Luận văn Xuất nhập khẩu giấy và bột giấy tại VINAPACO: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương I: Thực trạng XNK giấy và bột giấy tại VINAPACO 3

1.1. Giới thiệu về Tổng Công Ty giấy Việt Nam. 3

1.2. Đặc điểm mặt hàng kinh doanh. 5

1.2.1. Đặc điểm của bột làm giấy. 5

1.2.2. Đặc điểm của sản phẩm giấy. 7

1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu của TCT giấy Việt Nam. 12

1.3.1. Nhóm nhân tố quốc tế. 12

1.3.2. Nhúm các nhân tố trong nước. 16

1.3.3. Nhóm những nhân tố thuộc về Tổng công ty giấy. 22

1.4. Thực trạng xuất nhập khẩu giấy và bột giấy. 24

1.4.1. Tình hình sản xuất bột giấy tại Tổng công ty. 24

1.4.2. Thực trạng nhập khẩu bột giấy. 25

1.4.3. Tình hình xuất khẩu của công ty. 30

1.5. Đánh giá chung hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty giấy Việt Nam. 33

1.5.1. Thành tựu đã đạt được của Tổng công ty giấy Việt Nam. 33

1.5.2. Hạn chế của hoạt động xuất khẩu. 36

1.5.2.1. Nguyên nhân khách quan. 37

1.5.2.2. Nguyên nhân chủ quan. 38

Chương II: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu giấy và bột giấy tại VINAPACO. 40

2.1. Phương hướng và triển vọng kinh doanh xuất nhập khẩu của VINAPACO. 40

2.1.1. Bối cảnh thị trường bột giấy và giấy thế giới. 40

2.1.2. Định hướng xuất nhập khẩu của công ty trong thời gian tới. 42

2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu giấy và bột giấy. 45

2.2.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp. 45

2.2.1.1. Làm tốt công tác quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ để nâng cao chấy lượng đội ngũ cán bộ. 45

2.2.1.2. Duy trì các mối quan hệ với khách hàng, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm khách hàng mới. 46

2.2.1.3. Xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất. 46

2.2.1.4. Cải tiến khoa học công nghệ. 47

2.2.1.5. Huy động và sử dụng vốn hiệu quả. 47

2.2.1.6. Nâng cao hiệu quả giao dịch, đàm phán và kí kết hợp đồng xuất nhập khẩu. 48

2.2.1.7. Đa dạng hóa các phương thức xuất nhập khẩu. 49

2.2.1.8. Tối thiểu hóa cỏc chi phí để tăng lợi nhuận. 49

2.2.2. Giải pháp từ phía nhà nước. 49

2.2.2.1. Cung cấp cho doanh nghiệp các thông tin trên thị trường quốc tế, tăng cường các hoạt động xúc tiến hỗ trợ thương mại. 49

2.2.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật. 51

2.3. Kiến nghị từ Tổng công ty giấy. 52

2.4. Kiến nghị cá nhân. 52

Kết Luận 54

 

 

