Lý luận về định tội danh

Việc đánh giá hành vi khách quan của tội phạm vềphương diện định

tội danh là phải đặt mỗi hành vi đó trong mối quan hệbiện chứng,

trong tổng thểcác dấu hiệu khác của CTTP. Thậm chí phải đặt mỗi

hành vi khách quan đó trong mối quan hệbiện chứng đối với hành vi

khách quan khác nếu trong CTTP đó có nhiều hành vi khách quan để

đánh giá chúng. Ví dụ: Hành vi lén lút và hành vi chiếm đoạt tài sản

của tội trộm cắp tài sản. Hành vi gian dối với hành vi chiếm đoạt của

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu tách độc lập các hành vi này trong

mỗi CTTP thì không thểnói lên sựthểhiện vềbản chất của loại tội

phạm đó.

Chỉcó thể đặt hành vi khách quan của tội phạm trong mối quan hệ

biện chứng với tổng thểcác dấu hiệu khác, từ đó mới rút ra sựthể

hiện đặc điểm đặc trưng của hành vi đó trong một vụán cụthể. Tuyệt

đối không được xác định tính chất của hành vi khách quan trong sự

độc lập, đơn lẻvới các dấu hiệu khác trong CTTP.

pdf39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7171 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận về định tội danh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều quan hệ xã hội. Trong trường hợp tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp, Đối với những tội có nhiều khách thể trực tiếp đòi hỏi phải có sự phân định chúng ở các mức độ khác nhau, đó là khách thể trực tiếp cơ bản và khách thể trực tiếp phụ. Khách thể trực tiếp cơ bản: Là những quan hệ xã hội bị tội phạm đó xâm hại là quan hệ xã hội quan trọng hơn và sự thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội đó cũng là nghiêm trọng hơn cả và đó cũng là quan hệ xã hội luôn bị gây thiệt hại khi tội phạm thực hiện. Đồng thời, khách thể trực tiếp cơ bản cũng là những quan hệ xã hội phản ánh rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất chính trị xã hội và bản chất pháp lý của loại tội phạm đó. Khách thể trực tiếp phụ: Là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại mà sự gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đó là ít nghiêm trọng hơn. Khi tội phạm xẩy ra nó có thể bị gây thiệt hại có thể không bị gây thiệt hại. Việc phân định này giúp cho người định tội danh xác định được tội phạm thuộc nhóm tội nào. Ví dụ như tội bắt cóc con tin, thì khách thể trực tiếp cơ bản phải là quan hệ tài sản, còn khách thể trực tiếp phụ là quan hệ tính mạng, sức khoẻ của con tin. Vì vậy, tội này phải thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu mà không phải thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tự do thân thể của con người. Hoặc đối với tội tham ô tài sản thì khách thể trực tiếp cơ bản là sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, Tổ chức xã hội. Còn khách thể trực tiếp phụ là quan hệ tài sản, nên tội tham ô tài sản được quy định trong nhóm tội phạm chức vụ mà không phải nằm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu. Đối với những tội phạm có 1 khách thể trực tiếp thì đòi hỏi người ĐTD phải đánh giá được trong số các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, thì quan hệ xã hội nào phản ánh đầy đủ nhất bản chất chính trị xã hội và bản chất pháp lý của hành vi phạm tội đã thực hiện, để làm cơ sở cho việc định tội danh và quyết định hình phạt. 4.2.2. Căn cứ xác định