Những đặc trưng cơ bản của thi pháp ca dao

Nguyễn Xuân Kính trong cuốn “Thi pháp ca dao” đã định nghĩa: “Biểu tượng là nhóm hình ảnh cảm xúc tinh tế về hiện thực khách quan, thể hiện quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng của từng nhóm tác giả, từng thời đại, từng dân tộc và từng khu vực cư trú”.

Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao được xây dựng bằng ngôn từ với những quy ước của cộng đồng về một ý niệm tượng trưng. Biểu tượng không chỉ đơn thuần thay thế cái được biểu hiện mà còn chủ yếu tượng trưng cho những ý nghĩ, quan niệm, tư tưởng của con người.

Hệ thống biểu tượng nghệ thuật mang những đặc trưng, biểu hiện sâu sắc tính địa phương, tính dân tộc. Nó gồm một số biểu tượng phổ biến sau:

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9217 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những đặc trưng cơ bản của thi pháp ca dao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
III Những đặc trưng cơ bản của thi pháp ca dao 1. Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao, tính tập thể trong sáng tác và tính truyền miệng trong lưu hành, giao tiếp khiến cái tôi trữ tình của ca dao không có dấu vết cá nhân,cá thể. Cái tôi trữ tình là gì? Trong ca dao dân ca Việt Nam, cái tôi trữ tình thường là những cảm xúc chủ đạo được thể hiện tinh tế, đa dạng.  Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao là: thông thường nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình, đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch nhưng nhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ thể hiện được tâm hồn người, tấm lòng người.  Tập thể là một biểu hiện khác của những phương thức sáng tác và lưu truyền văn học dân gian. Có những tác phẩm văn học dân gian ngay từ nguồn gốc đã là sáng tác cá nhân nhưng lưu truyền bằng con đường của trí nhớ. Dùng trí nhớ không thể giữ nguyên vẹn được cả nội dung và hình thức của tác phẩm, vì thế mà sáng tác ấy mỗi người có thể thay đổi tùy ý ít nhiều. Hơn nữa khi hát hoặc kể lại theo sở thích, mục đích của mình và của người nghe, thế là dù cho lúc đầu có thể là do một cá nhân sáng tác, nhưng trong khi lưu truyền qua những người khác nhau, tác phẩm văn học luôn luôn có khả năng tiếp nhận những yếu tố sáng tác mới và trở thành sở hữu tập thể. Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu hành của văn học dân gian. Văn học truyền miệng ra đời từ khi dân tộc chưa có chữ viết. Tuy nhiên khi dân tộc đã có chữ viết thì văn học truyền miệng vẫn tiếp tục phát triển. Một mặt do đại đa số nhân dân không có điều kiện học hành để hưởng thụ thành tựu văn học viết, mặt khác do văn học viết không thể hiện đầy đủ tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu và tập quán sinh hoạt nghệ thuật của nhân dân. Vì thế nhiều người có học mà chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân dân cũng tham gia sáng tác và lưu truyền văn học dân gian. Ca dao là loại thơ trữ tình dân gian, là tiếng nói của tư tưởng, tình cảm và mơ ước, khát vọng của người bình dân. Vì lẽ đó, khi những câu ca dao được ra đời và truyền đi trong cộng đồng, nó đã bị phai dần cái tôi trữ tình... sáng tác của một cá nhân mà được sửa đổi đôi chút và trở thành của cả cộng đồng, của cả những con người có cùng tình thế, ước mơ, tình cảm như câu ca dao. Và có lẽ vậy mà qua ca dao ta cảm nhận được sâu sắc nhịp trái tim yêu thương của người bình dân với tất cả sự ấm áp, ngọt ngào cùng tình yêu thương, lòng lạc quan, nghị lực ý chí phi thường vượt lên mọi khổ cực của cuộc sống.Vì thế nhân vật trữ tình trong ca dao là người bình dân, người thi sĩ, những người sáng tác, người diễn xướng,... thống nhất với nhau. - Chủ thể trữ tình thường được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với đối tượng trữ tình, biểu hiện qua hai loại nhân vật: + Nhân vật hiển ngôn: hình tượng con người được trực tiếp thể hiện tình cảm, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, cảm xúc trong lời ca. + Nhân vật biểu tượng: thông qua biểu tượng, con người bộc lộ tâm tư cảm xúc với nhau, đó là những biểu tượng gần gũi với con người Việt Nam: con cò, con thuyền, cây đa, bến nước, sân đình.... -"Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao." - "Thuyền về có nhớ bến chăng?