Nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ TF/TR theo thời gian lên men đến chất lượng chè

Lời cảm ơn.

Mở đầu 1

 

Phần I : Tổng quan 2

1.1 : Nguồn gốc phân loại cây chè 2

 1.1.1 : Nguồn gốc của cây chè 2

 1.1.2 : Phân loại cây chè 3

1.2 : Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới và trong nước 4

 1.2.1 : Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới 4

 1.2.2 : Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trong nước 7

1.3 : Thành phần hoá học chính của chè 9

 1.3.1 Nước 9

 1.3.2 Chất hoà tan (chất chiết) 11

 1.3.3 Các nguyên tố tro 12

 1.3.4 Tanin (chất chát). 14

 1.3.5 Cafein (hợp chất Ankaloit) . 17

 1.3.6 Protein và Axit amin. 17

 1.3.7 Hợp chất Pectin. 18

 1.3.8 Hợp chất Gluxít 18

 1.3.9 Men trong chè 18

 1.3.10 Vitamin. 19

1.4. Khái quát về TF và TR 19

 1.4.1 Giới thiệu chung 19

 1.4.2 Cơ sở khoa học TF, TR 19

 1.4.3 Ảnh hưởng của TF và TR đến chất lượng chè 22

 1.3.4 Ảnh hưởng của thời gian lên men đến hàm lượng TF

 và TR 23

1.5 Quy trình chế biến chè đen 24

 1.5.1 Quá trình bảo quản chè 24

 1.5.2 Qúa trình héo 25

 1.5.3 Qúa trình phá vỗ tế bào và định hình 26

 1.5.4 Quá trình lên men chè 27

 1.5.5 Quá trình sấy chè 29

 1.5.6 Phân loại chè 30

1.6 Đánh giá chất lượng sản phẩm theo quan điểm hoá sinh và cảm

 quan 31

 

Phần II : Đối tượng , nội dung và phương pháp nghiên cứu 36

2.1 Đối tượng nghiên cứu 36

2.2 Hoá chất và thiết bị dụng cụ thí nghiệm 36

 2.2.1 Hoá chất 36

 2.2.2 Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm 36

2.3 Phương pháp nghiên cứu 36

 2.3.1 Xác định độ ẩm của chè 36

 2.3.2 Xác định hàm lượng tro 37

 2.3.3 Xác định chất hoà tan 37

 2.3.4 Xác định Tanin theo phương pháp Leventhol 38

 2.3.5 Xác định TF và TR bằng phương pháp đo quang phổ

theo Robert và Smith 39

 2.3.6 Đánh giá chất lượng chè bằng phương pháp cảm

 quan 40

 2.3.7 Xác định TF và TR theo thời gian lên men 42

 

Phần III : Kết quả và thảo luận 44

3.1 Nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ TF/TR có trong chè đen với chất lượng sản phẩm 44

 3.1.1 Đánh giá chất lượng chè băng phương pháp cảm quan 44

 3.1.2 Nghiên cứu thành phần hoá học của chè 46

 3.1.3 Nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ TF/TR đến chất

lượng chè 48

3.2 Nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ TF/TR theo thời gian lên men đến chất lượng chè 52

 3.2.1 Đánh giá chất lượng chè lên men theo thời gian bằng phương pháp cảm quan 52

 3.2.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian lên men đến hàm lượng các chất màu TF và TR 54

 3.2.3 Nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ TF/TR theo thời

gian lên men đến chất lượng chè 56

 

Kết luận

 

Tài liệu tham khảo

 

 

 

 

 

 

 

 

