Nguồn nhân lực Việt Nam, những lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế

PHỤ LỤC:

DANH MỤC PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Kinh tế học của các nước đang phát triển.

 Tác giả: Nafzger.E. W.-Nhà xuất bản Thống kê

 1998.

2. Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động

 Việt Nam.

 Tác giả: Nguyễn Bá Ngọc, Trần Văn Hoan.

 Nhà xuất bản Lao động xã hội 2002.

 3. Những vấn đề kinh tế Việt Nam: Thử thách của

 hội nhập.

 Tác giả: Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình, Vũ Quang

 Việt.- Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh

 2002.

4. Văn kiện Đại hội Đảng IX.

5. Giáo trình Kinh tế lao động.

 Tác giả: PGS.PTS Phạm Đức Thành, PTS.Mai

 Quốc Chánh.

6. Giáo trình Dân số và phát triển.

 Tác giả: PGS.PTS Nguyễn Đình Cử.

7. Giáo trình Phân tích lao động xã hội.

Tác giả: Trần Xuân Cầu

8. Giáo trình Kinh tế quốc tế.

 Tác giả: PGS.TS. Đỗ Đức Bình,

 TS.Nguyễn Thường Lạng.

9. Kết quả điều tra lao động- việc làm năm 2004.

 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

 Nhà xuất bản Lao động xã hội.

 10. Báo cáo kết quả điều tra lao động việc làm

 1/7/2004. Ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm

 Trung ương.

11. Tác động của toàn cầu hoá đối với các vấn đề lao

 động Việt Nam.

Tác giả: Trần Văn Hoan.

Tạp chí: Lao động & xã hội số 212/trang 13,14,29.

12. Lao động, việc làm năm 2003-những thách thức và

 kết quả đạt được.

Tác giả:Nguyễn Đại Đồng.

Tạp chí: Lao động & xã hội số 230+231+232/trang 52.

13. Chất lượng dân số và nguồn nhân lực quốc gia.

Tác giả: TS.Nguyễn Tiệp.

Tạp chí:Lao động & xã hội số 233/trang 36.

14. Về chiến lược phát triển con người trong hệ thống

 phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.

Tác giả: TS.Nguyễn Hữu Dũng.

Tạp chí: Lao động & xã hội số 243/trang37.

15. Nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu công

 nghiệp hoá và hội nhập kinh tế thế giới.

Tác giả: GS.Phùng Thế Trường.

Tạp chí: kinh tế và phát triển số 70/trang 21.

16. Vấn đề khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lực con

 người.

 Tác giả: TS.Vũ Thị Mai.

 Tạp chí: Kinh tế và phát triển số 80/trang 53.

17. Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập

 và toàn cầu hoá.

Tác giả: TS.Nguyễn Tiệp.

Tạp chí: kinh tế và phát triển số 83/trang 13.

18. Một số vấn đề đối với lao động làm việc trong các

 doanh nghiệp khi Việt Nam tham giahội nhập kinh

 tế quốc tế.

Tác giả: TS.Vũ Thành Hưng.

Tạp chí: Kinh tế và phát triển số 86/trang 30.

19. Phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật ở Việt Nam

 trong bối cảnh toàn cầu hoá.

Tác giả: TS.Mạc Văn Tiến.

Tạp chí: Thông tin thị trường lao động số4/2002/trang 1.

20. Một số xu thế tác động của tự do hoá thương mại

 đến việc làm của người lao động.

Tác giả: Trần Văn Hoan.

Tạp chí: Thông tin thị trường lao động số 4/2002/trang 10.

21. Chất lượng nguồn nhân lực: Thực trạng và giải

 pháp.

Tác giả: Trần Thị Thu Hương, Nguyễn Quang Tại.

