Một số biện pháp giúp cháu lớp mầm có thói quen tự phục vụ

Việc hướng dẫn và rèn luyện các kĩ năng tự phục vụ cho trẻ nếu chỉ có cô giáo và nhà trường thì không thể thành công mà phải có sự phối hợp của các thành viên trong gia đình trẻ như: cha mẹ, ông bà, anh em,

Các thành viên trong gia đình luôn tạo mọi cơ hội cho bé nhìn thấy các việc làm và cách thức làm việc của mình, đồng thời nên giải thích cho bé về việc đó (dù bé có hiểu hay không). Sau đó nên khuyến khích trẻ tham gia vào công việc phù hợp với khả năng.

Ví dụ: Mẹ đang nhặt rau để nấu canh, hãy giải thích và bảo con trai cùng làm hộ. Sau đó mẹ hướng dẫn bé cách nhặt rau, mặc dù có thể trẻ làm chưa khéo, làm cho rau bị dập nhưng hãy cho cháu làm để có cơ hội rèn luyện lòng yêu thích công việc cũng như các kĩ năng làm việc nhà ngay từ nhỏ

doc16 trang | Chia sẻ: vudan20 | Lượt xem: 680 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp giúp cháu lớp mầm có thói quen tự phục vụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ năng sống sau này. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường “Sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ. Đối với giáo viên đa số đã nhận thức đầy đủ và có thái độ đúng đắn trong giáo dục tính tự lập cho trẻ lên ba. Song về hướng dẫn trẻ hoạt động để hình thành tính tự phục vụ cho trẻ lại rất hạn chế. Nguyên nhân là do người giáo viên cho rằng trẻ còn quá nhỏ để rèn tính tự lập, bên cạnh đó điều quan trọng là cô giáo ngại khó, sợ tốn thời gian (Vì trẻ thực hiện chậm chạp, long ngóng, vụng về..) và có tư tưởng “Thà làm quách cho xong”. Vì vậy để hình thành và phát triển tính tự phục vụ cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo bé nói riêng giáo viên mầm non phối kết hợp với cha mẹ trẻ có những biện pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự phục vụ, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Vậy tự phục vụ là gì? Tự phục vụ là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn thử thách. Tự phục vụ chính là chiếc chìa khóa của sự sống còn, sự phát triển và sự thành công của mỗi con người. Khi nhắc đến dạy kĩ năng tự phục vụ đối với trẻ mầm non, nhiều người cho rằng đó là một cái gì đó rất cao siêu, nhưng thực tế dạy tự phục vụ là dạy những thói quen sinh hoạt rất thường ngày trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh. 2.2. Thực trạng của vấn đề Là một giáo viên (GV) phụ trách Lớp Mầm, bước đầu tôi có những thuận lợi và khó khăn sau: 2.2.1. Thuận lợi: – Trường Mầm non Phường 1 vừa được xây mới cách đây 5 năm, khuôn viên rộng rãi thoáng mát. Nhà trường có truyền thống và nhiều thành tích trong chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ mầm non. – BGH nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao chuyên môn và mua sắm cũng như bổ sung cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi để đảm bảo thực hiện tốt chất lượng giảng dạy. – Bản thân tôi là một GV nhiệt tình với trẻ tâm huyết với nghề nghiệp, có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy tiếp xúc với trẻ, nắm được tâm sinh lý của trẻ và những xu hướng phát triển của trẻ. – Vì đây là lứa tuổi nhỏ nên nhà trường không nhận trẻ vào cùng lúc mà nhận từng đợt nên rất thuận lợi cho tôi trong việc rèn