doc96 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ TF/TR theo thời gian lên men đến chất lượng chè, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra còn làm cho chè có vị dễ chịu, đặc biệt trong quía trình làm héo lá chè, Pectin có thể tham gia vào sự tạo thành thơm mùi táo chín thường xuất hiện khi làm héo chè. Các hợp chất Gluxit: Các hợp chất Gluxit bao gồm + Gluxit hoà tan: Gluco, fructo, saccaroza chiếm khoảng 1-1,5% lượng chất khô. Dưới tác dung của nhiệt độ xảy ra phản ứng caramen hoá nhưng ở mức độ thấp tạo vị ngọt dễ chịu và mùi thơm cho chè. Ngoài ra các chất này tác dùng với các axit amin tạo ra các mùi thơm đặc trưng nhưng nó có khả năng tạo màu tối cho chè. + Gluxit không hoà tan: xellulo, licnhin, Hemixellulo là những hợp chất cao phân tử và không hoà tan tạo nên màng cho tế bào (Lá non tạo màng dày, lá già tạo màng mỏng). Hàm lượng các chất này tăng làm cho chất lượng chè giảm không tốt cho chè nên han chế. Các hợp chất này còn được gọi là chất xơ của chè chiếm khoảng 10- 23% lượng chất khô còn trong chè thành phẩm chiếm khoảng 16- 18 % lượng chất khô. Các men trong chè Men thuỷ phân: Men amilaza thuỷ phân tinh bột tạo thành đường (hoà tan) có lợi đến chất lượng chè vì nó tham gia vào quá trình caramen hoá. Men Proteaza thuỷ phân Protein tạo thành các axit amin có ý nghĩa đến chất lượng chè vì axit amin tham gia vào các quá trình dehydro hoá tạo nên mùi thơm cho chè. Men Pectinaza thuỷ phân Protopectin tạo thành pectin hoà tan đâylà phản ứng có lợi vì Pectin tạo nên vị ngọt và độ nhớt cao làm cho nước chè sánh lại. Men oxyhoá : Men polyphenoloxydaza (PPO) tham gia xúc tác quá trình tanin tác dụng với O2 tạo thành các sản phẩm ngưng tụ khác nhau và các chất đặc trưng cho chè đen. Men Peroxydaza (PO) là loại men xúc tác để oxyhoá Tanin bởi H2O2 (peroxit) tạo thành các sản phẩm ngưng tụ không tan, không có vị, không màu, không có lợi cho chè đen nên trong sản xuất chè hạn chế sự hoạt động của men PO và tạo thuận lợi cho men PPO hoạt động làm cho chất lượng chè tốt. Vitamin Vitamin là nhóm hợp chất hữu cơ phân tử thấp có bản chất hoá học khác nhau, chúng có tác dụng là kết hợp với Protein tạo nên các enzim. Chúng được chia thành 2 nhóm lớn: Vitamin tan trong nước và tan trong chất béo. Nhóm tan trong chất béo: Vitamin nhóm A (A1, A2), Vitamin nhóm D (D1,D2), Vitamin nhóm K (K1,K2) ngoài ra còn có các Vitamin E, F. Nhóm tan trong nước: Vitamin nhóm B (B1,B2,B6,PP,B12)và Vitamin C chứa hàm lượng khá lớn trong chè, trong suốt quá trình sản xuất chè đen, do các phản ứng oxyhoá xảy ra mãnh liệt trong quá trình lên men nên phần lớn Vitamin C bị phá huỷ, tiếp đén quá trình sấy liên tục bị tổn thất thêm vì thế trong chè đen lượng Vitamin C còn lại không nhiều. Vitamin C có tác dụng chống bênh hoại huyết, tham gia vào các quá trình oxyhoá - khử trong cơ thể và rất dễ bị phá hoại bởi các chất oxyhoá . Vậy có thể nói giá trị sinh học của chè ở một mức độ lớn phụ thuộc vào hàm lượng các Vitamin có trong chè. Khái quát về Teaflavin và Tearubigin Giới thiệu chung Teaflavin và tearubigin là hai chất màu vàng và nâu đỏ, là sản phẩm oxyhoá của các polyphenol – catechin: L- epigallocatechin (L- EGC) và L- epigallocatechingallate (L- EGCG) bởi enzim trong quá trình lên men chè đen. Teaflavin, Tearubigin là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng chè đen sản phẩm. Theo Roberts, màu sắc của nước chè do Tearubigin quyết định còn vị đậm của nước chè do tỷ lệ giữa Teaflavin và Tearubigin quyết định. Tearubigin chiếm tỷ lệ 5-8% trong chè khô và cho màu ánh đỏ nâu còn Teaflavin tuy chỉ có 0,2- 2% khối lượng