doc56 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3673 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất nhập khẩu giấy và bột giấy tại VINAPACO: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại các cửa khẩu, việc áp dụng các luật thuế mới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến quá trình xuất nhập khẩu. Nhà nước luôn luôn tạo điều kiện để xúc tiến nhanh quá trình xuất nhập khẩu nhưng việc áp dụng các văn bản đã được ban hành xem ra vẫn còn tồn tại một khoảng cỏch khỏ xa giữa văn bản và thực tế, giữa nói và làm, nhiều khi vẫn còn xảy ra " cuộc chiến " giữa " luật và lệ ". Thứ ba giá điện tăng 15.8% từ đầu tháng 3/2011 cũng khiến cho doanh nghiệp phải đối mặt với việc phải cân đối chi phí hiệu quả. Giá điện tăng kéo theo phải tăng lương cho người lao động, giá thành sản phẩm tăng theo tỉ lệ thuận, theo đó là việc cắt điện luân phiên ảnh hưởng tới sản xuất. Thiếu điện sản xuất đang là một bài toán khó đối với TCT để đạt được mục tiêu xuất khẩu giấy đạt 10.000 tấn. Hình 1.3: Biểu đồ mức tăng giá điện bình quân qua các năm. Nguồn: VNeconomy Thứ tư là lãi suất ngân hàng liên ngân hàng tại cỏc kỡ hạn ngắn tăng, kì hạn 1 tuần qua đêm hiện ở mức 13,28%/ năm, tăng 0,05 điểm % lãi suất cỏc kỡ hạn khác là 13% (đầu năm 2011). Ngành giấy đang chịu nhiều sức ép trước tỉ giá và lãi suất ngân hàng, trong khi đó nguồn vốn vay không ổn định. Lãnh đạo tổng công ty giấy cho biết: nhà máy sản giấy ở Long An đang tiến hành lắp đặt, xây dựng đến tháng 5/2011 sẽ xong và tháng 9 bắt đầu đi vào hoạt động nhưng đang rất thiếu vốn đầu tư cho dây chuyền. Chính vì vậy, TCT giấy đang kiến nghị chính phủ giúp chỉ định ngân hàng để được vay vốn đầu tư cho dây chuyền sản xuất, đồng thời vay vốn trồng rừng, đảm bảo nguồn nguyên liệu sẵn có. Thứ năm là tình hình nhân lực: Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào. Về ngắn hạn, nguồn nhân lực coi như không đổi trong thời gian tới, vì vậy ít tác động tới hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu. Với nguồn nhân lực như vậy rất thuận lợi cho việc thuê nhân công giá rẻ vào các khâu như trồng rừng, thu hoạch cây nguyên liệu. Thứ sáu là yếu tố công nghệ: Ngày nay, khi khoa học công nghệ tác động tới tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội mang lại nhiều lợi ích kinh tế, trong hoạt động xuất nhập khẩu nó cũng mang lại hiệu quả cao. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh ngiệp có thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, fax, điện tớn… Giảm bớt chi phí đi lại, xúc tiến hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời, nó giỳp cỏc nhà kinh doanh nắm bắt thông tin thị trường một cách chính xác, kịp thời. Bên cạnh đó, nhờ có công nghệ thông tin mà các doanh nghiệp ngoại thương có thể tiếp cận với các thành tựu công nghệ tiên tiến của thế giới, đổi mới công nghệ sản xuất. Khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hóa, các kỹ nghệ nghiệp vụ ngân hàng …. Đó cũng chính là các yếu tố tác động tới hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu. Thứ bảy là cơ sở hạ tầng: Đây là một yếu tố không thể thiếu nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: Đường xá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ thống thông tin, hệ thống ngân hàng…. Có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu các hoạt động này hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả xuất khẩu, ngược lại nó sẽ kìm hãm tiến trình xuất nhập khẩu. Nhóm những nhân tố thuộc về Tổng công ty giấy. Thứ nhất là quy mô sản xuất giấy: chỉ có 4 trong tổng số 7 doanh nghiệp thuộc TCT giấy có quy mô sản xuất trên 50.000 tấn/ năm còn lại là quy mô sản xuất vừa và nhỏ, sản lượng giấy hơn 68% phục vụ nhu cầu trong nước. Thứ hai là yếu tố tổ chức bộ máy quản lý: Là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống cán bộ công nhân viên nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hoạt động. Để quản lý tập trung thống nhất phải sử dụng phương pháp hành chính. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, cách điều hành sáng suốt sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngược lại nếu cơ cấu tổ chức xệch xoạc, cách điều hành kém cỏi sẽ dẫn đến hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh. Thứ ba là nguồn nhân lực: Con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người bởi vì nó là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu nhất. Đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác. Tinh thần làm việc được biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tình đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng điều hành, công tác nghiệp vụ cụ thể và qua kết quả của hoạt động. Để nâng cao vai trò của nhân tố con người, các doanh nghiệp một mặt phải chú trọng đào tạo cán bộ, công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ của họ, mặt khác, phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân, bao gồm cả lợi ích vật chất lẫn lợi ích tinh thần - đõy là điều mà tất cả các doanh nghiệp ngoại thương đều muốn thực hiện tốt trong bối cảnh tranh giành nhân tài đang diễn ra gay gắt hiện nay. Thứ tư là mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp: Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Một mạng lưới kinh doanh rộng lớn, với các điểm kinh doanh được bố trí hợp lý là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh như tạo nguồn hàng, vận chuyển, làm đại lý xuất nhập khẩu ... một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh quá thiếu, hoặc bố trí ở các điểm không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Thứ năm là cơ cấu sản phẩm: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu cơ cấu xuất khẩu quá nghèo nàn thì chỉ phục vụ một số thị trường mang tính chất nhỏ lẻ, ngược lại nếu cơ cấu sản phẩm phong phú sẽ phục vụ được nhu cầu của nhiều thị trường khác nhau và các đối tượng khách hàng khác nhau. Hiện nay, ngành giấy Việt Nam, cơ cấu sản phẩm đa dạng do có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp nhưng chất lượng chưa cao nên giá trị xuất khẩu thu về vẫn không đạt như mong đợi. Thứ sáu là nguồn nguyên liệu bột giấy: Nếu như TCT giấy được đánh giá là đơn vị có khả năng tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào thì hàng năm TCT vẫn phải nhập tới 35% nguyên liệu bột giấy tức là vào khoảng hơn 60.000 tấn nên rất dễ bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường thế giới. Thứ bảy là ngành công nghiệp phụ trợ đáp ứng nhu cầu sản xuất. Đây là một ngành công nghiệp quan trọng, nếu ngành này phát triển sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ được phần hóa chất, nguyên liệu bột giấy, góp phần làm giảm chi phí đầu vào.TCT hiện đang phối hợp với các công ty liên kết thúc đẩy tiến độ dự án đầu tư như: Dự án bột và giấy của Công ty cổ phần tập đoàn Tân Mai tại Kon Tum công suất 130.000 tấn bột và 200.000 tấn giấy tráng nhẹ, và đẩy nhanh tiến độ tập trung đầu tư 4 dự án trọng điểm đó là: dự án mở rộng nhà máy Giấy Bãi Bằng giai đoạn 2, Dự án vùng nguyên liệu giấy Bãi Bằng giai đoạn 2, dự án vùng nguyên liệu giấy Thanh Hóa và dự án nhà máy bột Phương Nam. Những ngành phụ trợ khác cho sản xuất giấy như: sản xuất hóa chất, phụ gia cơ khí thì TCT phải nhập khẩu hoàn