra. Với đặc điểm của phương tiện không đảm bảo về điều kiện an toàn kỹ thuật do đó trong những năm qua đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông liên quan đến xe tự chế, xe công nông, mức độ nguy hiểm cao: 110 người chết/111 vụ tai nạn giao thông. Bảng 2.3 Thống kê tai nạn giao thông liên quan đến xe công nông Năm Số vụ Số người chết Số người bị thương 2013 19 19 27 2014 17 17 3 2015 25 32 23 2016 17 17 7 2017 13 11 5 2018 20 14 19 Tổng 111 110 84 (Nguồn: Công an tỉnh Gia Lai) Tuyến đường xảy ra tai nạn: Tai nạn xảy ra trên quốc lộ chiếm 33.3% (806/2.421 vụ), đường tỉnh chiếm 12.2% (296/2.421 vụ), đường nội thị chiếm 13.3% (323/2.421 vụ) và đường giao thông nông thôn chiếm 13.3% (323/2.421 vụ). Biểu đồ 2.4: Tai nạn giao thông theo loại đường (Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh Gia Lai) 54 2.2.5. Phương tiện, đối tượng trực tiếp gây ra tai nạn Tai nạn chủ yếu do phương tiện mô tô. Từ năm 2013 đến năm 2018 phương tiện, đối tượng trực tiếp gây ra tai nạn cụ thể như sau: Mô tô 1.006 trường hợp (chiếm 63.7%), ô tô 321 trường hợp (chiếm 20.3%), người đi bộ 47 trường hợp (chiếm 3%), phương tiện khác 57 trường hợp (chiếm 3.6%), chưa rõ 149 trường hợp (chiếm 9.4%) Bản 2.4 Thống kê loại đối tượng gây tai nạn giao thông Năm Ô tô Mô tô Người đi bộ Phương tiện khác Chưa rõ 2013 43 122 6 10 32 2014 47 123 6 7 6 2015 44 138 5 16 23 2016 50 134 3 8 19 2017 92 280 17 10 14 2018 115 209 10 6 55 Tổng 321 1.006 47 57 149 (Nguồn: Công an tỉnh Gia Lai) 2.2.6. Giới tính, độ tuổi và thời gian xảy ra các vụ tai nạn giao thông Giới tính trong các vụ tai nạn giao thông: Nam chiếm 85.3%, nữ chiếm 5%, còn lại chưa rõ đối tượng gây tai nạn giao thông chiếm 9.7%. Bảng 2.5 Thống kê giới tính chủ thể trong các vụ tai nạn giao thông Năm Nam Nữ Chưa rõ 2013 176 7 30 2014 174 8 7 2015 202 13 11 2016 183 9 22 2017 361 28 24 2018 312 17 66 Tổng 1.408 82 160 (Nguồn: Công an tỉnh Gia Lai) Độ tuổi trong các vụ tai nạn giao thông: Chủ yếu xảy ra ở độ tuổi từ 18 đến 55 tuổi 55 Bảng 2.6 Thống kê độ tuổi chủ thể trong các vụ tai nạn giao thông Năm Dưới 18 tuổi Từ 18-30 tuổi Từ 31 đến 55 tuổi Trên 55 tuổi Chưa rõ tuổi 2013 20 68 80 8 37 2014 25 64 80 12 8 2015 29 90 70 8 29 2016 18 89 75 11 21 2017 44 182 141 19 27 2018 32 152 128 18 65 Tổng 168 645 574 76 187 Tỷ lệ 10.2% 39.1% 34.8% 4.6% 11.3% (Nguồn: Công an tỉnh Gia Lai) Thời gian xảy ra tai nạn giao thông đường bộ: Từ 7h đến 11h (184 vụ, chiếm 11.2%), từ 11h đến 13h (98 vụ chiếm 6%), từ 13h đến 17h (342 vụ chiếm 20.7%), từ 17h đến 22h (792 vụ chiếm 48%), từ 22h đến 7h hôm sau (234 vụ, chiếm 14.2%) Bảng 2.7 Thống kê thời gian xảy ra tai nạn giao thông Năm Từ 7h đến 11h Từ 11h đến 13h Từ 13h đến 17h Từ 17h đến 22h Từ 22h đến 7h hôm sau 2013 19 20 56 80 38 2014 27 6 42 79 35 2015 21 12 49 116 28 2016 20 13 41 108 32 2017 40 22 76 220 55 2018 57 25 78 189 46 Tổng 184 98 342 792 234 (Nguồn: Công an tỉnh Gia Lai) 2.2.7. Nguyên nhân gây tai nạn giao thông 56 Qua bảng thống kê số liệu cho thấy, tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh xảy ra chủ yếu do lỗi của người tham gia giao thông (chiếm 98.1%). Các lỗi phổ biến gồm: Lấn đường, đi sai làn đường, phần đường; vi phạm tốc độ; không chú ý quan sát; tránh, vượt sai quy định; sử dụng rượu bia; vi phạm quy trình, thao tác xe. Có thể thấy, ý thức chấp hành pháp luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ của người tham gia giao thông hiện nay còn thấp. Bảng 2.8 Thống kê nguyên nhân gây tai nạn giao thông Nguyên nhân 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng Không chú ý quan sát 40 32 40 49 86 65 312 Tránh, vượt sai quy định 26 22 21 37 69 75 250 Vi phạm tốc độ 52 43 46 25 78 78 322 Lấn đường, đi sai phần đường, .. 