chất khô nhưng lại quyết định đén màu sắc của nước chè. Nhiều nghiên cứu cho thấy Teaflavin không phải là một chất mà là hỗn hợp của hai chất Teaflavin và Teaflavingallat. Một điều chú ý là Teaflavingallat này rất không ổn định, chỉ cần oxyhoá một chất là chuyển thành Tearubigin. Loại chè cấp thấp không cần phải hãm lâu nhưng nước đã nâu sẫm và đục lờ là do có sự oxyhoá nhanh chóng của hợp chất này. Các nhà nghiên cứu đã khai thác ngay hiện tượng này và dựa vào đó để đánh giá và tiêu chuẩn hoá chất lượng chè. Người ta xây dựng được cả bậc thang màu với tỷ lệ Teaflavin và Tearubigin thay đổi để so saqnhs màu nước chè hãm. Cơ sở khoa học tạo Teaflavin và Tearubigin Quá trình oxyhoá Teaflavin là một quá trình hoá sinh phức tạp, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: nhiệt độ, thời gian hãm, chất lượng nước chè và độ đậm đặc của nước chè, cường độ ánh sáng và sự có mặt của hàn loạt chất trong chè… Dưới tác dụng của men polyphenoloxydaza thì L- EGC và L-EGCG bị oxyhoá tạo thành octoquinon, sau đó các octoquinol thông qua quá trình dimerhoá tạo thành những bis- flavanol. Các dimer thường có màu. Ví dụ như nếu xuất phát từ catechin thì dimer tạo được sẽ có vị chát nhẹ và có màu đỏ. Khi phân tử diphenol quinol tác dụng với một polyphenol thì tạo thành bis- flavanol không màu. Các diphenol có thể tương tác với nhau qua phản ứng oxyhoá- khử, sắp sếp lại phân tử để tạo thành Teaflavin có màu vàng, để phản ứng xảy ra thì gốc Y ở C3 phải là gốc gallo. Phần trong vòng chấm gọi là gốc tạo màu benzo- tropolon. Theo Roberts, nếu oxyhoá đồng thời L- EGC và L-EGCG đều dẫn tới tạo thành Teaflavin. Còn chỉ oxyhoá L-EGCG thì chỉ tạo nên Teaflavingallat. Theo Roberts, Tearubigin là sản phẩm chuyển hoá oxyhoá của Teaflavin và bis- flavanin. Tearubigin là hợp chất có tính axit do có nhóm cacboxyl được tạo nên khi mở vòng Pirogallo trong gốc benzo- tropolon của Teaflavin sự oxyhoá Teaflavin thành Tearubigin xảy ra như sau Tearubigin ở trạng thái tự do có màu hồng nhạt, khi đính với Natri có màu nâu gạch với Kali và Canxi có màu đỏ tươi. Cuối cùng một số Tearubigin bị Protein trong lá làm kết tủa thành những tinh thể không hoà tan và bị mất đi cùng với bã chè. Vì thế cho nên chè lên men quá mức chứ ít Tearubigin hơn chè lên men vừa đủ. Tóm tắt theo sơ đồ sau: Các phản ứng trong các quá trình chế biến bình thường, không diễn ra hoàn toàn vì vậy trong chè đen thành phẩm vẫn còn có cả Teaflavin cũng như Tearubigin. Vào lúc sắp kết thúc quá trình lên men, các Teaflavin đã tích luỹ tích tiếp tục tạo thành Tearubigin. Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đối với quá trình này, ở nhiệt độ thấp các Teaflavin hình thành nhiều hơn, Teaflavin có liên quan đến màu sáng bóng của nước chè pha, còn Tearubigin liên quan đến độ đậm đặc (độ sánh và nồng độ). Vậy phương pháp lên men lý tưởng tạo ra sự cân bằng thích đáng giữa Teaflavin và Tearubigin. ảnh hưởng của Teaflavin và Tearubigin đến chất lượng chè đen Như mọi người đều biết một trong những chỉ tiêu chính của chè đen là nước chè pha. Nhờ cóp quá trình lên men lá chè trong chế biến chè đen mà Tanin chè hay các hợp chất polyphenol của lá chè bị oxyhoá dưới tác dụng của men để tạo nên sản phẩm oxyhoá là Teaflavin và Tearubigin. Sự phối hợp giữa hai chất này tạo cho nước chè đen có màu đỏ tươi trong sáng. Theo tài liệu của Roberts mối quan hệ giữa hàm lượng của Teaflavin và Tearubigin đối với màu sắc của nước chè như sau: TF (%chất khô) TR (% chất khô) TF/TR Chất lượng thử nếm 0,23 15,0 1/65,20 0,28 9,2 1/32,80 Màu nước tối 0,38 7,1 1/18,62 đục không trong 0,56 9,3 1/16,60 sáng 0,60 