khách thể trực tiếp của tội phạm Về mặt thực tế, để xác định khách thể trực tiếp của tội phạm phải thông qua việc xem xét phân tích các thành phần khác của tội phạm, cụ thể: Thứ nhất:Thông qua việc xác định đặc điểm chủ thể tội phạm đối với các tội có chủ thể đặc biệt. Thứ hai: Thông qua việc xác định hậu quả của tội phạm chính là cơ sở để xác định khách thể của tội phạm bị xâm hại. Sở dĩ, để xác định khách thể của tội phạm phải thông qua việc xác định các thành phần của tội phạm là hậu quả và chủ thể của tội phạm, bởi các dấu hiệu này là căn cứ để nhà làm luật sắp xếp các tội phạm cụ thể thành từng chương trong BLHS, mặt khác các dấu hiệu này tồn tại trong mặt khách quan dê nhận biết được. Ví dụ: A dùng dao đâm B, B bị thương với tỷ lệ thương tật là 40%. Trường hợp này thông qua biểu hiện về hậu quả của tội phạm là thương tật của B 40% chúng ta xác định được tội phạm xâm hại đến quan hệ sức khoẻ của con người là khách thể của tội phạm. Hoặc ví dụ khác: A là thủ kho của công ty dệt (doanh nghiệp Nhà nước), đã lấy một lô hàng trong kho của doanh nghiệp trị giá 30 triệu đồng bán lấy tiền tiêu xài. Trường hợp này thông qua đặc điểm của chủ thể chúng ta xác định được quan hệ xã hội bị xâm hại là sự hoạt động đúng đắn của doanh nghiệp Nhà nước là khách thể của tội phạm. 4.2.3. Vai trò của việc xác định đối tượng tác động của tội phạm trong định tội danh Đối tượng tác động của tội phạm không phải là một dấu hiệu trong CTTP, nhưng nó lại là một bộ phận hợp thành của khách thể của tội phạm, mà khách thể của tội phạm lại là một bộ phận không thể thiếu được trong một CTTP. Mặt khác, đặc điểm của đối tượng tác động của tội phạm luôn mang tính cụ thể, tính xác định, và chỉ thông qua sự tác động lên đối tương tác động của tội phạm mới có thể gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm chính là hậu quả của tội phạm Mức độ làm biến đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động của tội phạm ở 2 thời điểm trước và sau thời điểm tội phạm được thực hiện là sự phản ánh hậu quả của tội phạm. Vì vậy, đối tượng tác động của tội phạm được hiện diện trong nội tại của cả 2 dấu hiệu trong CTTP, đó là quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm và hậu quả của tội phạm. Cũng xuất phát từ lý do này nên đối tượng tác động của tội phạm không phải là một dấu hiệu độc lập trong CTTP. Song về phương diện thực tiễn cũng như về phương diện định tội danh thì việc xác định đối tượng tác động của tội phạm là điểm xuất phát, là tiền đề cho việc xác định khách thể của tội phạm và hậu quả của tội phạm. Do đó, ý nghĩa của việc xác định đối tượng tác động của tội phạm thể hiện ở các phương diện sau: @ Đối tượng tác động của tội phạm trong một số trường hợp được quy định là tình tiết định tội như: Điều 231 tài sản bị huỷ hoại phải là công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, hoặc Điều 278 tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của Nhà nước. Vì vậy, việc xác định đối tượng tác động trong trường hợp này có ý nghĩa trong việc định tội. Vai trò này được thể hiện trong sự đánh giá tình huống sau: Vụ án thứ nhất: Chu Mạnh Cường trú tại quận Tây Hồ (Hà Nội) thường xuyên qua Trung Quốc mua hàng hoá vận chuyển qua cửa khẩu Tân Thanh mang về Hà Nội tiêu thụ. Trong thời gian ở Trung