Multiboot và đôi điều về Mac

Khi restore, các bạn boot vào đĩa cài đặt SL và mở Disk Utility. Chọn ổ đĩa cần restore và vào

tab Restore. Source: chọn file dmg đã backup từ trước (nếu sử dụng backup file-by-file thì kéo

thả phân vùng chứa dữ liệu backup vào dòng này). Destination: kéo thả đĩa cần restore từ bên cột

trái vào (trong hình thì Destination đúng ra phải là Snow Leopard. Do tôi đang sử dụng nên phân

vùng bị khóa, nhét đỡ ổ đĩa khác vào thay thế). Sau khi restore hoàn tất bạn có thể restart.

pdf18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1889 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Multiboot và đôi điều về Mac, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 4: Multiboot & Đôi điều về Mac Sau phần 3, chắc hẳn rất nhiều bạn đã thử cài đặt Snow Leopard trên máy tính của mình. Thật sự thì tôi không hi vọng nhiều, hoặc sẽ ngạc nhiên, nếu chỉ 13 trang demo của mình có thể giúp ai đó cài đặt thành công Snow Leopard (!). Sự thật là vậy, vì đặc tính khác biệt quá đa dạng trong thế giới PC, bắt tay vào cài đặt hackintosh trên một chiếc máy mới, đồng nghĩa với một kinh nghiệm mới. Chúng ta chỉ có thể tích lũy kiến thức để sử dụng khi cần thiết mà thôi, còn sự thật thì hiếm có 2 lần cài đặt nào của tôi lại giống nhau cả. Ok, không nói nhiều nữa nhỉ. Nói thật là bài demo cài đặt tuần rồi của tôi không mang nhiều tính thực hành cho lắm, đơn giản là vì chúng ta chưa có giải pháp multi-boot cho Mac OS X và Windows. Rất hiếm có ai đủ điều kiện thực hành ngay mà vẫn tiếp tục được những công việc thường ngày của mình với Windows, vì với đa số người dùng PC, Windows là hệ điều hành không thể thiếu. Phần 4 này sẽ bắt đầu với hướng dẫn dual-boot cùng lúc 2 hệ điều hành này, cả trên đĩa cứng MBR lẫn GPT. XII/ Multiboot Mac OS X và Windows. Nếu các bạn cài đặt Mac OS X trên đĩa cứng vật lý riêng biệt, bạn hoàn toàn có thể set đĩa cứng chứa Snow Leopard được ưu tiên boot trong BIOS và dùng Chameleon để chọn vào Windows khi cần, rất đơn giản. Nhưng nếu chúng ta chỉ có một ổ đĩa thì sao? Multiboot trên MBR: Với đĩa cứng đang format dạng MBR (đa phần ổ cứng PC hiện nay đều dùng MBR) và Windows được cài đặt trước, chúng ta cần bản retail Snow Leopard đã được chỉnh sửa để cài đặt trên đĩa MBR (bản gốc của Apple chỉ cho phép cài trên GPT). Bước tiếp theo là dùng Acronis Disk Director (dùng trong Hiren’s Boot cho tiện), chia một phân vùng primary khoảng 20GB trở lên cho Snow Leopard, cuối cùng là active phân vùng đó như trong hình. Dữ liệu và Windows của bạn sẽ không bị gì hết. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiếp theo chúng ta boot vào đĩa cài đặt SL (như hướng dẫn trong phần 3), vào Disk Utility và format phân vùng 20GB khi nãy mới chia theo chuẩn Mac OS Extended (Journaled). Nhớ đừng format nhầm đấy nhé. Các bước cài đặt còn lại diễn ra bình thường. Sau khi cài đặt Snow Leopard đã hoàn tất, bạn hãy thử dùng Chameleon chọn boot vào phân cùng Windows 7 xem sao? Không được à? Đúng vậy. Do Master Boot Record của đĩa cứng đã bị ghi đè bởi Chameleon (trong lệnh fdisk -f boot0 -u -y /dev/rdisk0 ở phần 3). Chúng ta cần sửa lại một chút boot sector cho phân vùng Windows 7 là được. Cách làm như sau: Boot vào đĩa Hiren Boot, khởi động Acronis Disk Director và active lại phân vùng của Windows 7. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Boot vào đĩa cài đặt Windows 7 và chọn Repair my computer. Sau khi quá trình repair kết thúc, khởi động lại máy và dùng Aronis active lại phân vùng Snow Leopard. (nếu không thể repair tự động, các bạn vào tiếp command line trong mục các công cụ repair và gõ lệnh bootrec.exe /fixboot). Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Khởi động lại lần nữa, dùng Chameleon để chọn boot vào Windows 7, bây giờ thì mọi thứ ổn thỏa rồi nhé. Multiboot trên GPT: Nếu bạn quyết tâm format đĩa cứng theo GPT, điều này đồng nghĩa với việc xóa trắng toàn bộ dữ liệu (như đã nói phần 3) để định dạng lại đĩa. Sau khi dùng Disk Utility trong đĩa Snow Leopard format lại theo chuẩn GPT, chúng ta sẽ cài đặt Windows trước rồi Snow Leopard sau. Lưu ý chỉ Vista SP1 trở về sau mới có thể nhận diện và cài đặt trên đĩa cứng GPT. Sau khi cài đặt thành công Windows, các bạn cài đặt tiếp Snow Leopard như bình thường. Sau khi cài đặt hoàn tất, MBR cũng sẽ bị mất do Chameleon ghi đè. Các bạn làm theo hướng dẫn ở phần đĩa MBR để phục hồi boot record cho Windows. “Ghost” cho Snow Leopard? Ok, sau khi có Windows và Mac OS X dual-boot ổn thỏa, chúng ta làm gì tiếp nhỉ? Có lẽ sẽ nhiều bạn nghĩ ngay tới việc sao lưu. Đúng vậy, sau bao nhiêu công sức bỏ ra thì một bản sao lưu sẽ là rất cần thiết, dễ bề “chữa cháy” cho xui xèo gì đó xảy ra trong quá trình khám phá Mac OS X sau này. Để backup Snow Leopard thực ra cũng không đơn giản tí nào. Tôi đã từng nghiền ngẫm rất nhiều công cụ khác nhau và “tạm” rút tỉa được một vài phương pháp sau: Phương pháp 1: Sử dụng phân vùng riêng biệt để backup toàn phần. Chúng ta sử dụng chương trình miễn phí Carbon Copy Cloner trên Mac. Yêu cầu: Một phân vùng trống có dung lượng bằng phân vùng hiện tại chứa Snow Leopard. Format theo HFS+ hoặc NTFS. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Đối với phương pháp 1, các bạn sử dụng phần mềm Carbon Copy Cloner trên Mac để copy toàn bộ nội dung đĩa file-by-file vào phân vùng mới (yêu cầu phân vùng backup format HFS+), hoặc save toàn bộ đĩa chứa Snow Leopard thành file .dmg (một loại ảnh đĩa, giống với iso nhưng có thêm khả năng nén và mã hóa dữ liệu). Các bạn nên sử dụng backup theo kiểu incremental, thời gian và dung lượng mỗi đợt backup sẽ rất thấp. Chi tiết các bạn có thể đọc thêm tài liệu hướng dẫn của CCC. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Khi restore, các bạn boot vào đĩa cài đặt SL và mở Disk Utility. Chọn ổ đĩa cần restore và vào tab Restore. Source: chọn file dmg đã backup từ trước (nếu sử dụng backup file-by-file thì kéo thả phân vùng chứa dữ liệu backup vào dòng này). Destination: kéo thả đĩa cần restore từ bên cột trái vào (trong hình thì Destination đúng ra phải là Snow Leopard. Do tôi đang sử dụng nên phân vùng bị khóa, nhét đỡ ổ đĩa khác vào thay thế). Sau khi restore hoàn tất bạn có thể restart. Phương pháp 2: Sử dụng phần mềm Acronis True Image hoặc Acronis Backup & Recovery. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Phương pháp 2, các bạn sử dụng Acronis True Image cho đĩa MBR hoặc Acronis Backup & Recovery (phiên bản mới hơn của True Image) cho GPT, từ bản này trở đi Acronis mới thêm vào khả năng hỗ trợ GPT. Các bạn chọn chế độ backup sector-by-sector, vì True Image sẽ không hiểu được file system HFS+ của Mac. Ưu điểm của phương pháp này là khả năng nén ảnh đĩa cho dung lượng nhỏ hơn cách 1, nhưng bù lại tốc độ tạo ảnh đĩa rất chậm (khoảng 15 phút 1 lần). Phương pháp 1 nếu dùng incremental backup sẽ rất nhanh, khoảng 2 phút 1 lần backup. Restore lại phân vùng cũng đơn giản, các bạn tham khảo hướng dẫn từ Acronis. Rất nhiều các phương pháp backup khác hoàn toàn không sử dụng được đối với Snow Leopard, vì nhiều hạn chế nhất định. XIII/ Giới thiệu sơ lược Mac OS X desktop & cách cài đặt sử dụng phần mềm, bàn phím. Hiệu năng hệ điều hành, các công nghệ trên Mac OS X. Ở phần trước, rất nhiều bạn đã hỏi tôi: “Có gì hay ở Mac OS X mà phải khổ sở thế?”. Thực sự thì câu hỏi này không dễ trả lời chút nào. Có nhiều điểm Mac không bằng Windows, và bất cứ PC fan nào cũng kể ra được: ít phần mềm chuyên dụng (1 số ngành), ít games, số lượng phần mềm ít hơn, v..v.. Nhưng ngược lại, có những vấn đề Mac tốt hơn hẳn Windows mà phải dùng qua mới biết. Đầu tiên là vấn đề về trải nghiệm. Hệ điều hành Mac OS X được Apple thiết kế rất hợp lý, logic và đặt biệt dễ sử dụng, đó là điều phải khẳng định. Nói không quá thì chỉ cần chưa tới 3 ngày, Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. thậm chí trong 1 ngày, các bạn có thể sử dụng được dễ dàng hệ điều hành này. Mac có một số tính năng tôi rất thích mà Windows không có, chẳng hạn tính năng preview tập tin ngay trong Finder (trình quản lý tập tin của Mac), và tính năng kéo thả spring-loaded cực kì tiện lợi khi di chuyển tập tin. Khả năng xem cover-flow bất kì đâu, Exposé rất hiệu quả trong quản lý cửa sổ, Spaces cho phép quản lý nhiều desktop, từ điển có sẵn hiệu quả với chức năng on-screen translate (dám cá rất nhiều bạn dùng Mac không biết phím tắt này), một số công cụ Uiniversal Access thông minh, khả năng ra lệnh bằng giọng nói, v..v.. chỉ là số ít trong rất nhiều cải tiến đáng giá trong giao tiếp người dùng của Mac. Thời gian khởi động và tắt máy cũng cực kì nhanh, chỉ 15s bật và 2s tắt (!), với một chiếc máy 4 năm tuổi Core 2 Duo đời đầu 1.86GHz và 2GB RAM. Khi khởi động xong Mac chiếm khoảng trên 150MB RAM, quá ít so với số lượng tính năng và hiệu ứng hình ảnh đồ sộ hệ điều hành này mang lại. Thực tế Snow Leopard có thể chạy rất, rất tốt trên các máy netbook Atom và Pentium 4 cổ lỗ với chỉ 512 MB RAM. Độ ổn định của Mac cũng được chứng minh khi hiệu suất sử dụng không hề giảm trong quá trình làm việc dài (48-72 tiếng). Mac cũng ít downgrade như Windows sau quá trình sử dụng 6-12 tháng, ít yêu cầu bảo trì thường xuyên, điều này đặc biệt có lợi đối với người dùng không chuyên. Bên cạnh đó là khả năng quản lý phần lõi hệ điều hành rất tốt của một Unix-based OS, khiến cho việc người dùng vô tình làm hỏng hệ điều hành rất khó xảy ra. Mặc dù Snow Leopard mặc định sử dụng kernel 32-bit, nhưng vẫn có thể chạy các ứng dụng 64- bit và truy xuất bộ nhớ 4GB trở