/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền." - Các nhân vật trữ tình được đặt trong nhiều mối quan hệ: + Quan hệ gia đình: mẹ-con, cha-con, mẹ chồng-nàng dâu, vợ-chồng, anh-em,... -"Ơn cha nặng lắm ai ơi/ Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang." - “Anh em như thể chân tay/ Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần” + Quan hệ lứa đôi: chàng trai-cô gái, bạn bè,... - “Thương ai rồi lại nhớ ai/ Mặt buồn rười rượi như khoai mới trồng”. + Quan hệ xã hội: người nông dân-quan lại, chủ-tớ... - "Con ơi nhớ lấy câu này/ Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan." - "Con vua thì lại làm vua/ Con vải ở chùa lại quét lá đa." - Nhân vật trữ tình hiện lên trong sinh hoạt hằng ngày, cuộc sống lao động, trong  mối quan hệ với thiên nhiên, gia đình, làng xóm...có lúc đối thoại, có lúc độc thoại... VD: Đối thoại: "Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen. Em được thì cho anh xin/ Hay là em để làm tin trong nhà." Hoặc: "Đôi ta như lửa mới nhen/ Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu” Độc thoại: "Nhớ ai con mắt lim dim/ Chân đi thất thiểu như chim tha mồi. Nhớ ai hết đứng lại ngồi/ Ngày đêm tưởng nhớ một người tình nhân." + Cảm xúc, tâm tư của nhân vật trữ tình được bộc lộ bằng nhiều giọng điệu: tâm tình sâu lắng, trách móc, giận hờn, đau buồn, xót xa, nói bóng gió, hồn nhiên vui tươi: "Hoa cúc vàng nở hoa cúc tím/ Em có chồng rồi trả yếm cho anh."  Nếu ở đây chủ thể là chàng trai đòi lại kỉ vật thì đó là người coi trọng vật chất, so bì thiệt hơn, nhỏ nhen, xử sự không mấy đẹp đẽ. Và khi đáp lại thì lời của cô giá sẵn giọng, ăn miếng trả miếng: "Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh/ Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi!"   Nhưng nếu chủ thể là cô gái thì (qua hai dòng đầu) thì cả cô gái và chàng trai đều là những người xử xự đẹp. Yêu nhau không lấy được nhau, người con gái chủ động trả lại kỉ vật đã thuộc về cô gái, anh ta không có quyền nhận lại. Qua đó thấy được nghịch cảnh đáng buồn, sự nuối tiếc về mối tình dang dở của chàng trai và cô gái.   Đây là ví dụ điển hình về nhân vật trữ tình trong ca dao. Do có sự lưu truyền nên ca dao như có phần khái quát hơn, nó không còn đề cập đến cá nhân cụ thể là chàng trai hay cô gái mà đã được xem như câu hát chung cho mọi đối tượng: cá nhân, cá thể trong ca dao đã phai nhạt mà thay vào đó tính cộng đồng đã được hiện hóa. 2.Thời gian và không gian   Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật trong tác phẩm.  a)Thời gian nghệ thuật *Trong thơ ca dân gian, thời gian của tác giả và thời gian của người đọc hòa lẫn với thời gian người diễn xướng. Thời gian ở đây là thời gian hiện tại :                                      -“Nào khi gánh nặng em chờ/ Qua truông em đợi bây giờ phụ em”  *Thời gian hiện tại được xác định là thời điểm được sáng tác, diễn xướng và thời gian thưởng thức, tiếp nhận hài hòa làm một:  _Nếu có thời gian quá khứ và tương lai thì đó là thời gian quá khứ gần và tương lai gần:  Trong ca dao có câu :                                      “Tìm em đã tám hôm nay/ Hôm qua là tám, hôm nay là mười”  Hoặc                            “Xa mình trời nắng nói mưa/ Canh ba tôi nói sáng, canh trưa tôi nói chiều” _Thời gian trong ca dao có tính công thức và ước lệ : trăm năm, ngàn năm, chiêù chiều, đêm đêm, đêm trăng thanh ...  +Trăm năm: cuộc đời một con người mang nội dung là câu hẹn ước sự vĩnh viễn :                                        “Trăm năm ghi tạc chữ đồng/ Dù ai thêu phục vẽ rồng mặc ai”  +Chiều chiều : tâm trạng nhớ nhung, sự khắc khoải chờ đợi tìm điểm nhìn hoài vọng bến cũ quê hương: “Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi/ Ngó không thấy mẹ, bùi ngùi nhớ thương” *Ngoài ra trong ca dao còn có thời gian đối lập: khi xưa, bây giờ, khi đi, khi về... sự thay đổi trong tình cảm.                                       “Khi đi bóng hãy còn dài/ Khi về bóng đã vắng ai bóng tròn” b)Không gian nghệ thuật: gần gũi, bình dị ở làng quê, là phương tiện để nhân vật bộc lộ tâm tư, cảm xúc suy nghĩ cũa mình. Đây là không gian trần thế, đời thường gắn với môi trường sống thân thuộc với con người bình dân.                                        “Trên đồng cạn dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” _Bên cạnh tính xác thực, không gian nhiều khi cũng mang tính phiếm chỉ và bị chi phối bởi cảnh quan của nhân vật trữ tình:                                          “Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo tren cành hoa sen”  Ta thường bắt gặp trong ca dao không có không gian xác định trong những lời ru con : “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ / Năm canh chày thức đủ vừa năm” _Không gian địa lí: những câu ca dao viết về miền quê cụ thể, địa danh cụ thể qua đó thể hiện niềm tự hào tình yêu quê hương thiết tha sâu nặng:                                 “Đường vô xứ Huế quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” _ Ngoài ra còn có một số không gian tiêu biểu như:  +Không gian thề nguyền: trăng sao, cây đa, bến đò...thể hiện sự bất biến, vĩnh hằng                                    “Bao giờ cạn nước Đồng Nai/ Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”  + Không gian đối lập: xa-gần, đông-tây... thể hiện sự cách trở, không hòa hợp, ngang trái: “Gần nhà xa ngõ nên khó đi thăm / Hẹn sang mười bốn sao năm chưa sang”   + Không gian tâm lí: không có thực, được nhận diện bằng cái nhìn khác thường đầy chủ quan.   + Không gian phiếm chỉ:                                            “Núi Truồi ai đắp mà cao/ Sông Dinh ai đắp ai đào mà sâu”   +Không gian vật lí: ở đó người bình dân sinh sống, làm lụng, tình tự, than thở                                            “Cô kia đứng ở bên sông/ Muốn sang anh ngã cành hồng cho” + Không gian xã hội: mối quan hệ đa dạng giữa người với người:                                      “Gặp nhau giữa chuyến đò đầy/ Một lần đã hẹn, cầm tay mặn mà.”  Trong những câu ca dao đượm buồn thì không gian thường đi liền với thời gian là lúc ban đêm.                                        “Đêm qua ra đứng bờ ao/Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ” Tóm lại: Trong văn thơ thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật có mối liên hệ chặt chẽ, một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật. 3.Các biểu tượng phổ biến: Nguyễn Xuân Kính trong cuốn “Thi pháp ca dao” đã định nghĩa: “Biểu tượng là nhóm hình ảnh cảm xúc tinh tế về hiện thực khách quan, thể hiện quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng của từng nhóm tác giả, từng thời đại, từng dân tộc và từng khu vực cư trú”. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao được xây dựng bằng ngôn từ với những quy ước của cộng đồng về một ý niệm tượng trưng. Biểu tượng không chỉ đơn thuần thay thế cái được biểu hiện mà còn chủ yếu tượng trưng cho những ý nghĩ, quan niệm, tư tưởng của con người. Hệ thống biểu tượng nghệ thuật mang những đặc trưng, biểu hiện sâu sắc tính địa phương, tính dân tộc. Nó gồm một số biểu tượng phổ biến sau: a. Con cò: Đã từ lâu, hình ảnh con cò đã đi vào ca dao với tất cả vẻ đẹp của nó. Người nông dân đã gửi gắm niềm vui, nỗi buồn, sự cực nhọc, vất cả trong những cánh cò ca dao. Dường như thiếu những cánh cò ấy ca dao sẽ nghèo đi biết mấy. Con cò làm tổ trên cành tre, con cò kiếm ăn trên đồng ruộng, bãi sông, không ăn lúa mà bắt cá, bắt tép… Cứ như vậy, những cánh cò trắng muốt cứ in bóng trong suốt chiều dài của ca dao. Đi vào trong văn học, con cò trở thành một biểu tượng nghệ thuật đầy sáng tạo của cha ông ta khi nó gắn liền với hình ảnh người nông dân lam lũ, chịu