Ngoại hối và đổi mới chính sách ngoại hối ở Việt Nam hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG I:

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI

VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI.

1.Chính sách quản lý ngoại hối

1.1. Ngoại hối

1.2. Chính sách quản lý ngoại hối

2. Vai trò của vốn đầu tư nước ngoài

2.1. Sự cần thiết phảo thu hút vốn đầu tư nước ngoài

2.2. Tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và những tác dụng mà đầu tư nước ngoài mang lại

CHƯƠNG II:

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VÀ TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI

ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

2. Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

a.Vấn đề mở tài khoản

b.Về chuyển vốn vào Việt Nam

c.Vấn đề chuyển vốn ra khỏi Việt Nam

d.Vấn đề tỷ giá

3.Nguyên nhân của những tồn tại

3.1Nguyên nhân chủ quan

3.2Nguyên nhân khách quan

CHƯƠNG III:

KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HƠN CHÍNH SÁCH

QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ

VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Những định hướng cơ bản để hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối

2. Những giải pháp để thực hiện những định hướng cơ bản trên

2.1. Về mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ

2.2. Quản lý nguồn vốn

a.Luồng vốn vào

b.Luồng vốn ra

2.3. Quản lý việc mua bán ngoại tệ của các doanh nghiệp

1. Những kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước nói riêng và nhà nước nói chung

KẾT LUẬN

 