 

doc18 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2506 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn nhân lực Việt Nam, những lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a khác, thể hiện khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực. Thách thức đối với nguồn nhân lực là những mặt hạn chế, những khó khăn đặt ra đòi hỏi nguồn nhân lực phải khắc phục để nâng cao tính cạnh tranh của mình. Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhiệm một nhiệm vụ nhất định. Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của sức lao động. Nó biểu hiện ở sự hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề nghiệp, một chuyên môn nào đó.(2). Theo Liên Hợp Quốc phát triển nguồn lực con người là quá trình làm biến đổi về số lượng chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế xã hội, bao gồm phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người, nền văn hoá, truyền thống lịch sử dân tộc hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của con người trong lao động.(3) Như vậy có thể nói xu hướng phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi nguồn nhân lực về lượng, về chất theo hướng đi lên trong một thời gian dài, tương đối ổn định. 2. Hội nhập kinh tế: a) Khái niệm về hội nhập kinh tế: Hiện nay trên thế giới đang diễn ra các quá trình toàn cầu hoá, khu vực hóa và quốc tế hoá một cách nhanh chóng, toàn diện dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Các quá trình đó dẫn tới xu thế hội nhập kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây nhưng đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có ý kiến cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ cấc cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Ý kiến khác lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hang rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. Tuy vậy khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự rang buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư vào các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.(4) b) Tính tất yếu của hội nhập kinh tế. Ngày nay khi hoạt động của các quốc gia không còn bó hẹp trong ranh giới lãnh thổ của mình mà vươn rộng ra nhiều nước khác trên thế giới thì hội nhập kinh tế là một xu thế vận động tất yếu của thời đại. Một quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam chúng ta thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.Hội nhập kinh tế sẽ giúp chúng ta thu nhận tri thức, khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo sức ép để các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, mở rộng thị trường ra nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. 3. Vai trò của nguồn nhân lực đối với tiến trình hội nhập kinh tế. Nếu trước đây sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn thì ngày nay quan niệm đó đã thay đổi. Theo các lý thuyết gần đây, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó yếu tố và cũng là động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người. Theo tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF),nhóm yếu tố lao động là một trong 8 nhóm yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Các nước Singapore, Hàn Quốc, Malaysia cũng đã xác định phát triển nguồn vốn nhân lực như là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất. Con người vừa là chủ thể sang tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần vừa là mục tiêu, đối tượng hướng tới của quá trình phát triển, là trung tâm của sự phát triển.Thực tế đã chứng minh được vai trò quyết định đó của con người trong phát triển kinh tế. Trước đây Nhật Bản là một nước khan hiếm tài nguyên, chịu sự khắc nghiệt của tự nhiên, nghèo nàn và lạc hậu ngang tầm nước ta. Chỉ nhờ sức mạnh nguồn nhân lực đáng khâm phục của mình nước Nhật đã vươn mình lên thành một cường quốc trên thhế giới. Ở Việt nam chúng ta khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước đã có nhiều chính sách phát huy nguồn nhân lực góp phần tạo nên sự tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định trong nhiều năm qua. Điều đó đã được nhắc đến trong Nghị quyết trung ương Đảng VII,VIII và khẳng định lại trong Nghị quyết trung ương Đảng IX: “ Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ vai trò quyết định của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất và tốc độ tăng trưởng kinh tế để kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế quốc tế. PHẦN II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ. 