8,1 1/13,50 0,60 13,0 1/13,00 0,78 9,8 1/11,40 0,68 9,2 1/13,50 Màu nước đỏ 1,03 12,9 1/12,50 tươi 1,10 10,3 1/9,30 Trong sáng 1,55 15,9 1/10,30 1,75 15,4 1/8,80 Từ các số liệu này cho thấy muốn làm cho màu sắc của nước chè đen đạt chỉ tiêu chất lượng tốt thì ít nhất hàm lượng Teaflavin phải ³ 0,78% đồng thời tỷ lệ giữa Teaflavin và Tearubigin nằm trong một giới hạn nhất định. Nói chung đối với chè đen bán thành phẩm muốn đảm bảo chất lượng về màu sắc của nước pha nên khống chế tỷ lệ TF/TR =1/10á1/12, đối với chè thành phẩm tỷ lệ này lên đến 1/6. Hợp chất Teaflavin ( bao gồm cả Teaflavingallat) là hợp chất có màu vàng tươi vị chát dịu và có hương thơm nhẹ, chúng là những chất góp phần tạo nên màu sắc của nước chè đen và có liên quan đến độ tươi sáng của nước pha, đồng thời cũng góp phần làm tăng vị của chè. Tearubigin là nhóm chất có màu đỏ nâu, cùng vơpí Teaflavin chúng quyết định màu sắc đặc trưng của nước chè đen. Bản thân Tearubigin có vị nhạt nên giữ vai trò không đáng kể vào sự hình thành vị của chè. ảnh hưởng của thời gian lên men đến hàm lương Teaflavin và Tearubigin . Trong quá trình chế biến chè đen, sau giai đoạn vò là giai đoạn lên men lá chè. ở giai đoạn vò, quá trình lên men đã xảy ra khi tế bào của lá chè bị phá vỡ men sẽ tiếp xúc với các chất và nhờ O2 của không khí xâm nhập vào trong khối chè, trong khối chè xảy ra hàng loạt các biến đổi oxyhoá quan trọng tạo ra hương vị màu sắc đặc trưng cho nước chè đen. Nhưng muốn đạt đến mức độ oxyhoá cần thiết các chất polyphenol trong lá chè đòi hỏi phải được lên men nhất định. Nếu thời gian lên men nhanh thì không tạo được màu sắc hương vị cần thiết của nước chè do quá trình oxyhoá chưa xảy ra hoàn toàn. Ngược lại nếu kéo dài thời gian lên men thì xảy ra sự lên men quá mức làm cho hương vị của chè nhạt đi, màu sắc không đạt yêu cầu (màu nước kém trong sáng). Vì thế thời gian lên men có liên quan mật thiết đến sự tạo thành và chuyển hoá các sản phẩm oxyhoá của hợp chất polyphenol do đó làm ảnh hưởng đến màu sắc hương vị của chè đen. Theo tài liệu của Roberts, hàm lượng Teaflavin và Tearubigin là sản phẩm oxyhoá cuối cùng của hợp chất polyphenol biến đổi theo thời gian lên men nên màu sắc của nước pha cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp như bảng sau: Thời gian lên men (h) Vị chè (điểm thử nếm) Màu nước (điểm thử nếm) TF (% chất khô) TR (% chất khô) 1 0,30 3,70 1,64 13,10 2 4,10 4,50 1,50 16,60 3 3,30 3,30 1,38 17,00 4 2,70 2,20 1,33 17,30 5 2,00 1,00 1,22 17,80 Từ bản số liệu trên ta thấy sau một thời gian lên men, hàm lương Teaflavin tương đối lớn nhưng hàm lượng Tearubigin quá thấp, vị đắng nước pha tuy quá tốt nhưng loại chè này là chè lên men non. Hàm lượng Teaflavin giảm dần khi thời gian lên men tăng nhưng hàm lượng Tearubigin lại tăng lên làm cho độ tươi sáng của nước pha kém dần, màu sắc tối lại đồng thời vị của nước chè kém đi do hiện tượng lên men quá mức. Tóm lại, theo số liệu trên bảng thời gian lên men chè đen nên khống chế trong khoảng 2- 3 (h) kể từ khi kết thúc giai đoạn vò chè. Tuy nhiên thời gian lên men nhanh hay chậm phụ thuộc vào điều kiện chế biến từng nơi từng thời vụ và chất lượng đặc tính nguyên liệu. Quy trình chế biến chè đen Nguyên liệu Bảo quản lá chè tươi Làm héo Phá vỡ tế bào và định hình Lên men lá chè Sấy khô Bán thành phẩm Phân loại Sản phẩm Quá trình bảo quản chè: Mục đích: làm cho lá chè không bị dập nát, ôi ngốt. Cơ sở của quá trình: gồm hai giai đoạn Giai đoạn 1: Do khi lá chè bị ngắt ra khỏi cây thì sự sống vẫn còn nên quá trình tổng hợp các chất vẫn diễn ra dựa trên cơ sở các chất đã tích luỹ trong các mao