Quốc, Cường đã nắm bắt được công nghệ sản xuất bát điện tử, sử dụng cho mục đích cờ bạc bịp. Cường về Lạng Sơn mua bát sứ thường có đế rỗng, một số linh kiện như màn hình tivi 5 inch, đầu thu camera sản xuất được 100 mặt hàng này đã tiêu thụ hết với giá 5,5 triệu đồng một chiếc, thu được lợi nhuận 200 triệu đồng. Vụ án thứ hai: Hoàng Văn Chính nợ của Vũ Duy Tài 3 triệu đồng tiền cá độ bóng đá bị thua. Khoảng 10 giờ ngày 21/07/2004, Tài đến nhà em trai là Vũ Duy Cải cùng đến nhà Chính đòi tiền. Tài nói với Cải nếu không lấy được tiền thì bắt xe máy để buộc Chính phải trả tiền. Trên đường đi đến nhà Chính thì Tài và Cải gặp Vũ Thị Hoa là vợ Chính đi xe máy ngược chiều chở 2 đứa con nhỏ. Tài ra hiệu cho Hoa dừng lại. Cải đứng lại giữ xe, còn Tài tiến lại gần Hoa và hỏi "chị có phải là vợ Chính không", Hoa trả lời "phải, anh hỏi gì vậy",. Tài nói tiếp "chị đưa tôi chiếc xe vì Chính còn thiếu nợ tôi không chịu trả", Hoa trả lời "tôi không biết". Ngay lúc đó Tài dùng 2 tay cầm tay lái xe và giằng co chiếc xe với Hoa. Hai bên giằng co một lúc thì Hoa nói "anh bỏ ra, không tôi la lên bây giờ". Nghe vậy, Tài liền rút con dao gọt trái cây từ trong túi ra đe dọa "im mồm ngay". Thấy Tài rút dao ra, Hoa sợ bỏ xe và 2 đứa con chạy về phía UBND xã và kêu "cướp! cướp! cứu tôi với". Do Hoa bỏ xe chạy nên Tài đa lấy được chiếc xe Ưin trị giá 10 triệu đồng mang về gửi ở nhà Tùng gần đó. Sau đó Tài gọi điện thoại cho Chính biết là đã lấy xe từ Hoa và nói Chính phải đưa tiền đến chuộc xe. Sáng hôm sau, Chính đến gặp Tài, Tài nói "anh có tiền không, muốn nhận xe phải giao đủ 3 triệu đồng". Chính nói cứ lấy xe về rồi giao tiền, đồng thời lấy tiền ra đưa cho Tài xem. Thấy Chính có tiền nên Tài đi lấy xe về. Trong khi giao xe và mới nhận được 500.000 đồng thì bị Công an bắt quả tang. @ Đối tượng tác động của tội phạm trong một số trường hợp được quy định là tình tiết định khung như: nếu hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi thì bị xử lý theo Khoản 4, Điều 112. Vì vậy, việc xác định đối tượng tác động trong trường hợp này có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. @ Đối tượng tác động của tội phạm trong một số trường hợp được quy định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS như: phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già nên việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Ví dụ 1: A là nạn nhân của một vụ trộm cắp tài sản hoặc là nạn nhân của một vụ cướp mà A là phụ nữ đang có thai thì có áp dụng tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội là phạm tội đối với phụ nữ có thai không? Tại sao? Ví dụ 2: Chồng lừa vợ lấy tiền của vợ cho bồ có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không? Tại sao? Đối tượng tác động của tội phạm có thể xác định được: + Bằng trực giác: như các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, các tội xâm phạm sở hữu. + Bằng các văn bản của Nhà nước: như các tội phạm về ma tuý và các tội phạm về chức vụ Ví dụ: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản. 4.3. ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ CÁC DẤU HIỆU THUỘC MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM Mặt khách quan của tội phạm có tầm quan trọng rất lớn trong việc xây dựng CTTP và định tội danh. Hoạt động định tội danh thường bắt đầu từ việc đánh giá, xác định các dấu hiệu trong mặt khách quan. Bởi vì: @ Các dấu hiệu trong mặt khách quan là những dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan mà người định tội danh dễ nhận biết được. @ Các dấu hiệu trong mặt khách quan thường được mô tả tỷ mỷ trong CTTP, vì giữa các tội phạm khác nhau chủ yếu khác nhau ở mặt khách quan @ Thông qua việc xác định các dấu hiệu trong mặt khách quan, người định tội danh mới xác định được các dấu hiệu khác trong mặt chủ quan của tội phạm là lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Trong mỗi CTTP khác nhau, mỗi dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa khác nhau đối với định tội danh. Nhưng việc đánh giá, xác định hành vi khách quan của tội phạm có ý nghĩa quan trọng hơn cả. 4.3.1. Phương pháp đánh giá hành vi khách quan của tội phạm a. Khái niệm hành vi khách quan của tội phạm Hành vi khách quan của tội phạm được hiểu theo 02 nghĩa: Nghĩa rộng: Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự có ý thức của con người bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan. Nghĩa hẹp: Hành vi khách quan là xử sự của con người thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan. b. Hình thức của hành vi khách quan có 2 dạng: Hành động phạm tội được hiểu là người phạm tội đã làm những động tác cơ học bị luật hình sự cấm. Đối với hành động phạm tội phải thoả mãn hai dấu hiệu: + Là xử sự có ý thức và có ý chí đối với hành vi. + Phải là xử sự có ý thức và có ý chí đối với hậu quả. Không hành động phạm tội tức là không làm những động tác cơ học mà chủ thể theo pháp luật có nghĩa vụ phải làm và trong hoàn cảnh cụ thể đó có thể thực hiện được nghĩa vụ này. Trong quá trình định tội danh, việc xác định tính chất của không hành động phạm tội phức tạp hơn so với việc xác định tính chất của hành động phạm tội. Bởi vì: Thứ nhất: Hành động phạm tội thể hiện và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan dễ nhận biết. Còn không hành động phạm tội thì sự thể hiện về nội dung trong nội tại của hành vi đó không tồn tại trực diện ngay trong hành vi khách quan, mà phải xác định trên cơ sở của sự tư duy biện chứng. Thứ hai: Đối với hành động phạm tội chỉ cần xác định sự thoả mãn của 2 dấu hiệu bắt buộc đó là sử sự có ý thức và có ý chí đối với hành vi và đối với hậu quả. Nhưng đối với không hành động phạm tội, ngoài 2 điều kiện trên còn phải thoả mãn thêm 2 điều kiện nữa, đó là: + Chủ thể phải có nghĩa vụ pháp lý hành động. + Trong hoàn cảnh cụ thể chủ thể có đủ khả năng ngăn ngừa được hậu quả đó. c. Nguyên tắc đánh giá tính chất của hành vi khách quan của tội phạm Việc đánh giá hành vi khách quan của tội phạm về phương diện định tội danh là phải đặt mỗi hành vi đó trong mối quan hệ biện chứng, trong tổng thể các dấu hiệu khác của CTTP. Thậm chí phải đặt mỗi hành vi khách quan đó trong mối quan hệ biện chứng đối với hành vi khách quan khác nếu trong CTTP đó có nhiều hành vi khách quan để đánh giá chúng. Ví dụ: Hành vi lén lút và hành vi chiếm đoạt tài sản của tội trộm cắp tài sản. Hành vi gian dối với hành vi chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu tách độc lập các hành vi này trong mỗi CTTP thì không thể nói lên sự thể hiện về bản chất của loại tội phạm đó. Chỉ có thể đặt hành vi khách quan của tội phạm trong mối quan hệ biện chứng với tổng thể các dấu hiệu khác, từ đó mới rút ra sự thể hiện đặc điểm đặc trưng của hành vi đó trong một vụ án cụ thể. Tuyệt đối không được xác định tính chất của hành vi khách quan trong sự độc lập, đơn lẻ với các dấu hiệu khác trong CTTP. d. Phương pháp đánh giá tính chất của hành vi khách quan trong trường hợp cụ thể 1/ Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương ứng phù hợp với nhiều CTTP. Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương ứng phù hợp với nhiều CTTPchỉ xử lý một tội danh nếu: + Chỉ một trong số các hành vi đó đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, còn các hành vi khác chỉ mang tính chất hỗ trợ cho hành vi khách quan đã lựa chọn (thông thường các hành vi bổ trợ này đặt trong mối quan hệ biện chứng với hành vi khách quan thì nó là hành vi chuẩn bị phạm tội). Và các hành vi này chỉ nhằm hướng tới đạt một mục đích. Có thể xác định việc áp dụng nguyên tắc này thông qua các vụ án sau: Vụ án thứ nhất: Vào khoảng 8 giờ ngày 30 tháng 06 năm 2004, H và T lên tàu khách V1 tuyến Hà Nội đi Vinh để trộm cắp tài sản của hành khách đi trên tàu. H dùng lưỡi dao lam rạch túi xách của chị Võ Thị M thì thấy một gói đựng chất dẻo màu nâu. H biết là thuốc phiện nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. H rút trong người ra một thẻ đoàn viên để hở 1/3 rồi đưa nhanh qua mặt M nói: “Chúng tôi là công an, yêu cầu chị cho kiểm tra hành lý”. Cùng lúc đó, Q trưởng tàu đi tới. Q biết H và T không phải là công an nhưng vì vụ lợi Q đã nói nhỏ với H và T: “Hai anh muốn khám xét hành lý của hành khách trên tàu thì phải đưa tôi 500.000 đồng”. Sợ hỏng việc, H tháo chiếc đồng hồ trị giá 500.000 đồng đưa cho Q. Sau khi nhận đồng hồ, Q không những để mặc cho H, T hành động mà còn cho tàu dừng lại theo yêu cầu của H và T. Khi tàu dừng, H và T đã kéo M xuống đường ray rồi nói với M: “Chị muốn được trả tự do thì đưa hết đồ trang sức và tiền cho chúng tôi”. Vì lo sợ bị bắt, M đã buộc phải làm theo sự khống chế của H và T. Hai tên đã chiếm đoạt được 10 triệu đồng và 3 kg thuốc phiện. Vụ án thứ hai: Chiều 09/6/2001, ông Ngô Hà (trú tại thị trấn Tứ Hạ, huyện Hương Trà) mua 02 vé xổ số kiến thiết loại vé 3.000đ. Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, anh Nguyễn Lam hàng xóm sang chơi, do không biết chữ nên Hà đã đưa cho Lam 02 vé số nhờ dò hộ. Khi dò vé số thấy 02 vé số trúng giải đặc biệt với số tiền 150 triệu đồng. Vì lòng tham muốn chiếm đoạt 02 vé số đó nên Lam nói là vé không trúng thưởng rồi vứt 02 vé số vào sọt rác trong góc nhà ông Hà. Sau 15 phút, Lam về nói với vợ là bà Nga: "Trong sọt rác nhà ông Hà có 02 vé số trúng giải đặc biệt cô qua đó giả vờ xin tấm bìa rồi lấy về". Nga thực hiện theo sự sắp đặt của Lam lấy được 02 vé số về rồi 02 vợ chồng đi nhận thưởng. Vụ án thứ ba: Trần Hoàn trú tại Thăng Bình (tỉnh Quảng Nam), làm thuê cho cửa hàng điện tử số 37 Hùng Vương, thành phố Đà Nẵng. Hoàng thường xuyên nhận nhiệm vụ giao hàng điện tử cho Hoàn Mỹ trú tại Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Do có quan hệ quen biết với Mỹ nên Hoàn nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trong nhà Mỹ. Hoàn đã bàn bạc với Chuyên và Huy, được hai tên đồng ý. Vào lúc 16 giờ ngày 20/10/2003, theo