luyện các kĩ năng cho các cháu. Ngoài những thuận lợi trên thì bản thân tôi cũng gặp một số khó khăn: 2.2.2. Khó khăn: – Khả năng nhận thức của các cháu không đồng đều. Có một số cháu chưa biết nói hoặc nói chưa thạo nên sẽ gây khó khăn cho các cháu trong việc thể hiện ý muốn của mình đối với cô giáo. Nhiều cháu khả năng tự phục vụ còn rất yếu, còn rụt rè nhút nhát nữa nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu được trẻ. Bên cạnh đó lại có những cháu nghe nhưng chưa hiểu được các yêu cầu của cô, thích tự làm theo ý mình nên sẽ gây khó khăn cho tôi trong việc rèn nề nếp cho các cháu. – Đây là nội dung giáo dục còn khá mới mẻ trong chương trình giáo dục trong chương trình giáo dục cho trẻ mầm non. Vì vậy, rất ít tài liệu để tham khảo tìm hiểu. – Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kĩ năng cho trẻ. – Lớp có 42 cháu là quá đông. Nhiều trẻ mới đến lớp lần đầu nên chưa có nề nếp. – Việc tổ chức các hoạt động tập thể, trò chơi nhằm hình thành rèn luyện kĩ năng cho trẻ còn khó khăn. – Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống phát triển hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện tử – Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh. 2.2.3. Thực trạng về kĩ năng tự phục vụ của trẻ Đầu năm tôi khảo sát thực tế về khả năng tự phục vụ của trẻ, kết quả nhận được như sau: Nội dung khảo sát Nội dung khảo sát Đạt Đạt Chưa đạt Chưa đạt Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ - Tự cầm ca nước để uống 1. Kĩ năng giao tiếp 28 20 66.7 39 14 32 33.3 61 - Tự xúc cơm ăn 2. Kĩ năng thích nghi 30 16 71.4 31 12 46 28.6 69 - Tự dẹp chén sau khi ăn 3. Kĩ năng tự phục vụ và tự bảo vệ 15 15 35.7 29 27 47 64.3 71 - Tự cởi, mặc quần áo 17 40.5 25 59.5 - Đánh răng sau khi ăn 10 23.8 32 76.2 - Tự mang giày, dép 22 52.4 20 47.6 - Tự xếp mền, gối sau khi ngủ dậy 16 38.1 26 61.9 - Khả năng trẻ tự làm mà không cần GV nhắc nhở 3 7.1 39 92.9 Bảng 1. Kết quả khảo sát khả năng tự phục vụ của các cháu trong lớp Thời gian đầu, khi tôi mới nhận lớp, tôi thấy khả năng nhận thức của các cháu chưa tốt, khả năng tự phục vụ còn hạn chế (bảng 1). Có nhiều cháu nói chưa tốt, chưa biết một số thói quen tự phục vụ đơn giản như: Có 33.3% cháu khát nước, muốn uống nước nhưng không biết cách lấy nước uống, không biết cách cầm ca uống nước như thế nào cho không bị đổ. Có một số trẻ khi có nhu cầu đi vệ sinh nhưng lại không biết cởi quần nên bị tè dầm ra quần (59.5%). Có 71.4% cháu có thể tự cầm muỗng xúc cơm ăn, 47.6% cháu không biết mang giày, ăn xong không biết dẹp chén, không biết giúp đỡ ba mẹ, cô giáo hay bạn bè xung quanh những công việc vừa sức... Bên cạnh đó còn có nhiều cháu nghe chưa kịp và chưa hiểu các hiệu lệnh của cô: “Các con hãy giúp cô khiêng ghế xếp vào bàn”... Chính vì không hiểu nên trẻ không thực hiện được. Tuy nhiên có một số trẻ có kĩ năng tự phục vụ rất tốt nhưng lại thiếu tính chủ động (92.9%), trẻ luôn đợi chờ người lớn nhắc nhở thì trẻ mới chịu làm... Để có những biện pháp hay, thiết thực nhằm hướng dẫn trẻ kĩ năng tự phục vụ, đầu tiên tôi sẽ tìm hiểu những nguyên nhân đưa đến việc trẻ chưa có khả năng tự phục vụ và ý thức tự phục vụ của trẻ chưa tốt: Nguyên nhân thứ nhất: xuất phát từ phía trẻ, có một số cháu có do khả