dẫn, qúa trình này sẩy ra ngắn và đây là qúa trình có lợi đến chất lượng của chè. Giai đoan 2:Thực chất là quá trình phân giải các chất. Nhiệt sinh ra tích luỹ trong khối chè, làm cho khối chè nóng lên các men hoạt động mạnh, thúc đẩy quá trình phân giải, chất khô trong lá chè bị suy giảm do tốc độ phân giải nhanh đây là quá trình không có lợi trong sản xuất chè. Phương pháp bảo quản: để làm giảm sự tích luỹ nhiệt và ẩm trong khối chè. Phương pháp làm thoáng gió: Lợi dụng sự đối lưu tự nhiên của không khí để hạn chế sự tích luỹ nhiệt và ẩm trong lá chè. Chủ động làm thoáng gió (gió nhân tạo) kết hợp với đảo trộn nhưng phương pháp này làm cho lá chè bị dập nát Làm thoáng gió tích cực: cho không khí đi xuyên hẳn qua lớp chè, đây là phương pháp tiến nhất hiện nay vì nhiệt thoát nhanh Bảo quản trong phòng lạnh: chỉ sử dung trong quá trình nghiên cứu do tôn kém Quá trình héo Mục đích: Giảm bớt lương nước có trong lá chè và tạo ra những tính chất vật lý, hoá học cần thiết để cho qua trình vò được thực hiên thuận lợi. Trước hết do lương nước của búp chè giảm đi sau giai đoạn héo khoảng 30%, làm cho búp chè dẻo hơn và do đo quá trình vò ít bị nát hơn. Ngoài ra do lượng nước giảm đi mà hàm lượng chất khô trở nên đậm đặc hơn giúp cho các phản ứng hoá học xảy ra nhằm tạo ra chất lượng của chè thành phẩm. Phương pháp héo chè. - Phương pháp héo tự nhiên :các nước nhiệt đới với năng lượng gió và năng lượng mặt trời phong phú có nhiều ưu điểm để khai thác phương pháp này như ấn Độ ,Xiclanca, các nước châu Phi và Việt Nam Ưu điểm chủ yếu của phương pháp này là ít tốn năng lượng cho quá trình làm héo, và do thời gian làm héo kéo dài 2-4giờ (làm héo trực tiếp dưới ánh mặt trời) và 16-20 giờ (làm héo trong nhà không có tường bao che) các quá trình hoá sinh trong lá chè sẩy ra được hoàn thiện hơn và chất lượng tốt hơn. Tuy nhiên, do héo tự nhiên phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện khí hậu và thời gian héo kéo dài nên làm cho chu kỳ sản xuất kéo dài, nâng xuất cho một chu kỳ thấp. - Phương pháp héo nhân tạo :đối với các nước nền công nghiệp phát triển và không được thiên nhiên ưu đãi như các nước nhiệt đới, đã phải nghĩ ra phương pháp làm héo lá chè bằng chính năng lượng nhiệt do đốt cháy các nguyên liêụ như: than, dầu ... Các nước này đã chế tạo ra các máy làm héo có tác dụng liên tục và có khả năng làm giảm độ ẩm của lá chè đúng yêu cầu công nghệ trong khoảng thời gian 3giờ. Như vậy nhờ các máy làm héo các nhà công nghệ hoàn toàn chủ động được thời gian sản xuất, rút ngắn được thời gian sản xuất và cơ khí hoá tự động hoá dây truyền sản xuất chè đen. Kiểm tra quá trình làm héo: Hiện nay mỗi nước tuỳ thuộc vào điều kiện nguyên liệu cụ thể mà các nhà công nghệ có yêu cầu về mức độ làm héo lá chè khác nhau. Mức độ làm héo tỉ lệ giữa lượng chất khô và lượng nước của lá chè đã làm héo ở ấn Độ Xiclaca các nhà công nghệ đã chấp nhận tỉ lệ này là 1:2 nghĩa là búp chè sau khi héo có độ ẩm là 66-67%,còn ở Liên Xô cũ búp chè sau khi héo có độ ẩm 60-62% thì chè sản phẩm có chất lượng cao. Công nghệ chế biến chè ở nước ta còn quá trẻ ,bởi vậy những nghiên cứu cơ bản về nguyên liêu nước ta chưa được tiến hành toàn diện .Các cơ sở chế biến chè nước ta hiện đang áp dụng mức độ héo của Liên Xô ,điều này không làm hài lòng các nhà nghiên cứu và công nghệ Việt Nam. Quá trình phâ vỡ tế bào và định hình chè. Mục đích: Các chất hoà tan trong nước có trong tế bào của lá chè ,mà quan trọng nhất là các catechin thực hiện được quá trình oxyhoá dưới tác dụng của các enzim PPO(polyphenoloxydaza) và PO(peroxydaza) phải được tiếp cận với O2 không khí .Muốn