doc46 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngoại hối và đổi mới chính sách ngoại hối ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hết năm 1998 đã có 838 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (bằng 33,68% tổng số dự án được duyệt) và 624 dự án đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản (bằng 25,08% số dự án). Về cơ cấu lãnh thổ: Trước kia tỉ trọng rất chênh lệch giữa Bắc-Nam, giữa hai trung tâm thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội thì tới nay khoảng cách này đã giảm dần. Cho đến nay tỉ trọng vốn đổ vào phía Bắc đã tăng lên 35% sự vươn lên của các tỉnh phía Bắc mà đặc biệt là Hà Nội một phần là do thế mạnh riêng của mỗi vùng nhưng cũng một phần do chính sách điều chỉnh của nhà nước. Về địa bàn đầu tư: Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên chính phủ đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Tuy vậy, cho đến nay vốn nước ngoài vẫn được đầu tư tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế xã hội. Vốn đầu tư vào các vùng được xếp theo thứ tự sau: Cơ cấu đầu tư theo vùng thời kỳ 1988-1999 (%) 1.Đông Nam Bộ 53,13 5.Đồng bằng sông Cửu Long 2,46 2.Đồng bằng sông Hồng 29,6 6.Bắc Trung Bộ 2,38 3.Duyên hải Nam Trung Bộ 7,64 7.Tây Nguyên 0,16 4.Đông Bắc 4,46 8.Tây Bắc 0,15 Về cơ cấu theo ngành kinh tế thời kỳ 1988-1999 Ngành Số dự án (%) Vốn đăng ký (%) 1.Nông-Lâm nghiệp 10,6 3,59 2.Thuỷ sản 3,6 0,96 3.Công nghiệp 40,6 37,78 4.Xây dựng 10,3 12,37 5.Khách sạn, du lịch 7,8 13,13 6.Giao thông, vận tải, bưu điện 5,3 9,23 7.Tài chính, ngân hàng 1,1 0,54 8.Văn hoá, Y tế, Giáo dục 3,3 1,27 9.Các ngành dịch vụ khác 9,4 21,13 Tổng 100 100 Số liệu trên cho thấy các dự án đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du lịch và dịch vụ. Các ngành nông, lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn thấp hơn. Về hình thức đầu tư Hiện nay theo quy định luật đầu tư nước ngoài thì có các hình thức đầu tư nước ngoài như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác liên doanh. Liên doanh chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các hình thức đầu tư, nó chiếm tới 64,6% số dự án, chiếm 65,3% vốn đăng ký. Đứng thứ 2 là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, chiếm 27,1% số dự án và 17,5% vốn đăng ký. Hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 8,3% số dự án và 16,9% số vốn đăng ký. Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Quản lý ngoại hối đã có từ lâu nên nó gắn với chính sách tiền tệ của quốc gia nhưng quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì chỉ thực sự tồn tại trong những năm gần đây. Là vấn đề quá mới nên những phát sinh, tồn tại đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt và giải quyết là vấn đề bức bách và thường xuyên xảy ra. Sau đây là nghiên cứu thực trạng của việc quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vấn đề mở tài khoản: Mở tài khoản tại ngân hàng trong nước: Như quy định của ngân hàng nhà nước đã nêu ở trên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ được mở một tài khoản đồng Việt Nam và ngoại tệ tại một ngân hàng thương mại ở Việt Nam, còn trong trường hợp doanh nghiệp có các chi nhánh ở địa phương khác doanh nghiệp có thể mở các tài khoản phụ tại các địa phương này để tiện cho hoạt động. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý của ngân hàng nhà nước đối với các hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì thay bởi việc theo dõi nhiều tài khoản thanh toán khác nhau ngân hàng nhà nước chỉ phải theo dõi hoạt động tài khoản tại một ngân hàng duy nhất mà doanh nghiệp mở tài khoản. Tuy nhiên hiện nay quy định này đang gây sự phản ứng mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp này. Đặc biệt là sau công văn 67/CV-NH cho ngân hàng nhà nước gửi tới các ngân hàng thương mại yêu cầu phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của ngân hàng nhà nước về quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo như thông tư số 06/TT-NH ban hành ngày 18.9.1993. Các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại cho rằng những khó khăn đó thể hiện như sau: - Các công ty 100% vốn nước ngoài và các liên doanh hướng dẫn chỉ được giao dịch với một ngân hàng, điều này giúp đơn giản hoá việc kiểm soát nhưng đồng thời cũng mang những hiệu quả bất lợi