1.Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam: a) Lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam trong hội nhập kinh tế: Một trong những ưu thế rõ rệt của lao động Việt Nam hiện nay là nguồn nhân lực dồi dào. Đó là do quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ được coi là “cơ cấu vàng” nên số người trong độ tuổi lao động cũng lớn. Tỷ lệ tăng bình quân năm của nguồn nhân lực qua nhiều năm đều lớn hơn tỷ lệ tăng dân số, hệ số phụ thuộc có xu hướng giảm. Vì vậy quy mô nguồn nhân lực lớn thể hiện: Tại thời điểm 1/7/2004, lực lượng lao động nói chung (bao gồm trong độ tuổi lao động và trên độ tuôỉ lao động) của cả nước là 43.255,3 nghìn người, tăng gần 2,7% so với thời điểm 1/7/2003 với quy mô tăng thêm là 1.130,6 nghìn người. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động có 40.805,3 nghìn người chiếm 94,3% tăng 2,4% so với thời điểm 1/7/2003 với quy mô tăng thêm là 939,3 nghìn người. Năm 2003 (Nghìn người) 2004 (Nghìn người) Dân số trong & trên độ tuổi lao động. 42.124,7 43.255,3 Dân số trong độ tuổi lao động 39.866,0 40.805,3 Bảng 1:Quy mô nguồn nhân lực Với ưu thế này nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước. Một ưu thế khác là nước ta có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số lớn. Tại thời điểm 1/7/2004 tính chung cả nước tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên là 71,4%, giảm 0,6% so với thời điểm 1/7/2003. Ở khu vực thành thị là 63,2% ( giảm 1,1%), khu vực nông thôn là 74,6% ( giảm 0,3%). Năm 2003 (%) 2004 (%) Khu vực thành thị 64,3 63,2 Khu vực nông thôn 74,9 74,6 Chung 72,0 71,4 Bảng 2: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao độngnăm 2003,2004 Nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Trong những năm qua do Đảng và nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo nên đã đạt được một số thành tựu nhất định. Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người: chỉ số HDI đạt 0,682 cao hơn nhiều nước trong khu vực. Tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động cả nước là 5,01%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 3,28%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thong trung học là 19,7%, so với thời điểm 1/4/2003 tỷ lệ tốt nghiệp phổ thong cơ sở tăng 2,6%, tốt nghiệp phổ thong trung học tăng 1,4%. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động là 22,5% tăng nhiều so với các năm trước trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề ( bao gồm đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn không phân biệt có hoặc không có chứng chỉ hoặc bằng nghề và tốt nghiệp sơ cấp) là 13,3%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên là 4,8%.So với thời điểm 1/7/2003, tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động cả nước tăng 1,5%; trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề tăng 0,8%; tỷ lệ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp tăng 0,3%; tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên tăng 0,4%. Năm 2003(%) 2004(%) Mù chữ 4,31 5,01 Tốt nghiệp PTCS 30,2 32,8 Tốt nghiệp PTTH 18,3 19,7 Bảng 3: Tỷ lệ trình độ học vấn phổ thong của nguồn nhân lực Việt Nam. Năm 2003(%) 2004(%) Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung 21,0 22,5 Tỷ lệ đã qua đào tạo nghề 12,5 13,3 Tỷ lệ tốt nghiệp trung học CN 4,1 4,4 Tỷ lệ tốt nghiệp ĐH, CĐ trở lên 4,4 4,8 Bảng 4: Tỷ lệ nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở Việt Nam. Công tác nghiên cứu khoa học cũng được chú trọng. Chúng ta cũng đã phát triển được một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông đảo. Nhiều nhà kinh tế, nhiều cán bộ khoa học của Việt Nam cũng đã tiếp thu và tiếp cận được với nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới; nhiều công nhân, lao động Việt Nam thong qua xuất khẩu lao động và các chuyên gia nước ngoài đã có điều kiện tiếp cân được với những máy móc thiết bị hiện đại và tác phong lao động công nghiệp. Qua đó chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã được nâng cao hơn. Nguồn nhân lực nước ta còn có lợi thế là được tiếp thu truyền thống lịch sử của đất nước: Truyền thống cần cù, siêng năng, chịu khó, yêu lao động. Người lao động Việt Nam được đánh giá là thong minh, cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí, học vấn khá cao so với mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới. Đây là lợi thế so sánh có ý nghĩa đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình tham gia hội nhập. Thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam: Dù đã có những bước tiến bộ về chất lượng nguồn nhân lực như đã kể trên nhưng nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn nhiều mặt hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển hội nhập kinh tế, thể hiện: Về chất lượng nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực Việt Nam tuy dồi dào về số lượng nhưng chất lượng không cao. Số người có trình độ chuyên môn và khoa học tuy đã đào tạo được hơn 7 triệu người nhưng so với yêu cầu của hội nhập kinh tế thế giới thì tỷ lệ còn thấp. Năm 2003(%) 2004(%) CĐ, ĐH và trên ĐH 4,4 4,8 Trung học chuyên nghiệp 4,1 4,4 Đào tạo nghề/sơ cấp 12,5 13,3 Chưa qua đào tạo 79,0 77,5 Bảng 5: Cơ cấu lực lượng lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của cả nước. Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy dù tỷ lệ có chuyên môn kỹ thuật đã tăng và tỷ lệ chưa qua đào tạo đã giảm so với các năm trước nhưng tỷ lệ chưa qua đào tạo vẫn quá lớn, chiếm tới 77,5%. Trong số đã qua đào tạo thì trình độ sơ cấp lại chiếm tỷ lệ lớn, gấp rưỡi tổng hai bộ phận còn lại. Bộ phận lao động đã qua đào tạo vẫn còn nhiều lỗ hổng, thiếu sót, hạn chế về mặt kiến thức khoa học, năng lực thực hành, phương pháp tư duy sang tạo, nắm bắt công nghệ hiện đạiĐó là do chất lượng giáo dục ở nước ta vẫn thấp.Giáo dục đào tạo được thương mại hoá, chạy theo quy mô, ít chú trọng đến chất lượng.Một bộ phận người lao động sau đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, đào tạo chưa thực sự tạo cho người lao động cơ hội tìm được việc làm. Có sự thiếu hụt công nhân lành nghề cao. Các khu công nghiệp, khu chế xuẩt, khu công nghệ cao, khu vực FDI và xuất khẩu lao động còn gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ( công nhân kỹ thuật lành nghề cao, lao động trình độ đại học trở lên được đào tạo có chất lượng tốt ) để đáp ứng chuyển giao khoa học và công nghệ mới từ nước ngoài.Người lao động hạn chế về trình độ năng lực, tay nghề và phong cách làm việc.Phần lớn lao động đamg làm việc trong các doanh nghiệp đều hạn chế về năng lực làm việc kể cả lao động trực tiếp và lao động quản lý. Người lao động ít được đào tạo một cách bài bản, kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng làm việc của nhiều người hoặc không còn phù hợp hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Quy mô lao động qua đào tạo và chất lượng lao động chuyên môn kỹ thuật có khoảng cách so với nhiều nước trên thế giới: Chất lượng đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam chỉ đạt 17,86/60 điểm (60 là điểm tối đa ) trong khi Singapore là 42,16 điểm, Hàn Quốc là 46,06 điểm, Trung Quốc là 31,5 điểm, Thái Lan là 18,46 điểm và Philipine là 29,85 điểm. Có thể thấy sức cạnh tranh của lao động Việt Nam đang còn quá thấp. Bên cạnh đó ngân sách đầu tư cho giáo dục ở nước ta còn thấp. Chi phí học tập cho học sinh vẫn còn là điều đáng quan tâm nhất là đối với những gia đình nghèo ở các vùng sâu vùng xa kinh tế kém phát triển thiếu các cơ sở đào tạo dạy nghề nên cũng thiếu nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật. Một vấn đề nữa là thiếu cán bộ nghiên cứu đầu đàn. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đều đã già: tuổi trung bình của các nhà khoa học cao,60% số cán bộ nghiên cứu có bằng đại học đã qua tuổi 45; độ tuổi trung bình của giáo sư, phó giáo sư của các viện nghiên cứu là 57,2. Tuổi cao hạn chế đáng kể năng lực sang tạo, khả năng tiếp cận đến tri thức và phương tiện nghiên cứu mới.Số cán bộ khoa học thiếu hụt chỉ có chưa đến 10 người/ 1000 dân trong khi đó Singapore là 16, hàn Quốc là 52 và Nhật Bản là 70. Cơ cấu đào tạo về nghành nghề và trình độ còn bất hợp lý dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động chuyên môn kỹ thuật. Toàn cầu hoá kinh tế đã tác động đến sự phát triển một số nghành nghề mới tạo ra xu hướng đào tạo chạy theo thị hiếu của người lao động, thiếu định hướng, phân luồng dẫn đến hậu quả là đào tạo chưa gắn với nhu cầu thực tế của các khu vực kinh tế và các nghành, mất cân đối giữa các nghành nghề đào tạo. Hiện nay số lượng sinh viên nghành văn hoá nghệ thuật là 1,3%, nông lâm ngư nghiệp là 3,13%, khoa học cơ bản là 15,5%, khoa học công nghệ và kỹ thuật là 15,2%, khoa học xã hội là 42,78%. Thực tế này tạo ra tình trạng cung lao động chuyên môn kỹ thuật cao hơn nhiều so với cầu lao động đối với một số nghành nghề, lĩnh vực.(5) Một hạn chế nữa do đặc điểm sinh lý và lịch sử của người dân Việt Nam là thể lực kém, thể hiện ở chiều cao cân nặng, độ dẻo dai và sức chịu đựng kém. Ngoài sự hạn chế khách quan đó chúng ta còn bị hạn chế bởi nguyên nhân chủ quan. Đó là thói quen làm việc nông nghiệp của chúng ta dẫn tới thói quen làm việc rề rà, giờ “cao su”,vừa làm vừa chơi. Thói quen đó rất có hại cho việc sản xuất. Chúng ta cũng đã gặp rắc rối với vấn đề lao động thiếu kỷ luật, thiếu trách nhiệm, tính tự giác kém như vụ việc Đài Loan đe doạ sẽ ngừng nhập khẩu lao động Việt Nam vì nhiều lao động bỏ trốn. Thị trường lao động Việt Nam chưa phát triển, chưa được quan tâm quản lý đúng mức cũng là một khó khăn đối với người lao động. Nguồn nhân lực nước ta phân bố chưa hợp lý theo nghành và vùng. Trong tổng số 42.329,1 nghìn lao động có việc làm của cả nước có 57,9% làm việc chính ở khu vực I (nông,lâm nghiệp và thuỷ sản); 17,4% làm việc chính ở khu vực II (công nghiệp và xây dựng); 24,7% làm việc chính ở khu vực III (dịch vụ). So với năm 2003, tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực I giảm 1,7% và tăng tương ứng ở khu vực II là 1,0%; khu vực III là 0,7%. Năm 2003(%) 2004(%) Dịch vụ 24,0 24,7 CN và xây dựng 16,4 17,4 Nông, lâm, ngư 59,6 57,9 Bảng 6: Cơ cấu lao động chia theo nhóm nghành KTQD của cả nước 2003,2004(%). Ta thấy gần đây đã có sự chuyển dịch cơ cấu từ các nghành nông, lâm, ngư nghiệp sang các nghành dịch vụ, CN và xây dựng nhưng sự chuyển dịch diễn ra chậm. Lao động ở các nghành nông nghiệp vẫn là chủ yếu, các nghành dịch vụ và xây dựng thể hiện sự phát triển của đất nước thì vẫn còn chiếm số ít. Về phân bố lao động theo vùng ta có các bảng số liệu sau: Bảng 7:Lực lượng lao động cả nước chia theo thành thị, nông thôn. Năm 2003 (nghìn người) 2004 (nghìn người) Thành thị 10188,5 10549,3 Nông thôn 31936,1 32706,0 Vùng kinh tế Lực lượng L Đ (ngàn người) T ỷ l ệ (%) ĐB sông Hồng 9718,3 22,5 Đ ông B ắc 5129,2 11,9 T ây B ắc 1373,7 3,2 B ắc Trung B ộ 5214,6 12,1 DH nam trung b ộ 3582,4 8,3 T ây nguy ên 2415,7 5,6 Đ ông Nam B ộ 6536,9 15,1 ĐB sông CL 9284,5 21,5 Bảng 8: Cơ cấu lực lượng lao động cả nước chia theo vùng kinh tế 2004. Ta thấy lực lượng lao động tập trung ở nông thôn do dân cư nước ta chủ yếu là làm nông nghiệp, quá trình đô thị hoá diễn ra chậm. Điều đó cũng đồng nghĩa với lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm số đông nên không đáp ứng được yêu cầu về tiếp thu, sử dụng khoa học công nghệ. Mặt