vậy phải phá vỡ vỏ và màng tế bào để chuyển các enzim lẫn cơ chất của chúng ra bề mặt lá. Quá trình này được thực hiện nhờ tác dụng cơ học xảy ra khi vò nguyên liệu trong các máy vò. Ngoài ra do có quá trình vò các chất hoà tan trong chè đi vào nước nóng tốt nhanh hơn khi pha chè và thể tích của khối chè cũng giảm đi giúp cho quá trình bao gói, vận chuyển dễ dàng hơn . Phương pháp phá vỡ tế bào và định hình chè: Với chế biến nhỏ trong gia đình cỡ 10kg nguyên liệu thì người ta có thể dùng tay hoặc chân để vò nát tế bào của lá chè. Tuy nhiên phương pháp này gây mất vệ sinh và không có khả năng tạo ra đủ độ xoăn cho lá chè nên ngoại hình của nó thường không đẹp. Với các xưởng chế biến có công suất 12 tấn nguyên liệu trở lên, hiện đang sử dụng loại máy vò chuyên dùng tác dụng đơn hoặc kép có bộ phận ép và bộ phận làm nguôị. Tuỳ thuộc vào kích thước của máy vò mà lượng chè héo ở lần vò thứ nhất vào khoảng 100-200kg/máy. Trước kia để đạt được độ dập tế bào theo yêu cầu của quá trình lên men, máy vò được trang bị thêm bộ phận ép ,nhưng theo qui trình mới để thuận tiên người ta không sử dụng nữa. Để thay vào phần lực đã mất đi do không có bàn ép, các nhà khoa học Liên Xô đã tâng lượng chè cho vào máy ở mỗi lần vò lên 180-200kg/máy. Chính lượng chè hơn này đã tạo nên một lực ép đáng kể và hoàn toàn có thể thay thế lực do bàn ép tạo ra. Do cấu tạo đặc biệt và từ đó dẫn đến sự chuyển động độc đáo của máy vào mà khối chè trong máy chịu các lực khác nhau, theo ý kiến của các nhà thiết kế và chế tạo, nhờ tác dụng của các lực xuất hiện lúc vận hành máy mà khối chè trong máy phân ra làm hai vùng. ở vùng trung tâm, chúng chuyển động từ dưới lên theo phương pháp thẳng đứng với vận tốc là 0,02m/s. ở vùng ngoại vi, khối chè chuyển động từ tâm ra thanh máy theo phương nằm ngang với vân tốc 0,51m/s. Chính nhờ sự chênh lệch vận tốc này mà lá chè bị xé rách và xoăn lại . Thành lập một chế độ vò mới thích hợp rất phức tạp và phải căn cứ vào chất lượng số lượng nguyên liệu nhập về nhà máy trong một ngày đêm, mức độ làm héo chè và mùa sản xuất chè. Kinh nghiệm cho thấy chè càng non và qua héo nhẹ phải được vò với cường độ nhẹ hơn chè già. Trời nóng nhiệt độ của phòng vò càng cao thì thời gian vò phải rút ngắn nhưng số lần vò phải tăng lên. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước ,từng địa phương và từng cơ sở chế biến mà có thể áp dụng các công thức vò như sau: Công thức Số lần và số máy vò Thời gian vò(phút) A 3 2 2 45'-45'-45' 30'-30'-30' B 3 3 2 45'-45'-45' 30'-30'-30' C 2 2 1 45'-45'-45' 30'-30'-30' Theo công thức a, chè héo được định lượng theo từng lý lịch và đưa đi vò lần thứ nhất trong 3 máy vò với thời gian 45 phút. Hết thời gian này chè được đưa đi phân loại, phần chè không lọt qua lưới của 3 máy vò trong lần vò thứ nhất được dồn lại để đưa đi vò lần thứ 2 trong 2 máy và với thời gian 45 phút. Sau khi kết thúc lần vò thứ 2, chè được đưa đi phân loại và phần không lọt lưới sàng được đưa đi vò lần 3 trong 2 máy vò. Công thức b được áp dụng cho các xưởng vừa chế biến chè đen vừa chế biến chè xanh. ở đây phần chè vụn khi chế biến chè xanh được dung để chế biến chè đen, nên ở lần vò thứ 2 của quá trình người ta bổ xung thêm vào mỗi cối vò 50kg chè lọt sàng của lần vò 1 khi chế biến chè xanh. Do vậy, phải bố trí thêm một máy vò nữa để quá trình vò được ổn định. Thực tế cho thấy, dù bố trí theo công thức nào thì thơi gian của mỗi lần vò vẫn phải bằng nhau. Quá trình phân loại giữa các lần vò nhằm mục đích tách phần chè nhỏ, đủ độ dập tế bào khỏi khối chè vò, đánh tơi các cục chè bị vón lại, tạo điều kiện thông thoáng giảm nhiệt