năng tiếp thu chậm hoặc không chịu tập trung khi cô hướng dẫn, điều này sẽ khiến cho giáo viên dễ trở nên bực mình và có thể la mắng hoặc đánh trẻ. Đối với những giáo viên có cái tâm thì cố kìm chế bản thân để hướng dẫn cháu đến nơi đến chốn. Nhưng bên cạnh đó lại có những cô sợ bản thân mình kìm chế không được nên đã bỏ thí cho trẻ tự mày mò hoặc làm luôn giúp trẻ. Việc này cứ thế lâu dần hình thành ở trẻ thói quen ỷ lại, lười làm việc và không biết kỷ năng tự phục vụ. Nguyên nhân thứ 2: xuất phát từ giáo viên, do cô không chịu khó, không kiên trì hướng dẫn cho trẻ những kĩ năng tự phục vụ nên cô hay làm giúp trẻ cho đỡ mất thời gian, đỡ phải bực tức khi cháu làm không được. Việc này lâu dần sẽ khiến cho trẻ có tư tưởng ỷ lại, không chịu làm. Vì trẻ nghĩ: ‘Mình không làm thì cô cũng làm thôi”. Nguyên nhân thứ 3: lại xuất phát từ phía phụ huynh, do mỗi gia đình Việt Nam ngày nay thường chỉ có một đến 2 con, tất cả tình cảm cha mẹ dành trọn cho những đứa con yêu qúy của mình. Ngoài ra, có những trẻ là con cầu con khẩn trong gia đình nên được cha mẹ chìu chuộng hết mức. Trẻ luôn được đáp ứng ngay mọi yêu sách, mọi mong muốn của trẻ, ba mẹ và người lớn trong gia đình làm thay trẻ tất cả mọi việc vì họ sợ con vất vả, sợ qúa sức của con, sợ con làm không được theo ý mình, sợ mất thời gian... Điều này lâu dần hình thành ở trẻ tính ỷ lại, luôn dựa dẫm vào người khác, thiếu kiên nhẫn và lười lao động. Ngoài ra còn có vô số các nguyên nhân khác chủ quan hay khách quan đã làm cho trẻ thiếu kĩ năng và thói quen tự phục vụ. 2.3. Các biện pháp thực hiện Ngày nay, nội dung giáo dục kĩ năng tự phục vụ đã được chú trọng. Tuy nhiên việc giáo dục kĩ năng tự phục vụ chưa trở thành một môn học với 1 giáo trình chuẩn được áp dụng trong nhà trường. Qua việc áp dụng sáng kiến này tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé đưa ra một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi hình thành kĩ năng tự phục vụ. Trong năm học 2014 – 2015, tôi đã suy nghĩ và áp dụng một số biện pháp giúp cháu lớp Mầm có thói quen tự phục vụ. 2.3.1. Khảo sát khả năng của trẻ Từ những nhận thức của mình về vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo, tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công việc. Và để gặt hái được nhiều kết quả tốt trong quá trình thực hiện nên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ theo những kĩ năng cấn thiết để giáo dục tính tự lập cho trẻ mà tôi đã xác định ở trên (bảng 1). 2.3.2. Đặt mục tiêu hướng dẫn và rèn luyện những kĩ năng cần thiết. Tôi hướng dẫn các cháu phát triển một số kĩ năng hỗ trợ nhằm giúp trẻ phát triển hoàn thiện và có khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh thực tế như: - Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân - Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự bảo vệ - Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng thích nghi 2.3.2.1. Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân Việc trẻ biết tự chăm sóc mình là những viên gạch đầu tiên xây dựng tính tự tin, tự lập và ứng phó với những đòi hỏi khác. Ví dụ như: Khi trẻ biết cách xếp quần áo thì sau này khi đi học trẻ dễ dàng áp dụng kĩ năng đó vào việc xếp sách vở, đồ dùng đi học. Khi đi làm trẻ sẽ biết sắp xếp công việc tốt hơn. Nếu trẻ không biết mang đôi vớ, giặt bộ quần áo cho chính mình thì trẻ cũng sẽ không biết làm điều đó cho người khác. Dạy cho trẻ khả năng tự chăm sóc mình, ngoài việc tốt cho bản thân trẻ, trẻ tự chăm sóc mình cũng là cách giúp đỡ những người trong gia đình Trẻ không biết tự chăm sóc mình thì sẽ không cảm nhận được sự vất vả khi làm việc gì, không thông cảm và thấu hiểu thì trẻ sẽ không có sự chia sẻ, gắn bó với những tình cảm mà người thân đã giành cho mình. 2.3.2.1.1. Kĩ năng tự chăm sóc bản thân như: Tự nhặt đồ chơi, tự cởi và mặc quần áo, rửa mặt, tay, đánh răng, tự đi dép, chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang khi đi ra ngoài, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang. Trẻ ở độ tuổi này hoàn toàn có thể tự chăm sóc bản thân, chính vì vậy tôi chỉ cần khuyến khích và động viên trẻ trong những buổi học đầu tiên. Ngay từ những ngày đầu tiên đến trường, tôi hướng dẫn trẻ cách tự mặc quần áo, gấp quần áo, cất quần áo vào đúng nơi quy định. Công việc này yêu cầu phải có thời gian và người GV phải kiên nhẫn. Nhờ vậy mà sau gần một tháng, trẻ hình thành thói quen tự lập trong việc chăm sóc bản thân. 2.3.2.1.2. Kĩ năng tự chăm lo vệ sinh cá nhân như: Tự cho quần áo bẩn vào máy giặt, lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn, gạt nước sau khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ rác đúng nơi quy định. Tôi hướng dẫn trẻ cách vệ sinh cá nhân như: rửa tay, rửa mặt, đánh răng, tắm. Dạy trẻ cách an toàn khi thực hiện các việc vệ sinh cá nhân. Tạo cho trẻ có ý thức tự giác chăm lo vệ sinh cá nhân thông qua các câu truyện, hoạt động học tập trên lớp. 2.3.2.1.3. - Kĩ năng hỗ trợ người khác: Bật tivi, bật quạt, lấy chén ăn cơm, lấy ly uống nước, cất dép đúng quy định, xách phụ đồ, tưới cây, dọn dẹp bàn ghế sau khi ăn xong. 2.3.2.2. Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự bảo vệ Để các cháu có thể tự phục vụ mình tốt hơn, các cháu phải có các kĩ năng tự bảo vệ 2.3.2.2.1. Kĩ năng nhận biết nguy hiểm Dạy trẻ học cách nhận biết đồng thời hành động những hành động đúng và kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống. Các mối nguy hiểm trong nhà như: gas, bàn ủi, điện, nước nóng, dao kéo. Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy rối, bắt cóc, bắt nạt, trộm cắp, cướp, lạc đường. Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, kẹt thang máy, chó cắn, ong đốt, ngộ độc Các mối nguy hiểm ngoài môi trường: động đất, lũ lụt, bị sa vào vũng lầy, sông nước. 2.3.2.2.2. Kĩ năng tự xoay sở Không phải những vấn đề trong cuộc sống đều được giải quyết một cách dễ dàng và bạn sẽ phải truyền đạt điều ấy cho trẻ khi chúng đối mặt với thử thách lớn và không phải lúc nào cũng có người lớn bên cạnh để giúp trẻ giải quyết vấn đề. Khi trẻ gặp phải một vấn đề nào đấy, tôi không thay trẻ giải quyết mọi vấn đề, trừ trường hợp bắt buộc phải làm như thế. Thay vào đó, tôi giúp các em tìm kiếm giải pháp thích hợp, điều này sẽ thể hiện sự tin tưởng của mình đối với trẻ có khả năng tự giải quyết vấn đề. Những việc hằng ngày mà tôi thực hiện luôn nhằm khuyến khích kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ giúp trẻ có những sáng kiến tốt hơn trong cuộc sống khi chúng lớn lên. Tôi chỉ là chỗ dựa cho học sinh của tôi chứ không phải là người giải quyết vấn đề cho các em. 2.3.2.3. Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng thích nghi Thích nghi là một kĩ năng sống quan trọng vì nếu kĩ năng giao tiếp là bước đầu để tiếp xúc với môi trường bên ngoài với những người xung quanh, thì thích nghi chính là bước tiếp theo để có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài. Đứa trẻ nếu có kĩ năng giao tiếp tốt có thể đạt được những thành công với những người xung quanh trong việc tham gia vào các hoạt động cùng với họ, là bố mẹ ông bà hay các bạn của trẻ. Thế nhưng nếu trẻ không có khả năng thích nghi thì cũng khó mà đạt được những kết quả tốt cho cuộc sống của mình. 2.3.2.3.1. Kĩ năng thích nghi các loại thức ăn Đôi khi trẻ có những sở thích hơi đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn vài loại thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay thức uống nhất định – Điều đó thường là do chính chúng ta vô tình tập cho trẻ khi còn bé, vì thế một mặt chúng ta vẫn chấp nhận và tôn trọng những sở thích này nhưng vẫn nên tập cho trẻ có khả năng ăn uống đa dạng, vì nếu không có những sở thích về ăn uống của trẻ sẽ gây ra những khó khăn, rắc rối đặc biệt là trong các chuyến đi chơi xa. – Các bữa ăn cho trẻ ở trường tôi luôn tạo không gian thoáng mát, hợp vệ sinh, đảm bảo an toàn cho trẻ để trẻ ăn ngon miệng. – Bữa nào trẻ ăn được thì tôi sẽ gắn một bông hoa và một khuôn mặt tươi cười, bữa nào trẻ khó ăn, không tập trung ăn thì sẽ có một khuôn mặt mếu. Đến cuối tuần làm tổng kết và khen ngợi trẻ về các khuôn mặt cười và tặng cho trẻ một món quà nho nhỏ. Nhưng nếu nhiều khuôn mặt buồn thì cũng không nên trách mắng, mà tôi khuyến khích: “Cô biết là còn sẽ làm tốt hơn” – Trước bữa ăn để tạo cảm giác ăn ngon miệng và thích thú khi ăn, tôi giới thiệu tên các món ăn và tác dụng của những loại thực phẩm mà trẻ ăn thật hấp dẫn và thu hút. 2.3.2.3.2. Kĩ năng thích nghi với môi trường Với môi trường sống cũng thế, một môi trường bẩn thỉu và ô nhiễm là không thể chấp nhận được, nhưng một không gian quá sạch sẽ cũng không phải là một điều kiện tốt cho sự phát triển của trẻ. Trẻ có thể nghịch cát, đất trong một chừng mực vừa phải vì điều đó giúp cho các bé vừa thỏa mãn được tính năng động, vừa nâng cao khả năng đề kháng. Dĩ nhiên là nên có sự giám sát của người lớn, nhưng chúng ta chỉ can thiệp khi có những dấu hiệu của sự nguy hiểm, còn đối với một vài cú vấp ngã của trẻ thì cứ để cho trẻ tự đứng lên, điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn mà còn cho chúng ta tránh được những sự mè nheo của trẻ. Quan điểm của tôi là rèn luyện tính chịu đựng trước khó khăn và phải tự lập chủ động trong mọi biến cố có thể xảy ra. Qua những bài rèn luyện thể chất, rất ít trẻ mắc bệnh về đường hô hấp như sổ mũi, viêm họng... do thay đổi thời tiết. 2.3.2.3.3. Kĩ năng thích nghi với đám đông Con người có hai loại tính khí chính là tính hướng nội và tính hướng ngoại, và trong mỗi loại tính cách đó lại có 4 nhóm cá tính khác nhau. Các nhóm này thường có sự phối hợp để tạo nên những mẫu người có cá tính khác nhau. Vì vậy, tôi cho trẻ làm quen với đám đông phải dựa trên tính cách của các trẻ, tùy trẻ thuộc loại