lên. Các bạn có thể google để tìm hiểu thêm cách chuyển đổi Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. sang kernel 64-bit, dù điều này hiện tại vẫn còn nhiều hạn chế do thiếu tính tương thích với một số phần mềm. Về các ứng dụng đi kèm, tôi ấn tượng nhất với tốc độ load các ứng dụng 64-bit, thêm vào đó là khả năng duyệt web với tốc độ tuyệt vời của Safari và việc quản lý email đơn giản tiện lợi của Apple Mail. Việc cài đặt ứng dụng cũng tuyệt vời không kém với khả năng drag -> drop -> run. Quên đi registry phức tạp và việc remove ứng dụng không sạch sẽ của Windows. Việc cài đặt và sử dụng phần mềm đối với Mac đơn gỉản tới mức tôi hoàn toàn quên mất nguồn gốc Unix của nó (làm khó tôi không ít lần trong bài trước). Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Hiệu suất hệ điều hành: Nếu bạn đủ may mắn có thể chạy tất cả các device trên PC của mình với kext nguyên bản của Apple, hiệu suất của hệ điều hành là điều chắc chắn được đảm bảo (EP45-UD3L trong bài 3 là một trong số những hệ thống hoàn chỉnh như vậy). Quan trọng nhất vẫn là chipset và VGA, các thiết bị phụ như sound chip & ethernet không ảnh hưởng tới hiệu suất. Sau nhiều phép đo giữa máy PC của tôi và máy Macintosh có cấu hình tương đương (dùng Geek Bench, XBench, etc), kết quả cho thấy không hề có chút khoảng cách nào giữa hackintosh và Mac chính thống. Nhờ vào khả năng thay thế thành phần linh họat của mình, PC còn có lợi thế hơn Mac rất nhiều khi cần nâng cấp, cũng như rất nhiều PC hiện tại đều có cấu hình cao hơn Macbook – dòng Macintosh được sử dụng nhiều nhất. Về vấn đề bảo mật, có lẽ cũng không cần phải phân tích gì nhiều thêm. Rất nhiều bài viết đã nói về chủ đề này, và tất cả đều có chung một kết luận: khó đánh giá được Windows và Mac ai bảo mật hơn, nhưng Mac ít virus & malware hơn là điều không phải bàn cãi. Mac OS X Desktop: Desktop trên Mac có bố cục khác khá nhiều với Windows. Thay thế cho taskbar quen thuộc là thanh dock với biểu tượng 3D của các chương trình thường sử dụng. Bên phải dock là khu vực dành cho stack & folder. Tất cả các icon trên dock đều có thể kéo thả. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Phía trên màn hình desktop của Mac là thanh menu bar, đây cũng là thanh menu chính trong hệ thống. Menu này được sử dụng chung bởi tất cả các cửa sổ. Khi cửa sổ Safari active, menu bar sẽ hiện lên các option của Safari, các chương trình khác cũng vậy. Thiết kế này cho phép tiết kiệm được diện tích màn hình, khi mà tất cả các cửa sổ đều sẽ loại bỏ được thanh menu vướng víu. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Menu bar cũng có một menu đặc biệt với biểu tượng Apple, đó là system menu. Đây là nơi bạn Shut down / Restart hệ thống, truy cập thông tin About this Mac, update hệ điều hành và truy cập tới System Preferences – Control Panel của Mac. Bên phải menu bar là nơi kiêm chức năng giống như system tray của Windows. Một thành phần khác của Mac desktop là Dashboard. Đây cũng có thể coi là hệ thống quản lý các gadget, giống như gadget trên Windows. Bạn có thể thiết lập Exposé để truy cập nhanh Dashboard bằng các góc màn hình. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Sử dụng bàn phím trên Mac: Nếu ai đã từng tiếp xúc qua sẽ nhận thấy một điều: bàn phím trên Macintosh khác với bàn phím PC. Thật ra không phải cứ bàn phím và chuột do Apple sản xuất mới sử dụng được với Mac, chúng ta vẫn có thể sử dụng “bộ đôi Mitsumi quen thuộc” để làm quen với cô nàng Mac kiêu sa. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Về chuột thì không có gì để nói nhiều, nhưng về bàn phím bạn chỉ cần nhớ quy tắc sau đây: Phím Command (ring button – bông hoa hình vuông) ứng với phím Alt trên bàn phím PC. Phím Option trên Mac tương ứng với phím Windows trên PC. Phím Control vẫn là Control quen thuộc. Các bạn có thễ xem bảng này để hiểu được các kí hiệu tổ hợp shortcut key trên Mac: Phần mềm trên Mac OS X: Như đã nói ở phần trên, phần mềm trên Mac OS X đa phần cài đặt vô cùng đơn giản, thậm chí còn tiện lợi và dễ hiểu hơn cả Windows. Nếu ai bị ám ảnh vì các câu lệnh cài đặt để lôi software xuống “từ đám mây” trên Linux, thì bạn sẽ không phải lo lắng về điều này trên Mac. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Phần mềm trên Mac xét về số lượng thì không nhiều bằng Windows, nhưng đa số các phần mềm cần thiết đều có (trừ một số “cần câu cơm” của các bạn chuyên ngành xây dựng, CAD/CAM). Nếu các bạn tìm đúng nguồn thì sự thiếu hụt phần mềm sẽ là chuyện không bao giờ xảy ra. Các phần mềm tôi dùng đa số đều có bản dành riêng cho Mac, và nếu quan sát kĩ, bạn sẽ thấy đa số phần mềm viết cho Mac (tính cả các loại dùng Cocoa framework) đều được “trau chuốt” kĩ càng về giao diện hơn nhiều so với bản Windows. Khoan bàn về phần mềm tính phí, số lượng phần mềm miễn phí trên Mac cũng không hề ít. Có thể kể ra một số phần mềm tiêu biểu như: Adium, VLC player, bộ codec Perian, Dropbox, Filezilla, Picasa, Real Player, iStat menus,Teamviewer, Yahoo! Messenger, bộ phần mềm iLife, iPhone SDK của chính Apple, v..v.. Các dạng plug-in rất hữu dụng dành cho Safari như Glims, Safaristand, cùng nhiều phần mềm tính phí nhưng cũng rất cần thiết khác: VMWare Fusion, Speed Download, Socialite, Crossover (chạy phần mềm Windows trên Mac), bộ Adobe Creative Suite, v..v.. Có một vấn đề lâu nay vẫn là nỗi băn khoăn của nhiều bạn khi so sánh Mac và Windows. Khi hỏi “vì sao tôi nên dùng Mac?” thì câu trả lời đa phần rất chung chung là “Mac là dành cho dân đồ họa, thiết kế bạn ơi”. Quả thật dù không phải là dân trong nghề, nhưng tôi cũng cố gắng giải thích thử nguyên nhân mà nhiều người “truyền tai” nhau xem sao: Thứ nhất, máy Mac đẹp và nghệ thuật, tôn lên vẻ “độc nhất vô nhị” của chủ nhân. Tất nhiên Vaio cũng đẹp, Dell Adamo cũng không kém ai, nhưng chẳng phải tất cả đều là PC sao? Với giới nghệ thuật và ưa thích sáng tạo, thì sự “độc nhất” là tiêu chí mà họ luôn tôn thờ và hướng đến. Sáng tạo thì phải khác người, phải khác so với tất cả số còn lại, không ai cho sự sao chép là một cách sáng tạo cả. Mac vô tình đáp ứng được nhu cầu này. Thứ hai, Mac dễ sử dụng và thiết kế rất thẩm mĩ, logic, đặc biệt phù hợp với những người không có thiên hướng tìm tòi kĩ thuật, phải bỏ nhiều thời gian ra khám phá sản phẩm. Đó là lí do vì sao đa số người dùng Mac không quan tâm nhiều đến chiếc máy họ họat