kế hoạch Huy chui vào thùng đựng tủ lạnh. Hoàn và Chuyên đã mang thùng hàng này tới nhà Mỹ và nói với Mỹ cho gửi lại sáng mai tới lấy để đưa vào giao cho người khác ở Tam Kỳ. Khoảng 23 giờ khi mọi người trong nhà ngủ im ắng, Huy chui ra khỏi thùng hàng mở chốt cửa phía trong nhà Mỹ cho Hoàn và Chuyên đợi sẵn ngoài cổng vào trong nhà, 03 tên lấy được 3 linh kiện hàng trị giá 50 triệu đồng bán tiêu xài. + Mỗi một hành vi trong số các vi đã thực hiện đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm (về bản chất các hành vi đó đủ yếu tố CTTP của nhiều tội) nhưng chúng đảm bảo sự phù hợp của các nguyên tắc chuyển hoá tội phạm. Sự chuyển hoá tội phạm phải đảm bảo thỏa mãn 4 điều kiện sau: @ Bị cáo thực hiện ít nhất 2 loại hành vi cấu thành ít nhất 02 tội. @ Ý thức chủ quan của người phạm tội chỉ thực hiện tội thứ nhất, nhưng do nguyên nhân khách quan mà bị cáo thực hiện tội thứ 2. @ Các tội này đều hướng đến đạt một mục đích. @ Chỉ được phép lựa chọn tội sau cùng để áp dụng đối với người phạm tội. Nguyên tắc này được thể hiện trong vụ án sau: Khoảng 16 giờ ngày 30 tháng 09 năm 2003, Đoàn Minh Đĩnh trú ở quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cao hứng chở vợ là Mạc Thị Ngân đến thăm nhà người bạn là Huệ ở cách nhà Đĩnh khoảng 2 km. Tại nhà Huệ, uống xong 1 tuần trà, Đĩnh bảo vợ: “Em ở lại chơi với Huệ, anh về cho heo ăn”, rồi Đĩnh lấy xe đi về nhà. Ngân vừa nói chuyện với Huệ vừa hồ nghi trong bụng, bởi chính Ngân vừa cho heo ăn xong. Hơn nữa, từ trước tới nay Đĩnh đâu có để ý tới chuyện nuôi heo, cớ gì hôm nay lại quan tâm như vậy. Ngân nói với Huệ cho qua chuyện rồi ra thuê xe ôm về nhà quyết tìm cho ra sự thật. Tới nhà, cửa nhà mở, trong nhà im ắng, Ngân lại nghe có tiếng nói nho nhỏ, tiếng thở khe khẽ. Ngân cầm cái kéo may, đạp mạnh cửa buồng xông vào và sững sờ nhìn thấy chồng mình đang cùng chị Yến Vy (người hàng xóm đã có chồng) đang làm chuyện mây mưa trên giường. Ngân quơ hết mớ quần áo của 02 người vứt ra khỏi buồng. Tiếp đến, Ngân nhảy vào tát vào mặt Vy 02 cái và đạp 03 đạp. Vy ngồi im không dám la. Đĩnh cũng ngồi im ôm gối sợ vợ làm to chuyện. Ngân đánh đấm Vy một hồi mỏi tay chân, Ngân quay ra dùng kéo cắt tóc Vy. Ngân vừa cắt tóc Vy, vừa doạ: “Mày khôn hồn thì ngồi im, nếu chống cự thì tao la làng ngay cho mọi người đến coi thử xem ai xấu hổ”.Vy phải cúi lạy Ngân, xin Ngân tha thứ. Ngân nói: “Mày phải mua danh dự”. Vy năn nỉ Ngân cho đền 2 con bò có sẵn bên nhà nhưng Ngân không đồng ý. Sau đó, Ngân thấy sợi dây chuyền 3 chỉ lấp lánh trên ngực Vy, Ngân cởi ra lấy luôn rồi cho Vy và Đĩnh mặc quần áo ra về. Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương ứng phù hợp với nhiều CTTP sẽ bị xử lý nhiều tội danh khác nhau nếu các hành vi đã thực hiện phù hợp với nhiều loại hành vi khách quan tương ứng với nhiều CTTP mà các loại hành vi này có sự liên tục về mặt thời gian, có mối quan hệ với nhau và nhằm đạt các mục đích khác nhau. Ví dụ: vụ án giết người và cướp tài sản xẩy ra ở thành phố Huế ngày 25/04/2005. 