cho các doanh nghiệp liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài. - Các công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh cho rằng bằng việc áp dụng quy định một ngân hàng, ngân hàng vô hình chung đã hạn chế lượng tiền mà các công ty này được phép hoặc mong muốn đi vay từ thị trường. - Nhu cầu đi vay của các doanh nghiệp là tất yêu và nó có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, nó làm giảm bớt các dự án đầu tư của một số công ty và có thể ảnh hưởng xấu đến dự án. Theo thông báo của ngân hàng ngoại thương Pháp BFCE tại ngân hàng đã có tới 4 dự án đình hoãn vô thời hạn. - Các ngân hàng cho rằng: Việc áp dụng quy định một ngân hàng dẫn đến rủi ro lớn trong việc cho vay của các ngân hàng do khó đáp ứng được tốt các khoản vay của các doanh nghiệp nhất là các khoản vay lớn. Thực tế là ở Việt Nam hiện nay các ngân hàng khó đáp ứng được nhu cầu vay lớn của các doanh nghiệp. Hơn nữa việc này làm giảm hiệu quả của các dịch vụ khách hàng của ngân hàng thương mại, các ngân hàng đều muốn các doanh nghiệp vay vốn phải mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng của họ. Những kiến nghị này là phù hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp và nền kinh tế thị trường nhưng nhìn chung họ đã chưa hiểu kĩ quan điểm của cơ quan quản lý. Trên thực tế, ngân hàng nhà nước chỉ hạn chế việc mở tài khoản thanh toán để dễ dàng hơn trong việc quản lý ngoại hối của các doanh nghiệp này ma không hạn chế việc mở tài khoản trong nước nhằm mục đích vay vốn. Các doanh nghiệp chỉ được mở một tài khoản thanh toán nhưng có thể nhiều tài khoản tiền vay. Vấn đề mở tài khoản ngân hàng nước ngoài Ngân hàng nhà nước đã quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền mở tài khoản tại ngân hàng với mục đích: - Tiếp nhận vốn vay của nước ngoài - Gửi một phần doanh thu của doanh nghiệp trong phạm vi số tiền gốc và lãi của khoản vay đến hạn phải trả - Thanh toán các khoản chi phù hợp với hợp đồng vay vốn - Chi trả nợ và lãi đến hạn Qua thực tế kiểm tra và báo cáo của các doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước đã thấy có nhiều tài khoản mở hoặc có hoặc có nhiều khoản vay chưa được ngân hàng nhà nước xác nhận. Thực tế này cần phải được khắc phục nhanh chóng bởi vì với những tài khoản mở ở ngân hàng trong nước việc chuyển tiền và thanh toán vẫn nằm trong phạm vi quốc gia, ngân hàng nhà nước vẫn có thể tác động được khi cần thiết trong khi tài khoản mở ở nước ngoài thì nếu không quản lý chặt chẽ sẽ rất dễ gây ra các tiêu cực hoặc ảnh hưởng bất lợi cho phía Việt Nam. Vấn đề chuyển vốn vào: Nhìn lại sau 11 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với 6 tỷ USD vốn thực hiện đó là điều đáng mừng. Tuy 6 tỷ USD vốn thực hiện chưa là gì đối với các nước khác nhưng đối với Việt Nam nó đã nói lên nhiều điều. Với 6 tỷ USD mà 16,5 vạn người đã có việc làm. Nhiều dây chuyền công nghệ mới đã được đưa vào Việt Nam tạo điều kiện sản xuất được những hàng hóa có chất lượng cao có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vốn chuyển vào cũng làm cải thiện phần nào cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam vốn đã thường xuyên thâm hụt. Vốn chuyển vào có tác động quan trọng như vậy nhưng nếu vốn chuyển vào không được kiểm soát chặt chẽ thì nó có thể gây ra những hậu quả xấu về sau này đòi hỏi ngân hàng phải quản lý được. Nhưng vốn ngoại tệ đưa vào nhiều có thể dẫn đến sự hợp lý của chính sách tiền tệ hiện tại, ngoài ra nó cũng có thể dẫn đến tăng lượng đôla trong điều kiện đồng Việt Nam chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi. Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì bên nước ngoài phải chuyển vốn pháp định vào Việt Nam theo đúng tiến độ góp vốn đã ghi trong hợp đồng. Quy định rất cụ thể nhưng trên thực tế các doanh nghiệp không thực hiện cam kết của mình trước đây. Họ chuyển vốn vào không theo lệnh góp vốn còn về phía ngân hàng nhà nước cũng không có điều kiện nắm được chắc chắn dòng vốn ngoại tệ chuyển vào có vai trò hết sức quan trọng trong việc xác lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và toàn bộ chính sách tiền tệ nói chung. Hơn nữa việc buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng cam kết về tiến độ chuyển vốn sẽ có lợi cho bên Việt Nam bởi một số nguyên nhân: -Vốn ngoại tệ chuyển