tính khí nào! Với trẻ hướng ngoại thì chúng ta không cần lo ngại, vì trẻ thường có xu thế thích đám đông, thích sự ồn ào vui vẻ, náo nhiệt, thích các hoạt động tập thể. Còn với trẻ hướng nội thì trẻ sẽ ngại tiếp xúc với đám đông, có vẻ như dụt dè nhút nhát. Nhưng các bé cũng có những ưu điểm để có thể thành công, đôi khi còn tốt hơn cả trẻ hướng ngoại nếu được sự định hướng đúng cách của người lớn. Tôi giúp trẻ quen dần với đám đông qua việc cho trẻ tham gia các giờ học dã ngoại, tham gia các hoạt động ở trường. Ngoài ra, trong việc hòa nhập với xã hội, tôi tập cho trẻ những thói quen ứng xử với một phong cách văn minh, lịch sự qua những hoạt động hằng ngày ở trường: – Thói quen biết xếp hàng: Đây là một thói quen mà hầu hết người lớn chúng ta không để ý khi tham gia vào các hoạt động chung. Nhưng hãy cố gắng làm gương và tập cho trẻ có thói quen xếp hàng ngay từ nhỏ để dẩn dần thay đổi được một cách ứng xử kém văn hóa nơi công cộng là sự chen lấn nhau. Ở lớp tôi rèn cho trẻ thói quen xếp hàng (không chen ngang, xô đẩy bạn..) khi tham gia vào một hoạt động nào đó như: cùng nhau xếp hàng đi chơi công viên – Thói quen bỏ rác vào thùng rác: Ngay tại lớp học, tôi cho đặt thùng rác ở nơi qui định, để trẻ thấy việc bỏ rác là 1 thói quen trong lớp. Khi đi chơi ngoài sân trường, cũng cần bỏ rác và hướng dẫn cho trẻ bỏ rác vào các thùng rác công cộng để hình thành thói quen này. Thường xuyên nhắc nhở trẻ vứt rác vào đúng nơi quy định. – Thói quen biết nói xin lỗi và cám ơn: Ngay từ bé, chúng ta cũng cho trẻ thấy cách ứng xử như vậy của người lớn và khi giao tiếp với trẻ, chính tôi cũng phải nói xin lỗi và cám ơn trẻ – Như thế, trẻ sẽ cảm nhận được một cách tự nhiên các cách ứng xử này. Kĩ năng thích nghi là một trong những kĩ năng giúp một đứa trẻ bình thường, không có những năng lực đặc biệt gì nhưng vẫn có thể đạt được những thành công nhất định trong cuộc sống và không gục ngã trước những thách thức khi bước vào đời. Để giúp trẻ hình thành được các kĩ năng trên, tôi từng bước, tùy từng trẻ mà thực hiện: – Đối với trẻ nói chưa thạo, tôi sẽ nói chậm rãi khi hướng dẫn trẻ, dạy trẻ cách truyền đạt thông tin với cô giáo bằng cách ra hiệu khi cần giúp đỡ. Song song đó tôi sẽ đưa các đề tài rèn kĩ năng tự phục vụ vào bài giảng hàng ngày và tiếp tục rèn các kĩ năng này ở mọi lúc mọi nơi cho đến khi trẻ thuần thục. Và tôi sẽ cho trẻ thực hiện mỗi ngày để nó dần trở thành thói quen tốt của trẻ. Tận dụng các tình huống cụ thể từ trẻ để rèn kĩ năng cho trẻ, như thế trẻ sẽ nhớ lâu hơn. – Tôi thường xuyên động viên, khích lệ cổ vũ trẻ, kịp thời khen trẻ khi cháu làm được và làm tốt những công việc tự phục vụ. Nêu gương trước cả lớp những bạn năng nổ, tích cực phụ giúp cô. – Tôi nhẹ nhàng và chỉ dẫn tận tình cho trẻ, tạo cho trẻ cảm giác tự tin là mình có thể làm được và làm tốt. Đây cũng là cơ hội để cô và trẻ gần nhau và hiểu nhau hơn. – Thường xuyên trao đổi thông tin giữa giáo viên và phụ huynh của trẻ. Giáo viên cần tìm hiểu thêm thông tin về trẻ từ phụ huynh: Ở nhà, cháu có hay giúp đỡ ba mẹ không? Cháu thích làm những việc gì giúp mẹ, bố mẹ có để cho trẻ tự phục vụ bản thân những việc vừa sức không: Mang giày dép, xếp quần áo của mình, tự xúc ăn...? – Ngoài việc tìm hiểu từ phụ huynh thì tôi thường xuyên phản hồi thông tin về trẻ cho phụ huynh nắm: Ở lớp, cháu là người như thế nào? Cháu có hay giúp cô không? Những việc trẻ làm tốt khi ở lớp... để phụ huynh tiếp tục khuyến khích cho cháu làm tốt khi ở nhà nhằm xây dựng thói quen tốt cho trẻ. – Ngoài việc cổ vũ những cháu năng động tích cực phát huy khả năng, tôi chú ý đến những cháu còn chậm tiếp thu chưa tốt, rụt rè. Tạo cơ hội để cháu được tự làm những việc vừa sức, hướng dẫn trẻ mọi lúc mọi nơi: Con cứ làm đi, đừng sợ sai, con làm được đấy, cô không mắng đâu!... Khi hướng dẫn trẻ thì giọng nói của tôi cần nhẹ nhàng, chậm rãi, tạo sự gần gũi. Tránh những câu nói mệnh lệnh, cứng nhắc: Làm nhanh đi, làm cái này nè, làm sai rồi... – Tôi không ngừng trao dồi năng lực chuyên môn, học hỏi nơi bạn bè, đồng nghiệp tìm kiếm những phương pháp giảng dạy mới, hay, áp dụng các biện pháp giáo dục linh hoạt nhằm rèn luyện cho cháu có nề nếp, có kĩ năng sống và thói quen tự phục vụ tốt đảm bảo là cháu được hoạt động một cách chủ động, linh hoạt. – Khi hướng dẫn trẻ một kĩ năng nào đó, tôi hướng dẫn một cách chậm rãi từng thao tác một. Khi trẻ đã nắm được thao tác này thì tôi mới chuyển sang thao tác khác. Tôi cho trẻ được thực hiện thường xuyên, liên tục để trở thành kĩ năng, tạo cho trẻ cảm giác phấn khởi là mình cũng giỏi như bạn. Ví dụ: Đối với trẻ xúc ăn chưa thạo. Ban đầu tôi chấp nhận việc cơm sẽ rơi vãi ra nhà hoặc trẻ cho cơm vào mũi. Hoặc đối với trẻ chưa biết cách uống nước tôi đổ chút ít nước vào trong ly và cho cháu tự cầm ly uống, trẻ uống như thế nào là tùy trẻ, lâu dần bản thân trẻ sẽ tự điều chỉnh cho tốt hơn do đã được trải nghiệm nhiều lần và đã có kinh nghiệm ở những lần thất bại trước. Để trẻ có được điều này đòi hỏi chúng ta phải chịu cực đôi chút, kiên nhẫn chờ đợi sự tiến bộ từng ngày nơi con trẻ của chúng ta. 2.3.3. Xác định thời gian dạy trẻ càng sớm càng tốt Đặc điểm tâm lý của trẻ nhỏ là thích bắt chước, tôi luôn tạo cơ hội để trẻ làm những việc này khi trẻ muốn. Ví dụ: trẻ muốn mở cửa thì những cánh cửa nhỏ trẻ có thể đưa tay đến tay nắm được, tôi để bé tự mở, đồng thời hướng dẫn cho trẻ từ cách đút chìa khóa, vặn khóa và mở khóa. Nếu cháu muốn tự đi dép trước khi đi ra ngoài, tôi chờ cháu đi dép chứ không “đi hộ trẻ cho nhanh”. 2.3.4. Xây dựng môi trường làm việc ngay tại gia đình Việc hướng dẫn và rèn luyện các kĩ năng tự phục vụ cho trẻ nếu chỉ có cô giáo và nhà trường thì không thể thành công mà phải có sự phối hợp của các thành viên trong gia đình trẻ như: cha mẹ, ông bà, anh em, Các thành viên trong gia đình luôn tạo mọi cơ hội cho bé nhìn thấy các việc làm và cách thức làm việc của mình, đồng thời nên giải thích cho bé về việc đó (dù bé có hiểu hay không). Sau đó nên khuyến khích trẻ tham gia vào công việc phù hợp với khả năng. Ví dụ: Mẹ đang nhặt rau để nấu canh, hãy giải thích và bảo con trai cùng làm hộ. Sau đó mẹ hướng dẫn bé cách nhặt rau, mặc dù có thể trẻ làm chưa khéo, làm cho rau bị dập nhưng hãy cho cháu làm để có cơ hội rèn luyện lòng yêu thích công việc cũng như các kĩ năng làm việc nhà ngay từ nhỏ. Có thể tích cực “nhờ vặt” để trẻ có nhiều cơ hội được làm việc thì bé mới có được kĩ năng. Không nên có suy nghĩ đợi trẻ lớn mới dạy, thậm chí có thể