84 72 94 73 154 127 604 Vi phạm quy trình, thao tác lái xe 10 13 3 4 1 3 34 Phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật 6 7 9 3 5 4 34 Sử dụng rượu bia 29 25 21 9 22 39 145 Nguyên nhân khác 9 5 4 4 22 43 87 Tổng số lỗi vi phạm 256 219 238 204 437 434 1.788 (Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh Gia Lai) 57 2.3. Phân tích thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai 2.3.1. Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai Thực tế cho thấy, các lực lượng chức năng trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã có nhiều cố gắng trong triển khai thực hiện việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB. Coi đây là một trong những biện pháp mang tính răn đe nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm tiếp theo, đa số các vụ vi phạm đều đã được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ vẫn diễn ra thường xuyên. Các vi phạm chủ yếu: Vi phạm hành lang an toàn giao thông đường bộ như lấn, chiếm, chiếm dụng vỉa hè, lòng đường trái phép để buôn bán hoặc nơi trông giữ xe, vi phạm hành lang bảo vệ đường bộ, dừng, đỗ phương tiện trên lòng đường, đua xe,.... Từ năm 2013 đến năm 2018 qua công tác kiểm tra, kiểm soát của các lực lượng chức năng: Thanh tra giao thông, cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự, công an xã, lực lượng tự quản an toàn giao thông tham gia tuần tra kiểm soát và lực lượng kiểm soát quân sự đã phát hiện 654.898 trường hợp vi phạm, trong đó nhắc nhở 192,117 trường hợp và xử lý 462.781 trường hợp với tổng số tiền là 234.701 tỷ. Bảng 2.9 Thống kê kết quả xử lý vi phạm Năm Phát hiện Nhắc nhở Xử lý Phạt tiền 2013 106.153 22.787 83.366 37.756 2014 114.865 33.280 81.585 34.723 2015 107.537 34.333 73.204 33.560 2016 88.918 20.456 68.462 43.632 2017 121.584 46.144 75.440 49.240 2018 115.841 35.117 80.724 44.790 Tổng 654.898 192.117 462.781 234.701 (Nguồn: Sở Giao thông vận tải và Công an tỉnh Gia Lai) 58 2.3.2. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai Lực lượng có chức năng tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đường bộ gồm có Công an tỉnh (gồm: cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự, cảnh sát cơ động, công an xã, phường, thị trấn), Thanh tra giao thông và lực lượng kiểm soát quân sự. Hàng năm, đều tăng cường, bổ sung lực lượng, phương tiện đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ đạt kết quả như sau: Công an tỉnh: Tăng cường chỉ đạo các đơn vị, công an các địa phương thường xuyên phối hợp, huy động lực lượng, phương tiện, phát huy tối đa hiệu quả thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, mở các đợt cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; trong đó, tập trung vào các dịp lễ, tết, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, của dân tộc, của tỉnh, tập trung kiểm tra, xử lý nghiêm các đối tượng có nguy cơ gây tai nạn cao, trên tất cả các tuyến, địa bàn, vào thời gian cao điểm thường xảy ra tai nạn giao thông; kết hợp giữa biện pháp tuần tra, kiểm soát công khai với hóa trang, bí mật sử dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ. Thông qua công tác tuần tra, kiểm soát, lực lượng Cảnh sát giao thông phát hiện và xử lý nhiều trường hợp sử dụng giấy phép lái xe giả, không hợp lệ, chứng nhận đăng ký giả, chứng nhận đăng ký, giấy chứng nhận kiểm định tẩy xóa; kịp thời bắt giữ, bàn giao lực lượng nghiệp vụ xử lý nhiều đối tượng, vụ việc phạm tội liên qua

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_xu_ly_vi_pham_hanh_chinh_trong_linh_vuc_giao_thong.pdf
Tài liệu liên quan