vào là rất quý trong tình trạng thiếu ngoại tệ của ta hiện nay và trong điều kiện đồng Việt Nam chưa thể thành đồng tiền tự do chuyển đổi. -Số ngoại tệ chuyển vào lớn nên bên nước ngoài có xu hướng chậm chuyển bởi chỉ cần chậm một ngày họ đã có lợi khá nhiều chứ chưa nói gì đến cả tháng, cả năm. Trong khi có những doanh nghiệp cần những khoản chi trong ngày hoặc thậm chí một vài ngày để thực hiện những công vụ cấp bách thì buộc bên nước ngoài thực hiện cam kết là cần thiết. Ví dụ, sau đây là một phương thức mà bên nước ngoài thường sử dụng do những sơ hở về phía Việt Nam. Khi thực hiện dự án A, hai bên cam kết bên Việt Nam đóng góp 30% vốn pháp định, bên nước ngoài đóng góp 70% vốn pháp định. Lịch đóng góp của phía nước ngoài được quy định như sau: 1 tháng sau khi nhận được giấy phép kinh doanh của SCCI, bên nước ngoài phải chuyển vào 25% vốn pháp định, 50% sẽ đóng góp sau một năm và 25% còn lại sẽ đóng góp sau 1 năm tiếp theo. Như vậy, phải sau 2 năm bên nước ngoài mới đóng góp đủ số vốn pháp định trong khi lợi nhuận họ được chia theo tỷ lệ 7/3 ngay từ năm đầu tiên, đó còn chưa kể đến tình trạng hiện nay đa số các doanh nghiệp lại không thực hiện việc góp vốn pháp định theo như cam kết. Chính vì vậy, ngân hàng nhà nước phải tìm biện pháp để kiểm soát được việc chuyển vốn của bên nước ngoài bảo đảm quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam và nhà nước Việt Nam. Ngoài việc quản lý nguồn ngoại tệ chuyển vào một yêu cầu cấp thiết khác đó là quản lý vốn góp bằng máy móc thiết bị. Nó không phải là ngoại tệ nhưng liên quan đến lượng ngoại tệ mà bên nước ngoài được chuyển ra. Bởi vì theo như quy định của nhà nước các doanh nghiệp được chuyển ra nước ngoài số vốn góp khi kết thúc dự án mà vốn góp lại bao gồm vốn góp bằng tiền, bưàng máy móc thiết bị hay bằng phát minh. Tuy hiện nay việc chuyển vốn góp này chưa phát sinh do các dự án đều mới được thực hiện nhưng sau này khi các dự án hoàn thành bên nước ngoài sẽ chuyển số ngoại tệ của mình về nước thì nếu không nắm được số vốn chuyển ra làm sao chúng ta chuẩn bị được ngoại tệ cho tương lai. Một sự thiếu tính toán, chuẩn bị thiếu chu đáo sẽ gây ra những hậu quả rất khó lường trước được. Vấn đề vốn góp bằng máy móc thiết bị hiện vẫn gây nhiều tranh cãi, các bên không thống nhất được với nhau và giá trị của máy móc thiết bị góp vào. Bên Việt Nam cho rằng bên nước ngoài đánh giá máy móc thiết bị đưa vào cao hơn giá trị thực của nó. Vấn đề chuyển vốn ra nước ngoài Quản lý việc vốn vào đã rất quan trọng nhưng quản lý việc chuyển vốn ra còn quan trọng hơn do nguồn ngoại tệ khan hiếm của ta hiện nay. Thắt chặt việc chuyển ngoại tệ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam là quan điểm của những nhà lãnh đạo nhưng thắt chặt ở đây cũng chỉ ở trong chừng mực nào đó phù hợp với chủ trương “mở cửa” của đất nước. Thực tế hiện nay khi các doanh nghiệp có đủ các điều kiện quy định đã đóng đủ vốn pháp định và làm đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước Việt Nam đều có thể chuyển vốn ra nước ngoài qua con đường các ngân hàng thương mại mà không cần phải báo cáo với ngân hàng nhà nước, đó là một tồn tại mà cần phải khắc phục trong thời gian tới. Bởi vì nếu ngân hàng không nắm được lượng ngoại tệ chuyển ra khỏi quốc gia thì rất có thể dẫn đến một sự sai lệch nào đó trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Hãy chỉ nhìn ra một nước ngay gần ta là Thái Lan, ngân hàng nhà nước Thái Lan nắm được số liệu vốn chuyển ra, chuyển vào quốc gia trong từng ngày nhờ vào hệ thống số liệu do các ngân hàng thương mại cung cấp. Phải chăng ngân hàng nhà nước Việt Nam không có khả năng thực hiện điều này: Thật ra ngân hàng nhà nước Việt Nam hoàn toàn có khả năng nắm được số liệu đó nếu các ngân hàng thương mại kết hợp tốt với ngân hàng nhà nước, họ có trách nhiệm đối với lĩnh vực này. Hiện nay tình trạng trên vẫn còn tồn tại do ta chưa có một chế độ báo cáo thông tin của các ngân hàng thương mại. Vấn đề về tỷ giá Một thực tế không thể phủ nhận là sự nỗ lực và thành công của ngân hàng nhà nước trong việc giữ tỷ giá ổn định trong thời gian qua, sự ổn định ở đây không phải là sự cứng nhắc mà là tỷ giá có tác động thúc đẩy phát triển sản xuất, trợ giúp sự tăng trưởng kinh tế. Từ chế độ nhiều tỷ giá trước đây này Việt Nam đã thực hiện chế độ một tỷ giá hình thành theo quan hệ cung cầu thị trường và có sự điều chỉnh của nhà nước.Với chế độ tỷ giá như vậy, phía đối tác nước ngoài nói riêng và các nhà kinh doanh nói chung đã yên tâm hơn trong việc bỏ vốn vào kinh doanh mà không lo sợ về biến động của tỷ giá. Tuy nhiên cũng còn nhiều tiếng kêu từ phía nhà sản xuất, họ cho rằng tỷ giá của Việt Nam hiện nay là chưa hợp lý, ngân hàng nhà nước đã xác định tỷ giá cao hơn giá trị thực của nó và theo họ cần phải phá giá đồng Việt Nam, đưa đồng Việt Nam về với giá trị thực của nó nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng Việt Nam có sức cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đây là phản ánh của các doanh nghiệp nhưng đó cũng chỉ là những phản ánh, ngân hàng nhà nước có trách nhiệm xem xét đánh giá nhưng chấp nhận hay không đó lại là một vấn đề khác. Họ nói phải phá giá nhưng chưa nhận thức được tác hại ghê gớm của việc phá giá không đúng đối với nền kinh tế như thế nào. Chỉ cần một sự biến động của tỷ giá thôi có thể phá tan thành quả của bao năm cải cách, phá tan những cái đã có, mà để đạt được chúng ta phải lao tâm khổ tứ rất nhiều. Thực tế là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ tồn tại tại ở Việt Nam trong 12 năm qua nhưng ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá tới hoạt động của những doanh nghiệp này không phải là không có. Theo uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư đẻ có một số dự án không thực hiện được do sự biến động của tỷ giá đã làm đảo lộn đến những tính toán ban đầu của họ. Ta có thể thấy được sự biến động tỷ giá của đồng Việt Nam với USD qua bảng sau: Số liệu tỷ giá USD thời kỳ 1988-1998 (Đơn vị: VNĐ) Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do 1988 3000 5000 1989 3900 4200 1990 5790 6800 1991 9640 11.975 1992 11.125 11.300 1993 10.695 10.545 1994 10.890 10.990 1995 11.007 11.660 1996 11.124 10.929 1997 11.065 10.864 1998 11.325 10.949 Đồ thị: Biến động tỷ giá trong thời kỳ 1988-1998 Như vậy năm 1988 là năm có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên đến thời điểm 1998 tỷ giá trên thị trường tự do đã tăng lên 2,2 lần và tỷ giá do ngân hàng nhà nước công bố đã tăng lên gần 4 lần. Chỉ trong vòng 10 năm mà tỷ giá biến động lớn như vậy thì việc dự kiến quả là khó khăn. Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp đổ vỡ do sự biến động này không nhiều và chủ yếu tập trung vào những năm đầu vì đây là giai đoạn hết sức khó khăn và đầy biến động trên thị trường Việt Nam, còn thời gian từ 1991 đến nay có thể nói ngân hàng nhà nước đã kiểm soát được tình hình nhưng để đạt được một tỷ giá chuẩn xác hơn chúng ta còn phải cố gắng nhiều. Vấn đề chuyển đổi tiền tệ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu như với các nước khác vấn đề ngoại tệ là thứ yếu thì với Việt Nam, việc bảo đảm ngoại tệ cho các doanh nghiệp lại trở nên hết sức khẩn thiết mà ai trực tiếp làm vấn đề này mới thấy được. Tiếng kêu than của các nhà đầu tư đã làm đau đầu các nhà chức trách. Hàng ngày ngân hàng nhà nước liên tục phải tiếp, giải thích những chất vấn của các nhà đầu tư về vấn đề này. Vấn đề này thực sự phát sinh từ khi nghị định 396/Ttg và đặc biệt sau công văn 67/CV-NH của ngân hàng nhà nước gửi tới toàn bộ các ngân hàng thương mại yêu cầu các ngân hàng thương mại chỉ được bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi có giấy phép của ngân hàng nhà nước. Sau công văn 67/CV-NH các ngân hàng thương mại đã không bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp nếu doanh nghiệp chưa có giấy phép của ngân hàng nhà nước và kết quả là các doanh nghiệp này bị khủng hoảng về nguồn ngoại tệ. Nhu cầu ngoại tệ của họ quá lớn trong khi nguồn thu ít không đủ đáp ưhngs mà đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại. Trong khi lượng ngoại tệ dùng để bán cho các doanh nghiệp này chỉ khoảng 130 triệu USD/năm. Trước khó khăn đó buộc ngân hàng nhà nước phải tìm biện pháp khắc phục vì mặc dù nó là vấn đề không chỉ ảnh hưởng đến các dự án đang hoạt động mà còn ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp sau này. Tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam năm 1999 (tính trung bình trong tháng) Đơn vị: đồng/USD Thời gian Ngân hàng ngoại thương Thị trường tự do Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Tháng 1 