2/ Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện 1 loại hành vi: Chỉ xử lý một tội nếu bản chất của hành vi đã thực hiện chỉ là sự thể hiện của một loại hành khách quan trong một cấu thành tội phạm cụ thể. Sẽ xử lý về nhiều tội nếu: + Chỉ có một hậu quả xẩy ra hoặc có thể xẩy ra, mà một loại hành vi đó lại là sự thể hiện của hai hay nhiều loại hành vi khách quan của các CTTP tương ứng mà các CTTP này được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Ví dụ: giết người bằng súng. Trường hợp này một hành vi giơ súng lên bắn bị xử lý 2 tội, tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng). + Nếu có nhiều hậu quả xẩy ra thì: @ Nếu một loại hành vi đã thực hiện phù hợp với một loại hành vi khách quan của nhiều CTTP, mà các hậu quả này đều thực hiện với hình thức lỗi cố ý thì xử lý về nhiều tội. Ví dụ: Cướp gây chết người mà hậu quả chết người là lỗi cố ý thì bị cáo bị xử thành 2 tội: Tội giết người và tội cướp tài sản. @ Nếu một loại hành vi đã thực hiện phù hợp với một loại hành vi khách quan của nhiều CTTP, mà có hậu quả thực hiện với hình thức lỗi cố ý, có hậu quả thực hiện với hình thức lỗi vô ý, thì CTTP thực hiện với lỗi vố ý sẽ được thu hút vào tội danh của CTTP với lỗi cố ý và CTTP của lỗi vô ý trở thành tình tiết định khung tăng nặng. Ví dụ: Hiếp dâm gây hậu quả nạn nhân chết. Nếu hậu quả nạn nhân chết là lỗi vô ý, thì chỉ xử lý một tội hiếp dâm với tình tiết định khung tăng nặng gây chết người. 4.3.2 Phương pháp xác định hậu quả của tội phạm Đối với các tội thực hiện với hình thức lỗi cố ý và là tội có cấu thành vật chất (tức là trong CTTP luôn phải có dấu hiệu hậu quả) thì việc xác định hậu quả về mặt thực tế có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm được thực hiện ở giai đoạn nào, làm cơ sở cho việc xác định TNHS đối với người phạm tội Đối với các tội thực hiện với hình thức lỗi vô ý, hậu quả cũng luôn được phản ánh trong CTTP, thì việc đánh giá hành vi phạm tội chỉ có ý nghĩa khi xác định được hậu quả của tội phạm. Hay nói cách khác, chỉ khi xác định được hậu quả thì mới xác định được là có tội hay không có tội và mức độ TNHS đặt ra như thế nào? Cơ sở để xác định hậu quả của tội phạm là xuất phát từ việc xác định mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm ở thời điểm trước và sau khi tội phạm xảy ra. Hậu quả của tội phạm là một dấu hiệu trong mặt khách quan, tồn tại trong thế giới khách quan khi tội phạm xẩy ra, và rất dễ nhận biết được và trong rất nhiều trường hợp nó còn xác định được một cách cụ thể, chính xác,rõ ràng. Chính vì vậy, hậu quả của tội phạm được phản ánh trong rất nhiều CTTP với nội dung là tình tiết định tội và tình tiết định khung. Nhiều tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS cũng được phản ánh là hậu quả của tội phạm,nên việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa cả về phương diện định tội, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Quá trình định tội danh khi xác định hậu quả của tội phạm phải đánh giá được một cách toàn diện các hậu quả đã được quy định trong BLHS (như số người chết, giá trị tài sản bị chiếm đoạt, và các hậu quả không được quy định trong BLHS, nhưng nó trực tiếp phát sinh từ những hậu quả đã được quy định trong BLHS. 4.3.3. Sự đánh giá về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là điều kiện đảm cho cho việc định tội danh được chính xác. Vì mối quan hệ nhân quả không bao giờ tồn tại riêng lẻ, nếu như không có sự tồn tại của 2 hiện tượng khách quan là hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm. Nội