độ và tạo ra các tính chất cơ lý mới để quá trình vò tiếp theo được thuận lợi. Sau khi phân loại chè, phần chè lọt lưới sàng đã đủ tiêu chuẩn về kích thước và độ dập tế bào được giải vào các khay với độ dày 4-5cm và đưa đi lên men. Phần chè không qua lưới của làn vò một và lần vò 2 được đưa đi vò lần 3 và cũng được đưa đi lên men. Quá trình lên men Mục đích: Quá trình lên men là giai đoạn quan trọng trong sản xuất chè đen. Chính nhờ quá trình này mà nguyên liệu sau 2 quá trình héo và vò chịu những chuyển hoá sâu sắc về mặt hoá học, để tạo nên các tính chất đặc trưng về mầu sắc mùi vị và ngoại hình của chè sản phẩm. Cơ sở của quá trình lên men lá chè Quá trình chế biến chè đen là một ví dụ điển hình về nghệ thuật sử dụng enzim có ngay trong chính bản thân của nguyên liệu trong công nghiệp thực phẩm. Nên nhiều nhà nghiên cứu và công nghệ đã dành nhiều cố gắng nhằm làm sáng tỏ bản chất hoá học và sinh học của quá trình lên men lá chè. Theo ý kiến của viện sĩ A.M.Oparin thì quá trình lên men lá chè được tóm lược qua 2 quá trình sau: Catesin + O2 đ Orthoquinol (1) Orthoquinon đ sản phẩm màu, vị (2) Quá trình (1) xảy ra với sự tham gia của các enzim oxy hoá khử và tuỳ thuộc vào bản chất cuả các Catesin tham gia phản ứng mà lượng oxi tiêu tốn cho quá trình khác nhau. Khi oxy hoá Epicatesin (EC) hoặc Epicatesingalat (ECG) thì cần 2 nguyên tử oxy. Khi oxy Epigallocatesin (EGC) và Epigallocatesingalat (EGCG) thì lượng oxy chỉ cần 1,5 mol cho 1 mol mỗi loại. Ngoài ra độ bền của Orthoquinon cùng phụ thuộc vào bản chất của các Catesin. Ngoài bộ phận Catesin bị oxy hoá dưới tác dụng của enzim, một bộ phận Tanin chè cũng có khả năng tự oxy hoá để trở thành Orthoquinon. Quá trình (2) là sự chuyển hoá tiếp của Orthoquinon ngoài sự xúc tác của enzim. Theo Robert ( người Anh) thì sản phẩm của quá trình lên men có vai trò quyết định chất lượng của chè đen là do sự ngưng tụ của các Orthoquinon thuộc 2 catesin có hàm lượng chiếm đến 80% tổng lượng Tanin chè là Epigalocatesin và Epigallocatesingalat. Các Catesin còn lại cũng tham gia vào quá trình oxy hoá kết tủa nên các orthoquinon nhưng do thể oxi hoá khử của các orthoquinon này cao nên bị các gallocatesin khử và lại trở về trạng thái ban đầu. Theo luận điểm của Roberts nếu xảy ra sự tương tác giữa 2 gốc difenolquinon tạo nên các Dicatesin và Theaflavin hoặc Theaflavingallat. Từ Theaflavin nếu xảy ra sự đứt vòng Puran của vòng Tvopolon thì sẽ tạo thành Thearubigin. Tuỳ thuộc vào quá trình lên men mà tỷ lệ giữa TF và TR trong chè đen khác nhau. Tuy nhiên TR bao giờ cũng nhiều hơn TF 4 – 6 lần. Mặc dù vậy nhưng vai trò của TF vẫn được khẳng định là quan trọng khi đánh giá chất lượng của sản phẩm, chính sản phẩm này cho nước chè mầu vàng mật ong tươi sáng, còn TR cho nước chè mầu đỏ nâu. Kỹ thuật lên men Các nhà khoa học chia quá trình lên men lên lá chè làm 2 giai đoạn : giai đoạn thứ nhất bắt đầu khi tế bào lá bị phá vỡ sau lần vò 1 và kết thúc cùng lúc với lúc kết thúc quá trình vò, giai đoạn này kéo dài 2-3 giờ. Giai đoạn 2 kể từ lúc đưa chè vò vào phòng lên men cho đến khi quá trình lên men kết thúc, giai đoạn này kéo dài từ 2-5 giờ. Vì quá trình lên men xảy ra ngay trong khi vò cho nên ở phòng vò, các điều kiện tối thiểu về nhiệt độ, độ ẩm của O2 không khí cũng phải được đảm bảo để quá trình lên men xảy ra bình thường. Để đạt được các điều kiện tối thiểu này, ở các phòng vò và lên men đều bố trí quạt, máy điều hoà, máy phun ẩm. Ngoài ra để dảm bảo điều kiện về vệ sinh an toàn cho công nhân thao tác, ở 2 phòng này tường và nền phòng vò, lên men được bố trí có độ nghiêng thích hợp. Chè sau