13.883 13.888 13.861 13.885 Tháng 2 13.880 13.884 13.864 13.899 Tháng 3 13.899 13.902 13.911 13.937 Tháng 4 13.901 13.905 13.919 13.942 Tháng 5 13.907 13.912 13.922 13.942 Tháng 6 13.915 13.920 13.935 13.956 Tháng 7 13.941 13.947 13.964 13.984 Tháng 8 13.955 13.962 13.978 13.988 Tháng 9 13.975 13.981 14.012 14.039 Tháng 10 13.990 14.004 14.000 14.025 Tháng 11 14.007 14.017 14.029 14.045 Tháng 12 14.015 14.021 14.123 14.135 Nguồn: Vụ quản lý ngoại hối, Ngân hàng Việt Nam Nguyên nhân của tình trạng này có thể nói trước hết là ở phía các nhà doanh nghiệp. Vì theo giấy phép của SCCI cấp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tự cân đối nhu cầu thu chi ngoại tệ của họ và coi đây như một điều kiện khi thẩm định dự án. Các doanh nghiệp đã chấp nhận yêu cầu này, nhưng trên thực tế qua nhiều năm hoạt động họ vẫn chưa có sản phẩm xuất khẩu hoặc xuất khẩu qúa ít dó đó không cân đối được nhu cầu ngoại tệ của họ. Hơn nữa các cơ quan quản lý thiếu thông tin cho các doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn chưa hoàn chỉnh dẫn đến nhiều doanh nghiệp tự coi mình là doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thì họ sẽ được bảo đảm nhu cầu ngoại tệ bằng biện pháp như: - Mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại - Thanh toán bằng hàng hoá có giá trị tương đương Cho nên vấn đề ngoại tệ sẽ không thành vấn đề đối với các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp quan niệm rằng họ sản xuất những mặt hàng mà Việt Nam phải nhập khẩu từ nước ngoài thì đó là hàng thay thế nhập khẩu. Những nhận thức đó là hoàn toàn sai lầm vì hàng thay thế nhập khẩu phải nằm trong danh mục hàng thay thế nhập khẩu do uỷ ban kế hoạch nhà nước công bố trong từng năm. Tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam năm 2000 (tính trung bình trong tháng) Đơn vị: đồng/USD Thời gian Ngân hàng ngoại thương Thị trường tự do Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Tháng 1 14039 14042 14139 14171 Tháng 2 14055 14059 14109 14142 Tháng 3 14060 14062 14090 14117 Tháng 4 14062 14064 14104 14130 Tháng 5 14061 14085 14186 14200 Tháng 6 14084 14086 14185 14210 Tháng 7 14089 14091 14165 14186 Tháng 8 14104 14106 14185 14211 Tháng 9 14161 14163 14328 14366 Tháng 10 14305 14307 14460 14475 Tháng 11 14450 14452 14645 14682 Tháng 12 14509 14511 14581 14610 Nguồn: Vụ quản lý ngoại hối, Ngân hàng Việt Nam Trong năm 2000, chính sách quản lý ngoại hối tiếp tục đổi mới theo hướng nới lỏng các giao dịch ngoại lai, khuyến khích thu hồi nguồn vốn ngoại tệ vào Việt Nam thông qua việc cho phép được nhận tiền chuyển từ nước ngoài về bằng ngoại tệ hoặc VND, không phải đóng thuế, cho phép người cư trú là cá nhân được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ không kể nguồn gốc từ các tổ chức tín dụng được phép hưởng lãi suất bằng ngoại tệ, được rút ra cả gốc và lãi bằng ngoại tệ, bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh... Trong năm 2000, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện mua bán ngoại tệ từ ngân sách nhà nước nhằm bổ sung nguồn ngoại tệ để điều tiết thị trường, đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu. Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện biện pháp kết hối từ năm 1997, NHNN đã thực hiện linh hoạt nhiều biện pháp khác thông qua công tác điều hành tỷ giá, mua bán ngoại tệ trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, quản lý trạng thái ngoại tệ nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ, tăng nhanh vòng quay ngoại tệ hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. Việc NHNN tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối đã góp phần giảm sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường, giải quyết khó khăn về câù ngoại tệ của các doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tăng nguồn thu ngoại tê. Trong bốn tháng đầu năm 2001, tỷ giá biến động ổn định, từ tháng 5/2001 đến nay, tỷ giá có xu hướng tăng, mức tăng tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 6 tháng đầu năm là 2,2% so với tỷ giá cuối năm 2000; tỷ giá trên thị trường tự do tăng khoảng 2,8%. Từ tháng 7 đến tháng 9/2001, tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng biến động khoảng 2% và thị trường tự do biến động 2,1%. Nhìn dài hạn, ta có thể thấy tỷ giá trên thị trường tự do