toàn, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới giá trị xuất khẩu. Thực trạng xuất nhập khẩu giấy và bột giấy. Tình hình sản xuất bột giấy tại Tổng công ty. Tại Việt Nam năng lực sản xuất bột giấy mới chỉ đáp ứng được ẵ nhu cầu xuất khẩu giấy. Do ngành công nghiệp luôn phải phụ thuộc vào nguồn bột giấy nhập khẩu (mặc dù có dự báo đến năm 2011 Việt Nam sẽ xuất khẩu bột giấy, nhưng do có nhiều biến động kinh tế không lường trước được nên dự án này bị chậm lại so với dự tính ban đầu). Hiện nay chỉ có Công ty giấy Bãi Bằng và công ty cổ phần Tân Mai chủ động đáp ứng được khoảng 80% số bột cho sản xuất giấy của mình. Bảng 1.4.1: Tình hình sản xuất và nhập khẩu bột giấy qua các năm (2000 - 2008). (Đơn vị nghìn tấn) Nguồn: Tạp chí Công nghiệp giấy 2009 và viện Công nghiệp giấy và xenluylo. Năm 2009, TCT giấy Việt Nam đã đầu tư 2.093,1 tỷ đồng để tăng năng lực sản xuất giấy và bột giấy, tập trung vào 4 dự án nhóm A là mở rộng Công ty Giấy Bãi Bằng giai đoạn II, vùng nguyên liệu giấy Bãi Bằng, nhà máy giấy và bột giấy Thanh Hóa. Bên cạnh đó, TCT cải tạo 2 máy xeo tại Bãi Bằng để nâng công suất thiết kế sản xuất giấy lên 120.000 tấn/năm, đồng thời phối hợp với các công ty liên kết đầu tư nhanh các dự án như: bột và giấy của Công ty cổ phần Giấy Tân Mai (Quảng Ngãi) công suất 130.000 tấn bột hóa nhiệt cơ và 220.000 tấn giấy tráng phấn nhẹ. Mục tiêu đầu tư trồng rừng nguyên liệu giấy của TCT là mở rộng diện tích rừng trồng sang các tỉnh như Sơn La, Hòa Bình và Yờn Bỏi, phát triển mô hình trồng xen cây nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế từ rừng và đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất, nâng cao đời sống người trồng rừng. Thực trạng nhập khẩu bột giấy. Từ năm 2007 trở lại đây, tình hình bột giấy luôn căng thẳng đối với cả ngành giấy. Giá nguyên liệu bột giấy tăng liên tục bình quân 120 USD/ tấn hằng năm, nhưng giá bán giấy không hề tăng. Chỉ có những doanh nghiệp chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào mới đảm bảo được doanh số bán ra, như công ty giấy Bãi Bằng, gần như chủ động hoàn toàn nguồn nguyên liệu sản xuất giấy in, giấy viết. TCT thực sự đó cú những bước đi khác so với các doanh nghiệp tư nhân sản xuất giấy khác trong nước, nhưng vẫn phải nhập khẩu một lượng bột không nhỏ. Theo ông Võ Sĩ Dở ng – tổng giám đốc TCT giấy Việt Nam (VINAPACO), năm 2008 lượng bột giấy nhập khẩu 118.000 tấn trong đó TCT chiếm 20%, công tác phát triển rừng nguyên liệu ngày càng khó khăn về đất đai, hiện tượng chặt phá rừng không thể kiểm soát nổi. Bài toán về cân đối nguồn nguyên liệu luôn là bài toán khó chưa có lời giải cụ thể. TCT giấy có 2 đơn vị chủ lực sản xuất giấy: Giấy Bãi Bằng, Giấy Việt Trì. Trong đó chỉ có Bãi Bằng chủ động được 80% nguyên liệu, số bột giấy còn lại vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc, Indonesia… Thị trường nhập khẩu bột giấy: Bảng 1.4.2: Thị trường nhập khẩu bột giấy tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2009 Thị trường T6/2009 6T/2009 Lượng (tấn) Trị giá (%) Lượng (tấn) Trị giá (%) Indonesia 8.173 3.202.125 28.225 11.491.805 Singapore 502 190.945 12.256 5.278.477 Mỹ 2.374 1.372.281 11.602 7.604.661 Braxin 2.001 760.409 8.312 3.299.930 Urugoay 4.507 1.702.836 5.601 2.129.789 Thái Lan 4.272 1.789.590 Canada 2.836 1.174.642 4.252 1.848.145 Đức 177 92.040 1.445 734.535 Nga 822 386.458 Trung Quốc 301 404.799 301 404.799   Nguồn:Phòng xuất nhập khẩu TCT giấy Việt Nam Đầu năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, thị trường bột giấy có nhiều biến động mạnh. Tại khu vực ASEAN, chính lượng tồn kho bột giấy đang ở