khi vò và phân loại được rải vào các khay bằng gỗ có kích thước khác nhau rồi đưa vào phòng lên men. Phần lọt qua sàng được rải vào khay với chiều dày 4-6 cm, phần còn lại thì 6-8 cm, các khay chứa chè được chồng lên nhau và mỗi chồng cao Ê 1- 1,2 m. Trong quá trình lên men nhờ các phản ứng oxi hoá khử mà lá chè mất dần các hoạt tính ban đầu và có được đặc trưng của lá chè lên men. Màu xanh được thay bằng màu đồng đỏ , mùi hăng ngái được thay bằng mùi thơm thoảng của lá chè đã lên men và vị đắng chát mất dần nhường chỗ cho vị chát dễ chịu. Kiểm tra quá trình lên men Để kết thúc quá trình lên men được đúng đắn và khắc phục những sự cố có thể xảy ra khi lên men, cần thường xuyên theo dõi các thông số kỹ thuật như nhiệt độ, độ ẩm và đặc biệt là sự giảm hàm lượng Tanin theo thời gian lên men. Bảng tiêu chuẩn Tanin cho quá trình lên men ( tính theo % chất khô) Phần 1 Phần 2 Sau vò lần 1 Kết thúc lên men Sau vò lần 2 Kết thúc lên men 8-10 10-12 12-14 14-16 16-18 18-20 20-22 7-8 8-9 10-12 13-15 13-15 13-16 13-16 - 8-10 10-12 12-14 14-16 - - - 7-8 8-9 10-12 11-13 - - Quá trình sấy chè Mục đích và cơ sở khoa học Ngay khi quá trình lên men két thúc, nghĩa là các chỉ tiêu chất lượng dã đạt yêu cầu cần chấm dứt hoạt động lên men của enzim. Muốn vậy phải dùng nhiệt độ cao vừa để đạt được mục đích này vừa để nhằm hoàn thiện chất lượng của sản phẩm. Kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây đã chứng minh chắc chắn rằng những chuyển hoá này xảy ra ngoài tác dụng của enzim dưới tác dụng của nhiệt độ cao và độ ẩm thích hợp của chè sau khi sấy đã góp phần tạo ra hương vị mới cho chè sản phẩm. Mục đích của quá trình sấy chè : Diệt men : dùng nhiệt độ cao, trong suốt quá trình lên men hoạt tính của men giảm đáng kể vì bản chất của men là Protein mà tanin trong chè tác dụng với Protein để tạo thành chất không tan. Khi Tanin bị oxi hoá đồng thời nó tấn công vào men xúc tác làm cho nồng độ men giảm, nồng độ chất xúc tác giảm nên quá trình diệt men diễn ra nhanh chóng. Làm khô chè : độ ẩm của chè sau khi lên men 63-65% do đó sấy để làm khô chè độ ẩm giảm xuống còn 3-5 % để cố định hình dáng cho chè tạo điều kiện vận chuyển bảo quản dễ dàng. Thiết bị và kỹ thuật sấy chè Hiện nay trong công nghiệp chế biến chè đang sử dụng nhiều loại máy sấy khác nhau nhưng thông dụng nhất là loại máy sấy băng truyền dùng tác nhân sấy là không khí nóng. Các loại máy sấy này thường bao gồm 3 bộ phận chính là : Calorife gồm buồng đốt và hệ thống ống gang với diện tích trao đổi nhiệt là 110 m2. Không khí sạch được quạt hút vào các ống ngang và được khí nóng từ buồng đốt luồn qua thành ống ngoài đốt nóng đến nhiệt cần thiết trước khi vào buồng sấy. Buồng sấy là 1 hộp bằng gang có dung tích đủ chứâ hệ thống 4 băng chuyền. Bộ phận tiếp liệu: gồm có bồn chứa chè lên men, tay gạt để điều chỉnh lớp chè trên băng truyền sấy. Nhìn chung qua các thực nghiệm dù sấy theo phương pháp nào thì chất lượng của chè khô ( chè bán thành phẩm) cũng chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như nhiệt độ, vận tốc của tác nhân sấy và thời gian sấy.. Phân loại chè Mục đích : Phân loại chè đen theo mức chất lượng để đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng và tạo cho sản phẩm có kích thước phù hợp với thói quen tiêu dùng, phù hợp với các loại bao bì. Thiết bị sử dụng Sàng : chè bán thành phẩm được đi qua các sàng khác nhau có tính năng khác nhau, việc sàng chè chia làm 3 giai đoạn. + Sàng thô : gồm chè bán thành phẩm to, già ban đầu được đưa vào sàng thô, nhằm làm giảm k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLCN1017.doc
Tài liệu liên quan