dạy từ khi bé được 16 tháng tuổi, đừng sợ trẻ làm hư, làm vỡ mà làm thay. 2.3.5. Phân công công việc Trong lớp, tôi phân công công việc cho từng thành viên để bé hiểu rằng mỗi người đều có trách nhiệm với công việc và hình thành thói quen làm việc. Khi tổ chức các hoạt động ở lớp có thể phân công công việc cho các bé, cho bé phụ giúp cô trong giờ ăn: Lấy ghế, lấy khay và khăn ăn, với trẻ lớn hơn có thể giúp cô kê bàn, chia chén muỗng, giúp cô trải chiếu, lấy chăn gối, đệm chuẩn bị giờ ngủ. Khi về nhà, tôi cũng thường nhắc cha mẹ các bé cũng phân công công việc cho bé. Chẳng hạn khi cha mẹ đi làm về, hãy yêu cầu bé phụ mẹ cất dép hoặc giày của mẹ lên kệ. Cứ như thế trẻ sẽ có thói quen hễ thấy mẹ về đến nhà là chạy đến đòi cất giày cho mẹ. Khi đi siêu thị hay đi chợ cha mẹ hãy cho cháu theo và chia cho cháu một món đồ nhỏ để xách cùng. Cần tập và lặp đi lặp lại để trẻ hình thành thói quen. Tuy nhiên khi thấy bé mệt thì không nên bắt ép. 2.3.6. Duy trì thói quen và cách làm việc Việc hình thành một hành động tự phục vụ là điều không khó nhưng cái khó là hình thành thói quen cho trẻ. Chính vì vậy, tôi thường xuyên: Phân công công việc cụ thể; cho trẻ được làm nhiều lần; có những biện pháp khen thưởng, khích lệ, động viên. 2.3.7. Khuyến khích kết quả tốt đẹp trẻ làm được Việc khen ngợi cần được xem như hành động công nhận trẻ đã hoàn thành công việc nào đó, cho dù chúng chỉ hoàn thành ở mức sơ sài nhất. Cụ thể tôi đưa ra những lời nhận xét tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã làm. Tôi không bao giờ dùng những từ khen ngợi quá đáng cho một hành động đơn giản. Thay vào đó là những lời động viên tích cực như: con đánh răng sạch quá, miệng con rất thơm vì con đã đánh răng, cảm ơn con vì đã sắp xếp dép cho lớp, con đi vệ sinh đúng nơi quy định rồi đó, cảm ơn con đã cất dọn đồ chơi gọn gàng cho cô, cô rất vui khi các con giúp cô lau sạch lá cây, Các hình thức tôi thường dùng để khen, tuyên dương những hành động tốt trước lớp: cho trẻ được cắm cờ, 3. Kết quả Trên đây chỉ là một số biện pháp của riêng cá nhân tôi rút ra từ kinh nghiệm giảng dạy, và thực tiễn cuộc sống xung quanh tôi. Những biện pháp trên đã giúp trẻ của lớp tôi có thói quen tự phục vụ tốt hơn. Ngay khi mới vào lớp, nhiều trẻ của tôi chưa có kĩ năng tự phục vụ hoặc tự phục vụ chưa tốt, qua một quá trình rèn luyện cho trẻ với các biện pháp mà tôi đã thực hiện. Giờ đây thì trẻ của tôi đã tiến bộ lên rất nhiều, nhiều cháu có thói quen tự phục vụ rất tốt, cháu thích thú được giúp cô và tự tin đề nghị với người lớn để trẻ được làm: Mẹ, cô để con làm cho, con biết làm mà..., cháu chủ động và mong chờ được ba mẹ, cô giáo và người lớn nhờ giúp (bảng 2). Chính những điều này tạo cho tôi niềm phấn khởi và yêu nghề hơn. Nội dung khảo sát Nội dung khảo sát Đạt Đạt Số lượng Tỉ lệ - Tự cầm ca nước để uống 1. Kĩ năng giao tiếp 42 20 100 39 - Tự xúc cơm ăn 2. Kĩ năng thích nghi 42 16 100 31 - Tự dẹp chén sau khi ăn 3. Kĩ năng tự phục vụ và tự bảo vệ 42 15 100 29 - Tự cởi, mặc quần áo 42 100 - Đánh răng sau khi ăn 42 100 - Tự mang giày, dép 42 100 - Tự xếp mền, gối sau khi ngủ dậy 42 100 - K

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSKKN GIUP TRE TU PHUC VU (hoan chinh).doc
Tài liệu liên quan