mức cao buộc 4 nhà sản xuất lớn tại Indonesia và một nhà sản xuất tại Thái Lan ngưng máy. Mặc dù giá bột giấy nói chung ảm đạm nhưng do nhu cầu giấy giảm nên thị trường bột giấy nhập khẩu rất hỗn loạn. Tại Trung Quốc giá bột NBSK giảm từ 30 – 60 USD/ tấn xuống còn 500 – 503 USD/ tấn, bột BSKP của Nga giảm 40 – 70 USD/ tấn xuống còn 470 – 490 USD/ tấn, bột keo lai tại Indonesia và BHKP của Nga giảm tới 100 – 130 USD/ tấn xuống còn 410 – 430 USD/ tấn. Tuy vậy do giá chung thấp hơn so với mong muốn của nhà cung cấp nên hàng tồn kho nhiều mà giá chào ra vẫn cao, nhà sản suất không bán được giấy nên thị trường bột giấy mất kiểm soát. TCT giấy vẫn phải nhập bột với giá cao từ nhà cung cấp lâu năm với giá chung là 718 USD/ tấn. Đến 6 tháng đầu năm 2009 giá bột giấy nhập đã đi vào ổn định, do nền kinh tế thế giới nói chung đã khắc phục được hậu khủng hoảng. Hình 1.4.2: Biểu đồ biến động giá bột giấy từ tháng 1/ 2005 – 7/2009. Nguồn: Tạp chí Công nghiệp giấy 7/2009. Sang đến năm 2010, mới vào tháng 1 giá bột đã vào mức kỉ lục, giá bột giấy sợi dài ở mức trên 900 USD/tấn; giá bột giấy sợi ngắn khoảng 850 USD/tấn; giá giấy loại khoảng 270 USD/tấn.Trước tình thế này, doanh nghiệp đã điều chỉnh tăng giá giấy in, giấy viết và giấy in báo. Mặc dù, giá đang trên đà tăng cao nhưng nguồn cung trong nước ngày càng bị hạn chế do: Nhà máy giấy Bãi Bằng ngưng máy bảo trì, bảo dưỡng hàng năm và nâng cấp công suất lên 125 nghìn tấn/năm. Cũn cỏc nhà máy có công suất vừa và nhỏ thì đang gặp phải khó khăn về nguồn bột nên lượng sản xuất đầu ra cũng sẽ bị hạn chế. Do vậy sản xuất phải phụ thuộc vào một lượng lớn nguồn cung bột từ thị trường bên ngoài với giá cả bấp bênh. Bảng 1.4.2: Bảng giá tham khảo bột giấy giao dịch tại thị trường Việt Nam (USD/tấn) Hợp đồng giao ngay, CIF,  cảng chính Hải Phòng 15/9/10 15/10/10 5/11/10 15/11/10 Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng NBSK 810-830 810-830 810-830 810-830 Thông đỏ Chi Lê 800-810 800-810 800-810 810-820 Thông Phương Nam 780-800 780-800 780-800 780-800 Bột Nga 770-780 780-790 780-790 780-790 Bột kraft gỗ cứng tẩy trắng Bạch đàn (Braxin &Chi Lê) 780-800 780-800 720-800 730-750 Keo (Indonexia) 700-730 700-730 700-730 700-730 Bột Nga 690-710 700-720 700-720 700-720 Kraft gỗ mềm không tẩy 730-740 730-740 730-740 740-750 Kraft gỗ mềm Nga không tẩy 705-735 705-735 705-735 705-735 Nguồn: Tổng hợp từ www.Vietpaper.com Càng về cuối năm 2010 giá chỉ dao động nhẹ, giá nhập trung bình là 835USD/ tấn. Sang đến 2011 do tỷ giá USD/VND tăng gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp, mặc dù đã chủ động được nguồn bột sản xuất, nhưng lo lắng về biến động kinh tế thế giới TCT vẫn nhập một lượng nhỏ bột đã tẩy trắng về sản xuất với mức giá khoảng 853USD/ tấn. Dự báo mức giá bột bình quân năm 2011 là 790 USD. Bảng 1.4.2: Bảng giá bột bình quân cả năm. Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 USD/Tonne 647 722 824 858 751 835 790 Nguồn: Theo VPPA Phương thức nhập khẩu: Nhập khẩu trực tiếp. Phương thức thanh toán: Bằng LC. Những yếu tố thuận lợi và bất lợi của hoạt động nhập khẩu bột giấy: Yếu tố thuận lợi: - Nguồn hàng cung cấp luôn dồi dào từ các nước láng giềng: Trung Quốc, Indonesia. Yếu tố bất lợi: - Hàng nhập phải chịu theo giá biến động của thị trường thế giới và thường cao hơn so với giá thế giới. - Tỷ giá biến động bất thường gây không ít khó khăn cho hoạt động nhập khẩu. Nguồn ngoại tệ, doanh nghiệp phải mua từ nhiều nguồn (trong đó một phần không nhỏ từ chợ đen). - Nguồn hàng tuy dồi dào, nhưng các nhà cung ứng vẫn ép giá Nguyên nhân: Do nhà cung cấp là những bạn hàng lâu năm