khác lao động tập trung nhiều ở các vùng ĐB song Hồng, ĐB SCL, Đông Nam Bộ. Ở các vùng có nhiều tiềm năng như Tây Nguyên, Tây Bắc lực lượng lao động lại thưa thớt chỉ có 3,2 và 5,6%. Có sự chênh lệch đó là do sức hút của các thành phố lớn đối với lao động, do điều kiện cơ sở vật chất. Ở các vùng này lại còn thiếu các cơ sở đào tạo dạy nghề do các cơ sở đào tạo dạy nghề tập trung ở cácc thành phố lớn nên càng thiếu nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật. Điều đó làm hạn chế việc khai thác tiềm năng của các vùng có điều kiện như cửa biển, ven biển, miền núi, hải đảo Ở khu vực nông thôn, việc sử dụng thời gian lao động chưa được hiệu quả. Năm 2002 2003 2004 Tỷ lệ tg lđ được sd (%) 75,5 77,94 79,34 Bảng 9: Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn. Do tính chất công việc nông nghiệp theo thời vụ nên có những thời điểm người nông dân không có việc làm, lao động giản đơn thừa nên hình thành dòng người di cư tạm thời từ nông thôn ra thành thị. Từ những mặt mạnh và hạn chế đó đặt ra những yêu cầu, thách thức to lớn đối với nguồn nhân lực Việt Nam là phải phát huy một cách tốt nhất những mặt mạnh của mình và khắc phục được những mặt hạn chế để nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế. 2. Thực tiễn hội nhập kinh tế của Việt Nam: a) Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam: Trong những năm qua, Việt nam đã và đang đạt được những thành tựu phát triển kinh tế quan trọng, từng bước tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng liên tục với tốc độ cao( trên 7% năm) trong nhiều năm liên tục, sức sản xuất đang được cải thiện đáng kểViệt Nam đã là thành viên của các tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế lớn trong khu vực và trên thế giới như ASEAN, APEC(Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương), ký kết(năm 2000) và thực hiện(năm 2001) Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và nhiều Hiệp định thương mại song phương khác. Nước ta cũng đã tham gia AFTA( khu mậu dịch tự do ASEAN) với việc cam kết thực hiện CEPT(những quy định về giảm thuế quan có hiệu lực chung). Hiện nay Việt Nam đang xúc tiến đàm phán tích cực để gia nhập WTO(2005) và đẩy nhanh tiến trình tham gia đầy đủ vào AFTA(2006). b) Những thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam hội nhập kinh tế: Một trong những thuận lợi cơ bản của chúng ta khi tham gia hội nhập kinh tế là có nền chính trị ổn định. Nhờ sự ổn định chính trị-xã hội mà chúng ta có điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài và cải thiện tình hình đầu tư trong nước,tạo điều kiện và động lực để phát huy mọi khả năng về nguồn lực vật chất cũng như nguồn nhân lực cho phát triển đất nước. Bên cạnh đó là thận lợi từ nguồn nhân lực dồi dào, tương đối giàu tài nguyên thiên nhiên. Cuối cùng không thể không nói đến bối cảnh thế giới có thuận lợi đối với nước ta trong quá trình hội nhập, đó là xu hướng hoà bình, hợp tác cùng phát triển. Chúng ta có cơ hội để tiếp thu những kiến thức của nhân loại, học tập được những mô hình phát triển, vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh của Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi đó, để chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới chúng ta còn vô vàn khó khăn và thách thức: Trình độ phát triển của chúng ta còn quá thấp, quá lạc hậu. Do chiến tranh, do hoàn cảnh lịch sử, cơ sở vật chất mà chúng ta kế thừa quá nghèo nàn. Nước chúng ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Bên cạnh đó còn biết bao vấn đề khó khăn về con người do chiến tranh, thiên tai để lại như những nạn nhân chất độc màu da cam Công tác ưu đãi và cứu trợ xã hội còn là ghánh nặng đối với xã hội. Trong lĩnh vực công nghiệp, công nghệ của chúng ta lạc hậu so với thế giới từ 50-100 năm. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc haauj so với mức trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ (ngoại trừ một số lĩnh vực mới).Công nghệ và kỹ thuật lạc hậu không cho phép nâng cao năng suất lao động xã hội, làm cho giá thanh cao, không cạnh tranh được với các mật hàng của các nước.năng lực cạnh tranh yếu là nguy cơ rất lớn đẩy chúng ta tụt hậu xa hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá. Mặt khác công nghệ lạc hậu làm cản trở sự phát triển của đội ngũ lao động có trình độ lành nghề, trình độ cao. Các yếu tố của thị trường, mhất là thị trường lao động mới bắt đầu hình thành, chưa phát triển. Dân số trẻ, tăng nhanh tạo ra sức ép mạnh đối với nền kinh tế, đặc biệt đối với vấn đề việc làm. Đối với nông dân, diện tích đất trên đầu người giảm. Việc làm chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động nên tình trạng thất nghiệp còn cao. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị năm 2004 là 5,6%. Một khó khăn nữa là vấn đề của nguồn nhân lực nước ta. So với yêu cầu của hội nhập kinh tế lao động qua đào tạo của nước ta vừa thiếu về số lượng vừa hạn chế về chất lượng, cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo còn bất hợp lý. Đây là một trở ngại rất lớn khi chúng ta hội nhập với thế giới. PHẦN III: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINHTẾ. 1. Xu hướng phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam: Trong những năm qua nguồn nhân lực Việt Nam đã không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động cũng đã diễn ra ở các khu vực và các thành phần kinh tế theo hưóng giảm tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực I, tăng tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực II và III, trong đó tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực II có xu hướng tăng nhanh hơn. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm,tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn tăng. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế diễn ra chậm. Nghị quyết trung ương Đảng VII,VIII và IX đã đề ra mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chiến lược phát triển con người.Mục tiêu tổng quát phát triển nguồn lực con người tới năm 2010 là giữ ở quy mô hợp lý, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm tăng sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập, góp phần vào sự phát triển nhanhvà bền vững đất nước.(7 ) Mục tiêu cụ thể là giảm sinh,nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Hai xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động quan trọng sẽ diễn ra đồng thời, đó là chuyển dịch theo nghành kinh tế và chuyển dịch theo cơ cấu trình độ đào tạo.Chuyển dịch theo nghành theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp( kể cả lao động lâm nghiệp và ngư nghiệp) từ 57,9% vào năm 2004 xuống còn 50% năm 2010, lao động dịch vụ tăng từ 24,7% năm 2004 lên 27% năm 2010, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng từ 17,4% năm 2004 lên 23% vào năm 2010. Số lượng (ngàn lđ) 2000 Tỷ trọng (%) 2010 Số lượng (ngàn lđ) 2000 Tỷ trọng (%) 2010 Tổng số 37.783 100 47.000 100 Nông nghiệp 25.314 67,0 23.500 50,0 CN và XD 5.252 13,9 11.280 24,0 Thương mại,DV 7.216 19,1 12.220 26,0 Bảng 10: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.(6) Ở hướng chuyển dịch theo cơ cấu trình độ đào tạo,nhiều nỗ lực lớn đang được triển khai nhằm khắc phục những bất cập và yếu kém của nguồn nhân lực nước ta như “thừa thầy thiếu thợ”, thiếu lao động lành nghề. Dự báo đến năm 2010 số lượng lao động qua đào tạo đạt trên 17,1 triệu người và chiếm 40% lực lượng lao động. Cấp trình độ ĐT Số lượng năm 2000 (triệu lđ) Tỷ trọng năm 2000 (%) Số lượng năm 2010 (triệu lđ) Tỷ trọng năm 2010 (%) Tổng số lđ qua đt 7,5 20,9 17,1 40 Dạy nghề 4,6 13,4 12,0 28,1 THCN 1,6 4,1 2,2 5,1 CĐ, ĐH trở lên 1,3 3,4 2,9 6,8 Bảng 11: Dự báo nhu cầu lao động qua đào tạo đến năm 2010.(7) Số lao động ở thành thị có xu hướng tăng. Đến năm 2010 laođộng làm việc ở thành thị có khoảng 16.920 ngàn người chiếm khoảng 36%,lao động phân bố chủ yếu ở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0130.doc
Tài liệu liên quan