động ra sao, chỉ cần biết nó xứng đáng với số tiền bỏ ra là đủ. Giao diện thẩm mĩ cùng nhiều hiệu ứng mượt mà cũng là môi Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. trường xúc tác quan trọng giúp khả năng sáng tạo bay cao. Thứ ba, mọi người vẫn cho rằng giới làm nghệ thuật và sáng tạo nội dung rất giỏi kiếm tiền, và chỉ có họ mới có thể sẵn sàng chi tiền cho những chiếc máy tính 40-50 triệu đồng vì mục đích công việc, giải trí. Thứ tư, Mac là hệ điều hành có giao diện đồ họa hoàn chỉnh đầu tiên, trước Windows khá lâu. Tất cả các phần mềm lớn, các chuẩn công nghiệp trong giới thiết kế và đồ họa đều hướng về Mac như cột chỉ đường. Điều này là không thể chối cãi, khi các phần mềm chuyên dụng trong xử lý in ấn, ấn bản, đồ họa và dựng phim chuyên nghiệp đều được sử dụng trên Mac. Trong giới này, Mac là phổ biến nên việc bạn sử dụng Windows sẽ chẳng giống ai, rất khó giao tiếp với mọi người. Thứ năm, Apple cũng tối ưu hệ điều hành và máy tính của họ hướng đến giới sáng tạo nội dung chuyên nghiệp. Từ lâu Mac đã là chiếc máy tính có màn hình hiển thị màu sắc thuộc loại tốt nhất trên thị trường, màu sắc chân thật giúp việc in ấn giảm bớt được nhiều rủi ro và công sức sửa đổi hơn. Dân làm đồ họa chắc chắn đều ngán ngẩm mỗi khi nhắc đến sự khác biệt màu sắc một trời một vực khi chuyển đổi tài liệu từ Mac sang PC. Ngay cả hệ thống font chữ và render engine trên Mac OS cũng rất phức tạp, và được tối ưu cho hiển thị hình ảnh hơn là đọc văn bản nhiều. Từ font chữ raw phải qua ít nhất 3 bước render và làm mịn với anti-aliasing trước khi xuất ra màn hình. Lướt web, đọc văn bản hay ebook trên Mac cũng là một trải nghiệm cực kì thoải mái. Thứ sáu, các phần mềm đồ họa danh tiếng như Creative Suite của Adobe họat động trơn tru và hiệu suất cao hơn đáng kể so với trên PC cùng cấu hình. Thực tế đã kiểm nghiệm những trường hợp tận dụng tài nguyên không tốt trên PC, dẫn tới crash khi mở file đồ họa dung lượng lớn, trong khi với Mac thì hoàn toàn không xảy ra. Vậy thì sao nào? Rõ ràng, với 6 nguyên nhân kể trên, chiếc máy tính Apple rất phù hợp dành cho giới đồ họa và sáng tạo nội dung số. Tuy nhiên bên cạnh đó, nếu bạn yêu thích Mac OS X, yêu thích sự đơn giản của nó và có đủ khả năng tậu cho mình một chiếc Mac vì thấy nó phù hợp, “đủ xài” cho nhu cầu giải trí và làm việc hàng ngày (như tôi chẳng hạn), bạn hòan tòan có thể đến với Mac dù không biết Photoshop nó mặt mũi thế nào cả (Tất nhiên tôi không nói đến những bạn mua Mac vì nhu cầu trang trí, trang sức hoặc các thể loại khác). Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Kết luận: Tất nhiên những điều nhận xét về Mac OS X tôi viết ở trên đều hoàn toàn đứng trên quan điểm cá nhân, và được rút ra từ kinh nghiệm bản thân khi đã sư dụng qua rất nhiều hệ điều hành khác nhau, tôi không bàn về Windows vì đa số chúng ta đều quá quen thuộc và dùng cả chục năm nay rồi. Có thể bạn sẽ có một trải nghiệm khác của tôi, nhưng dù sao đi nữa, Mac OS X vẫn đáng cho một lần thử. Kết bài, chúc các bạn “Happy hackintosh!”. Nguồn: voz.vn Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhuong_dan_cai_dat_mac_osx_tren_pc_toan_tap_piv_6606.pdf
Tài liệu liên quan