giá thường do nhà cung cấp ấn định. Kinh tế Mỹ gặp phải khủng hoảng, đồng USD mất giá, trong khi đó thói quen trong thương mại quốc tế vẫn dùng đồng USD làm phương tiện thanh toán. Do lo ngại từ bất ổn từ Trung Đông và khủng hoảng kinh tế Nhật Bản, mà các nhà cung ứng tích trữ bột để đẩy giá lên. Tình hình sản xuất của công ty: Kế hoạch của TCT đến hết năm 2011 nhằm đạt sản lượng giấy 115.500 tấn giấy viết, giấy in, 320.000 tấn bột/năm. TCT đã không ngừng đầu tư sản xuất nhằm nâng cao năng lực sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ. Kết quả SXKD của TCT từ năm 2007 đến 2009 được thể hiện trong bảng dưới đây. Bảng 1.4.2 : Kết quả SXKD của TCT giấy Việt Nam (2007 – 2009) Đơn vị : đồng Các chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Tổng doanh thu 1.602.553.006.353 1.704.178.642.440 1.957.268.758.030 Các khoản giảm trừ doanh thu 3.729.623.359 10.867.050.135 9.893.275.071 1.- Doanh thu thuần 1.598.823.382.994 1.693.311.592.305 1.947.375.482.959 2.-Giá vốn hàng bán 1.376.326.282.193 1.381.907.658.466 1.622.941.192.174 3.- Lợi tức gộp 222.497.100.801 311.403.933.839 324.434.290.785 4.- Doanh thu hoạt động tài chính 8.830.857.851 15.302.663.629 17.469.214.754 5.- Chi phí hoạt động tài chính 85.100.127.569 85.435.589.161 64.966.230.772 6.- Chi phí bán hàng 38.409.814.976 57.133.344.929 64.029.370.807 7.- Chi phí QLDN 97.005.337.005 127.704.572.386 139.374.510.468 8.- Lợi nhuận từ họat động kinh doanh 10.812.679.102 56.433.090.992 73.533.393.492 9.- Lợi nhuận từ hoạt động khác 2.241.324.447 1.593.125.613 5.005.967.535 10.- Tổng lợi nhuận trước thuế 13.054.003.549 58.026.216.605 78.539.361.027 10.- Thuế TNDN 1.428.319.262 6.875.472.176 16.635.215.628 11.- Lợi nhuận sau thuế 11.625.684.287 51.150.744.429 61.904.145.399 (Nguồn : Phòng TCKT TCT giấy Việt Nam) So với trước năm 2007, thị trường tiêu thụ giấy của TCT đã mở rộng nhiều, đặc biệt là đã bước đầu có sản phẩm giấy XK. Chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, thương hiệu bapaco đã chiếm được vị trí vững chắc trên thị trường trong nước. Tại thị trường nước ngoài, sản phẩm của TCT tiêu thụ ngày càng tăng. Nếu như doanh thu hàng XK năm 2007 là 59,54 tỷ đồng thì năm 2008 đã tăng lên 148,807 tỷ đồng và năm 2009 là 318,630 tỷ đồng. Hiện nay, TCT đang cố gắng duy trì mối quan hệ với bạn hàng truyền thống và tiếp tục tìm kiếm thêm khách hàng mới. Tình hình xuất khẩu của công ty. TCT giấy chủ yếu xuất khẩu giấy in và giấy viết có chất lượng trung bình so với tiêu chuẩn quốc tế. Hình 1.4.3: Biểu đồ cơ cấu suất khẩu sản phẩm giấy: Nguồn: Phòng XNK TCT giấy Việt Nam Theo Tổng cục Hải Quan giấy và sản phẩm từ giấy toàn ngành xuất khẩu đạt 196 triệu USD, tăng 49,55 triệu USD so cùng kỳ năm 2009. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp của Tổng Công ty Giấy Việt Nam ước thực hiện hơn 1.500 tỷ đồng, bằng 51,5% kế hoạch năm. Sản phẩm sản xuất chủ yếu giấy các loại ước đạt trên 120.000 tấn, bằng 43,5% kế hoạch năm; xuất khẩu đạt 21 triệu USD, bằng 59% kế hoạch năm. Ba thị trường chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu giấy và sản phẩm từ giấy của VIPACO là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đài Loan. Dẫn đầu là Hoa Kỳ, trong 7/2010 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 3,34 triệu USD, giảm 33,43% so với cùng kỳ tháng trước, nhưng tăng mạnh 193,88% so với cựng thỏng 2009. Tính chung 7 tháng 2010 kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 23,37 triệu USD, chiếm 26,82% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 7/2010, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 2,68 