dung của mối quan hệ nhân quả là hiện tượng khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Một hậu quả của tội phạm có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Trong những nguyên nhân đó, có thể có những nguyên nhân trực tiếp làm phát sịnh hậu quả, có những nguyên nhân chỉ góp phần hỗ trợ cho nguyên nhân trực tiếp hay còn gọi là nguyên nhân gián tiếp. Chỉ những nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả mới được gọi là những nguyên nhân có mối quan hệ nhân quả với hậu quả của tội phạm. Về nguyên tắc một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một tội phạm nhất định đối với một hậu quả đã xảy ra khi hậu quả đó có mối quan hệ nhân quả với hành vi mà họ đã thực hiện. Nếu người định tội danh không nhận thức rõ hoặc không tôn trọng việc thực hiện nguyên tắc này sẽ dẫn đến xu hướng xử lý tuỳ tiện. Có thể minh họa bằng vụ án sau để thấy được vai trò của nguyên tắc này: Nguyễn Hoàng Oanh và Phạm Thị Nga là hai mợ cháu nhà ở cạnh nhau. Vào tháng 3/2000, hai gia đình phát sinh mâu thuẫn từ việc Nga xây nhà, đổ nền nhà và sân vườn cao hơn nhà Oanh. Mỗi khi trời mưa nước từ nhà Nga tràn sang nhà Oanh là hai bên lại cãi nhau. Ngày 06/4/2002, trong lúc hai bên cãi nhau về việc nước ứ đọng, Nga đã bị ngất xỉu và được mọi người hô hấp nhân tạo kịp thời. Vào khoảng 18 giờ, trong bữa cơm tối ngày 11/6/2002, Nga và Oanh lại gây gổ vì chuyện xích mích trên. Sau một hồi lời qua tiếng lại, Oanh đã cầm bát cơm đang ăn vứt qua nhà Nga và trúng trán Nga, Nga bị ngất xỉu được mọi người đưa đến bệnh viện cấp cứu, trên đường đi thì Nga bị chết. Kết luận giám định pháp y thì Nga chết do bị bệnh tim, vết thương ở trán Nga tỷ lệ thương tật là 5%. 4.3.4. Vai trò của việc đánh giá các dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm Trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự việc xác định các dấu hiệu khác về mặt khách quan của tội phạm cho phép người định tội danh xác định được các dấu hiệu trong mặt chủ quan của tội phạm. Điều này có thể minh chứng qua cách đánh giá vụ án sau: Khoảng 16 giờ ngày 28/02/1998, Lê Quốc Vũ chở Nguyễn Văn Đàm và Lê Xuân Thảo; Trần Xuân Thọ chở Phạm Hồng Lưu bằng xe Honda di từ Thị xã Tuy Hoà về xã Hoà Đồng. Khi đến địa phận xã Hoà Phong (đoạn đường vắng người, xa khu dân cư) thì gặp anh Sáng chở chị Vy đi xe Honda cùng chiều. Vũ đã chỉ tay vào Sáng và nói với mọi người Sáng là người cách đây 03 ngày đã đánh Vũ. Bọn Vũ bàn nhau chặn đường đánh Sáng. Vũ điều khiển xe ép xe Sáng vào lề đường. Sáng dừng xe lại. Vũ hỏi: "Mày có phải là Duy ở Sơn Thành không". Sáng trả lời không thì ngay lập tức Thảo đã đấm vào mặt Sáng. Bị đau Sáng ngồi thụp xuống, Thảo đi vòng ra phía sau lưng Sáng nắm cổ áo kéo đứng lên để đánh tiếp thì nhìn thấy sợi dây chuyền trên cổ Sáng. Thảo đã giật lấy sợi dây, khi Sáng hỏi xin lại sợi dây chuyền thì Thảo nói là không lấy và cùng đồng bọn bỏ đi. Một số dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm như thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội được quy định là tình tiết định tội như tội hoạt động phỉ, thì việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định tội. Đa số các trường hợp khác chúng được quy định là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLý luận về định tội danh.pdf