so với chỉ số tiêu dùng trên thị trường xã hội (CPI) biến động, cách xa nhau không đáng kể. Tháng 9/2001 so với tháng 12/1995, USD tăng 36,8%, CPI tăng 17,2%. Năm USD (%) CPI (%) 1996 1,2 4,5 1997 14,2 3,6 1998 9,0 9,2 1999 1,1 0,1 2000 3,4 -0,6 9 tháng đầu 2001 3,3 -0,4 Tóm lại: Vấn đề quản lý ngoại hối của Việt Nam còn nhiều tồn tại cần giải quyết, có những việc phải giải quyết tức thời như vấn đề chuyển đổi tiền tệ hay việc mở tài khoản tại ngân hàng nhưng cũng có những công việc không phải một sớm một chiều chúng ta có thể giải quyết được mà cần phải có thời gian. Sự nỗ lực của các ngành, các cấp như vấn đề quản lý luồng ngoại tệ chẳng hạn. Nguyên nhân của những tồn tại trên Nguyên nhân chủ quan: Nguyên nhân của tình trạng này có thể nói trước hết là ở phía các nhà doanh nghiệp. Vì theo giấy phép của SCCI cấp thì các doanh nghiệp phải tự cân đối nhu cầu thu chi ngoại tệ của họ và coi đây như một điều kiện khi thẩm định dự án. Các doanh nghiệp đều chấp nhận yêu cầu này, họ chấp nhận sẽ tự tìm nguồn thu là phải xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài để thu ngoại tệ về phục vụ các nhu cầu chi ngoại tệ, đa số trong các luận chứng kinh tế, kỹ thuật các doanh nghiệp đều xác định một tỷ lệ khá cao dùng để xuất khẩu, một số doanh nghiệp còn xác định tỷ lệ 100% xuất khẩu, nhưng thực tế qua nhiều năm hoạt động họ vẫn chưa có sản phẩm xuất khẩu hoặc xuất khẩu quá ít. Sở dĩ các doanh nghiệp lúc đầu thường xác định tỷ lệ xuất khẩu cao như vậy là vì họ muốn dự án nhanh chóng được chấp thuận vì SCCI thường chấp thuận những dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao vì hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án lớn. Hơn nữa, khi lập hồ sơ dự án các doanh nghiệp chưa nhận thức được rằng nếu họ không đẩy mạnh xuất khẩu để thu ngoại tệ thì nguồn thu về ngoại tệ rất khó khăn. Các cơ quan quản lý thiếu thông tin cho các doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn chưa hoàn chỉnh dẫn đến nhiều doanh nghiệp tự coi mình là doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế nhập khẩuthì họ sẽ được bảo đảm nhu cầu ngoại tệ bằng cách: mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại hoặc thanh toán bằng hàng hoá có giá trị tương đương. Tuy nhiên, không phải ngân hàng nhà nước không có trách nhiệm gì trong vấn đề này, trong một chừng mực nào đó việc quy định mở tài khoản tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ tại một ngân hàng tại Việt Nam phần nào đã ảnh hưởng đến việc thanh toán của doanh nghiệp và thật ra nó cũng không hợp lý với một cơ chế thị trường hoàn chỉnh. Thêm vào đó là tỷ lệ kết hối thấp, tỷ giá tăng cao, nên các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ đã nắm giữ ngoại tệ trên tài khoản của mình, không bán cho ngân hàng, gây áp lực cho cung cầu ngoại tê. Các ngân hàng thương mại không mua được ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu, đây cũng là nguyên nhân từ đầu năm đến nay, NHNN phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại so với các năm trước đây. Rồi việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ trong thời gian qua như tăng dự trữ ngoại tệ lên 8% đến 12% và 15%, tự do hoá lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, giảm tỷ lệ kết hối bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp từ 80% xuống 50%, hiện nay còn 40%; giảm tỷ lệ lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân, chủ động can thiệp tăng tỷ giá, thu hẹp biên độ mua bán ngoại tệ. Nguyên nhân khách quan Lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn là khá mới mẻ đối với Việt Nam, cho nên trong việc quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta còn nhiều điều bất cập cũng là điều khó tránh khỏi. Trong đó quản lý ngoại hối lại càng là một bài toán khó không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước có trình độ phát triển kinh tế hơn hẳn Việt Nam. Việc quản lý ngoại hối cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những biến động bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Như việc FED liên tục cắt giảm lãi suất 10 lần từ tháng 4/1994 đến nay để cứu vãn xu hướng suy thoái của nền kinh tế Mỹ, vào thời điểm tháng 1/2001, xuống còn 6,5%/năm, xuống còn 2%/ năm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0728.doc
Tài liệu liên quan