triệu USD, tăng 9,91% so với tháng 6/2010, tăng 69,41% so với 7/2009. Trong 7 tháng năm 2010 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 19,06 triệu USD, chiếm 21,87% tổng giá trị xuất khẩu, tăng 153,26% so với 7 tháng đầu năm 2009. Thị trường đứng thứ ba là Đài Loan, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tháng 7/2010 đạt 2,33 triệu USD, tăng nhẹ 4,88% so với 6/2010, tăng 9,71% so với cùng tháng năm 2009. Nâng tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Đài Loan 7 tháng đầu năm 2010 đạt 14,62 triệu USD, chiếm 17,27% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 16,24% so với cùng kỳ năm 2009. Trong 7 tháng đầu năm 2010, một số thị trường có mức tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm 2009 điển hình tăng mạnh như: Nhật Bản tăng 153,26%, Singapore tăng 115,54%, Philipine tăng 113,86%. Ngược lại chỉ có 4 thị trường có mức tăng trưởng âm là Trung Quốc giảm 10,78%, Hồng Kong giảm 66,79% Bảng 1.4.3: Thống kê kim ngạch XNK tháng 7/2010 và 7 tháng đầu năm 2010.(ĐV: USD). Thị trường KNXK T7/2010 KNXK 7T/2010 % tăng giảm KNXK T7/2010 so với T6/2010 % tăng giảm KNXK T7/2010 so với T7/2009 % tăng giảm KNXK 7T/2010 so với 7T/2009 Tổng trị giá 13.445.796 87.361.644 -10,28 +64,18 +50,73 Hoa Kỳ 3.347.875 23.514.676 -33,43 +193,88 +28,32 Nhật Bản 2.686.343 19.161.813 +9,91 +69,41 +153,26 Đài Loan 2.337.172 14.619.895 +4,88 +9,71 +18,24 Australia 780.968 4.810.229 +8,63 +80,36 +94,48 Singapore 689.597 3.781.569 -1,28 +85,26 +115,54 Malaysia 530.283 3.686.713 -24,48 +8,34 +41,86 Campuchia 483.867 3.383.052 -31,73 +44,48 +39,14 Thái Lan 217.265 1.406.422 +20,35 +70,68 +36,69 Phillipine 177.969 1.196.718 +36,43 +24,04 +113,86 Indonesia 174.505 864.025 +46,02 +39,64 +21,18 Lào 144.118 304.186 -28,04 +79,68 +40,85 Trung Quốc 157.986 2.026.933 +22,53 +162,97 -10,78 Hồng kông 17.698 357.754 -66,00 -91,95 -66,79 Nguồn : Tổng cục hải quan Như vậy thị trường xuất khẩu của TCT giấy chủ yếu sang Nhật Bản, Hoa kỳ và Đài Loan, trong khi phân khúc thị trường EU không được khai thác, EU hiện có 27 thành viên, là trung tâm hàng đầu thế giời về chính trị, kinh tế, thương mại, tài chính, khoa học kỹ thuật, GDP đạt trên 16.524 tỷ USD, chiếm 23,5% tổng GDP thế giới, 25% tổng giá trị thương mại thế giới và 33% luồng đầu tư trực tiếp toàn cầu. EU là thị trường tiêu dùng lớn thứ hai sau Mỹ. Người dân EU thích tiêu dùng những mặt hàng có nguồn gốc tự nhiên, vậy sản phẩm như cốc giấy, giấy Tissue, giấy thấm rất được ưu chuộng. Trong thời gian tới TCT giấy nên khai thác thị trường này với những sản phẩm mới và nhóm khách hàng, thì hiệu quả hoạt động xuất khẩu sẽ được nâng lên thành hoạt động kinh doanh. Phương thức xuất khẩu: Giao cho người chuyên trở giao hàng cho người nhập tại cảng Hải phòng. Phương thức thanh toán: Thanh toán bằng LC. Đánh giá chung hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty giấy Việt Nam. Thành tựu đã đạt được của Tổng công ty giấy Việt Nam. Với mục tiêu tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu, tài nguyên thiên nhiên, nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo vệ môi trường, nhiều năm qua, Tổng công ty giấy Việt Nam luôn đổi mới và áp dụng công nghệ tiên tiến. Các lĩnh vực được áp dụng như: đầu tư chiều sâu; xử lý nước thải; xây dựng vùng nguyên liệu; sử dụng nguyên liệu trong nước; sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm; đào tạo lao động kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhờ áp dụng các giải pháp khoa học mà rất nhiều sáng kiến xuất hiện đã góp phần giải quyết những ách tắc trong sản xuất, tiết kiệm vật tư nguyên liệu, làm lợi mỗi năm hàng chục tỷ đồng. Riêng giai đoạn 2006-2009 đã áp dụng 40 sáng kiến, làm lợi 54,5 tỷ đồng. Những sáng kiến đột phá vào lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Một trong những thành công đáng kể trong khâu đột phá vào khoa học công nghệ của Tổng công ty Giấy Việt Nam là dự án đầu tư nâng công suất 2 máy xeo giấy từ 400 m/ph lên 500 - 600 m/ph; đồng thời nâng công suất bột giấy từ 14 nồi lên 19 nồi/ngày, tạo sự cân đối giữa công suất nấu bột và xeo giấy; nâng chất lượng sửa chữa và bảo dưỡng lớn; rút ngắn được 50% thời gian sửa chữa định kỳ; làm tăng thời gian chạy máy hữu ích, đưa lại sản lượng giấy cao gần gấp đôi. Từ thành công này, phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được phát động khắp nhà máy với hàng vạn sáng kiến ra đời, có những sáng kiến đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn như “Cải tiến hệ thống điều chỉnh độ pH và chế độ phụ gia” đã tăng được độ bảo lưu cao lanh từ 50-70%, đưa công nghệ sử dụng ôxy già vào quy trình tẩy bột, thay đổi chất độn cao lanh làm tăng độ trắng độ mịn của giấy. Công trình “Nghiờn cứu giải quyết vấn đề dớnh bỏm ở thiết bị xử lý và chưng bốc dịch đen trong sản xuất bột giấy” do kỹ sư Lê Thị Hiên làm chủ đề tài là giải pháp hoàn toàn mới trong công nghệ giấy ở Việt Nam nhằm ngăn không cho nhựa cây dính bám vào thiết bị, mang lại hiệu quả rõ rệt cả về kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường. Khi đề tài được áp dụng, thời gian phải dừng thiết bị để rửa giảm từ 5-7 giờ xuống còn 1-2 giờ/ngày; tính ra mỗi năm làm lợi tới 25 tỷ đồng. Giải pháp này đã đạt giải nhất “Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật” tỉnh Phú Thọ và đạt giải nhì “Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật Việt Nam 2009”. Công trình “Nõng cao năng lực thu hồi nhiệt phóng bột” của nhóm tác giả Nguyễn Trần Thuần, Bựi Đỡnh Hồng, Nguyễn Công Hồng ngoài việc thay thế nguồn nước sạch để ngưng tụ hơi trong quá trình phóng bột bằng nước thu hồi sau tháp lạnh đã tiết kiệm được một lượng nước sạch đáng kể và tiết kiệm lượng hơi sống để làm nóng nước, giải quyết dễ dàng khâu vệ sinh thiết bị trao đổi nhiệt, khụng gõy tắc như trước. Tính ra, giải pháp này mỗi năm làm lợi cho công ty 920 triệu đồng. Ngoài ra, các giải pháp sử dụng bộ biến tần điều khiển động cơ roto lồng sóc cho các quạt gió, quạt khói đang được áp dụng rất hiệu quả trong nhà mỏy. Cỏc dự án đầu tư nồi nấu bột số 4, dự án khử mực tại Công ty giấy Tissue Sông Đuống… đều áp dụng công nghệ tiên tiến tạo ra sản phẩm có năng suất chất lượng cao, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, thi đua thực hành tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm đã trở thành phong trào rộng rãi, phát hiện được nhiều khâu bất hợp lý để tìm giải pháp khắc phục. Nhờ đó, giá trị tiết kiệm vật tư nguyên liệu ở tổng công ty đã đạt 118 tỷ đồng trong giai đoạn 2006-2009. Cùng với giải pháp đột phá về khoa học công nghệ, Tổng công ty Giấy Việt Nam đã áp dụng nhiều giải pháp kinh tế như: sử dụng và quay vòng đồng vốn có hiệu quả, thực hiện chế độ hạch toán nội bộ, gắn tiền lương và tiền thưởng của người lao động với kết quả công việc và chất lượng sản phẩm làm ra. Bãi Bằng là đơn vị đầu tiên trong ngành giấy áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001, nhờ đó, mọi quá trình phục vụ và sản xuất ra sản phẩm giấy đều được kiểm soát chặt chẽ và liên tục được cải tiến. Bên cạnh đó là giải pháp xây dựng chiến lược thị trường giấy, bao gồm cả khâu nguyên liệu đầu vào cho tới sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 212.doc
Tài liệu liên quan