thương chịu khó, cần cù vất vả trên đồng ruộng: Trời mưa quả dưa vẹo vọ Con ốc nằm co Con tôm đánh đáo Con cò kiếm ăn. Luôn chịu số phận hẩm hiu: Con cò đậu cọc bờ ao Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua. Hình ảnh người nông dân nhất là người phụ nữ lam lũ, lầm lụi: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/ Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”. Họ còn luôn luôn bị khinh rẻ, bị đổ oan: “Cái cò, cái vạc, cái nông/ Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò/ Không, không tôi đứng trên bờ/ Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi”. Trong hoàn cảnh bị áp bức, bị chà đạp, bị oan ức, họ vẫn muốn, dù phải chết, cũng phải chết trong sự trong sạch: Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Ông ơi ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. Trong đời, thường thì “Cánh hoa rụng chọn gỉ đất sạch” (Chu Mạnh Trinh) nhưng người nông dân Việt Nam không nghĩ thế, sống quyết không sống đục, chết thì nhất định phải chết trong. Người nông dân Việt Nam còn có tư tưởng lớn, cực kì cao thượng về cách sống. Họ đã sáng tạo hình tượng người đi trước, lo trước cái lo của thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, người hi sinh để đưa lại hạnh phúc cho mọi người qua hình tượng: “Con cò đi đón cơn mưa/ Tối tăm mù mịt ai đưa cò về”. Có những hình ảnh con cò tham gia vào sự kết hợp của thể hứng và thể tỉ - hai loại hình phổ biến trong văn học dân gian trong những câu ca dao tỏ tình như: “Con cò núp bụi lúa xanh/ Chờ con cá đến như anh chờ nàng/ Con cò núp bụi lúa vàng/ Chờ con cá đến như nàng chờ anh”. Hay là: Con quạ đen con quạ trắng Con ếch ngắn con ếch dài Em trông anh, trông mãi trông hoài Trông cho thấy mặt thấy mày mới yên. Một cánh cò thôi mà bay khắp mọi miền đất nước, xuyên thấu mọi thời gian, cánh cò “ bay lả bay la” từ chiều sâu quá khứ đến chiều dài hôm nay, cánh cò lại bay vào lời ru của mẹ, lời dạy của cô, lời tâm sự với bạn bè : “Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên! Cho cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nôi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi…” (Con cò – Chế Lan Viên) Về mặt nghệ thuật, hình tượng con cò đã trở thành một mô-típ đậm đặc bản sắn dân tộc và tính nhân dân, thường khơi gợi ở lòng người nhiều tình cảm và kỉ niệm về quê hương đất nước. b. Hoa Hoa là thứ biểu tượng đáng chú ý trong ca dao. Hoa đi vào thế giới văn học mang ý nghĩa tượng trưng cho một phẩm chất, một thân phận, một thời hoa của một đời người. Trong đó, hoa nhài và hoa sen là đối tượng được phản ánh khá nhiều trong kho tàng ca dao Việt Nam. b.1 Hoa nhài Ông cha ta đã dùng hình ảnh của hoa nhài để miêu tả cảnh xứng đôi vừa lứa: Đôi ta lấm tấm hoa nhài/ Chồng đây vợ đấy kém ai trên đời. Chỉ “lấm tấm” thôi, nghĩa là không có gì to tát, lớn lao cả. Ấy là vẻ đẹp hiền hòa, bình dị mà chẳng thoáng chút mặc cảm, tự ti nào vì có “kém ai” đâu! Hương thơm của hoa nhài còn tượng trưng cho sự thanh tao, quý giá, trang nhã, văn minh lịch sự của con người: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Vẻ đẹp của hoa nhài thường được ví với nụ cười đáng yêu của người con gái: “Miệng cười như cánh hoa nhài/ Như nụ hoa quế như tai hoa hồng” Vị trí của hoa nhài trong ca dao không chiếm ưu thế như hoa hồng, hoa mai. Đấy là thứ hoa biết khiêm tốn, có chút e lệ, khép kín: “Chơi hoa cho biết mùi hoa/ Thứ nhất hoa lí thứ ba hoa nhài”. “Hoa lí là chị hoa lài/ Hoa lí có tài hoa lài có duyên”. Trong ca dao, hoa nhài là một thứ hoa đẹp vẻ đẹp hài hòa, bình dị. Qua đó, ta thấy được quan niệm thẩm mĩ và quan niệm đạo đức của nhân dân lao động. Họ ưa chuộng những gì giản dị, nhỏ bé; ca ngợi thủy chung, tình nghĩa; thích cái đẹp bên trong hơn cái phô trương bên ngoài. b.2. Hoa sen Trong các loài hoa biểu tượng cho vẻ đẹp cao quý, ta không thể không nhắc tới hoa sen. Hoa sen biểu trưng cho sức sống bền bỉ: “Hoa sen mọc bãi cát lâm/ Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen”. Sự đủ đầy, phúc lộc trong cuộc sống của người nông dân cũng được thể hiện qua hình ảnh hoa sen: Lên chùa bẻ một cành sen Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng Ba bốn cô có hẹn cùng trăng… Không những thế, hoa sen mang một mầm sống âm ỉ mà mạnh mẽ. Tuy dầm mưa dãi nắng mà hương sắc chẳng nhạt phai: “Hoa sen hoa khéo giữ màu/ Nắng hồng không nhạt mưa dầm không phai”. Không giống như hương thơm có tiếng của hoa nhài, hương sen là mùi hương đằm thắm. Nó là biểu hiện của sự thuần khiết, thánh thiện, trắng trong. Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Cùng với sự phát triền của khoa học, kĩ thuật đã tạo ra rất nhiều giống hoa lạ và đẹp, hương thơm quyến rũ, nhưng với sức sống mãnh liệt, dẻo dai mà phẩm chất trong sạch, thanh cao hoa sen đã trở thành Quốc hoa Việt Nam – đại diện cho một vẻ đẹp thánh thiện mà giản dị, chất phác, hiền lành của người dân đất Việt. b.3. Trúc – mai Theo quan niệm của nhà nho, tùng, trúc, mai là những thứ cây tượng trưng cho khí tiết, đức tính cao thượng, phẩm chất trong sạch của người quân tử. Còn tác giả dân gian không mấy khi tả thực cây trúc, cây mai. Họ nhắc đến mai, trúc nhằm thể hiện con người. Có khi trúc được nhắc đến một mình tượng trưng cho người con gái xinh xắn: “Trúc xinh trúc đứng một mình/ Em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Có khi trúc, mai được dùng xoắn xít với nhau thể hiện tình cảm đôi lứa thắm thiết: Trúc với mai, mai về trúc nhớ/ Trúc trở về mai nhớ trúc không? Hình ảnh trúc mai trong ca dao được dùng để diễn đạt nhiều cung bậc tình cảm, nhiều cảnh ngộ tình duyên: + Khi là lời nhắn nhủ hy vọng: “Đợi cho trúc ở với mai/ Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng” + Khi là tâm trạng náo nức, vui mừng: “Trầu này, cúc, mai, đào/ Trầu này thục nữ anh hào sánh đôi”. + Cũng có khi đó là nỗi giận hờn, oán trách: “Những là lên miếu xuống ghè/ Để tôi đánh trúc đánh tre về trồng/ Tường rằng nên vợ nên chồng/ Nào ngờ nói thế mà không có gì”. + Và đó còn là nỗi khát vọng: “Chiều nay có kẻ thất tình/ Tựa mai mai ngã, tựa đình đình siêu”. Như vậy, trong ca dao, biểu tượng trúc mai thương được dùng với ý nghĩa tượng trưng cho đôi bạn trẻ, cho tình duyên. 5.Thể thơ lục bát Trong những tác phẩm thơ ca dân gian, ca dao được sáng tác ở nhiều hình thức thơ khác nhau: song thất, song thất lục bát, bốn chữ, hỗn hợp, tuy nhiên được vận dụng phổ biến hơn cả là thể lục bát. Điều này thật dễ hiểu vì thơ lục bát là “những lời nói vần” gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, dễ nhớ, dễ thuộc. Thể lục bát trong ca dao bộc lộ trực tiếp những tâm tình nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống; thể hiện từ những bức tranh lao động đến những suy nghĩ về cuộc đời, từ khoảnh khắc hồn nhiên vô tư của con người đến những diễn biến tình cảm trữ tình phong phú. Các tác phẩm ca dao được làm theo thể lục bát được vận dụng linh hoạt và nhiều vẻ nhất trong dân ca, trong những giai điệu ngâm ngợi, ca xướng uyển chuyển. Sở dĩ như vậy là do kết cấu đặc trưng riêng biệt về âm luật của thể loại thơ này. Có thể thấy lục bát mang đầy đủ dáng dấp của một thể thơ cách luật với những yếu tố đặc thù về tổ chức âm thanh: gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu trong hình thức tối thiểu là một cặp lục bát gồm 2 câu với số tiếng cố định: 6 tiếng (câu lục) và 8 tiếng (câu bát). Phương thức gieo vần 6-8 là thao tác đặc biệt tạo nên được vẻ nhịp nhàng trong ngôn ngữ thơ, là phương tiện tổ chức văn bản và là chỗ dựa cho sự phát triển nhạc tính để hình thành nên những âm hưởng nhiều mầu sắc vang vọng trong thơ. Nhịp điệu thơ lục bát về cơ bản là nhịp chẵn 2/2/2, 2/4/2, hoặc 4/4 diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau… ”Người thương/ ơi hỡi/ người thương Đi đâu/ mà để/ buồn hương/ lạnh lùng”. nhưng khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5... là một dạng của lục bát biến thể: ”Chồng gì anh/ vợ gì tôi Chẳng qua là cái nợ đời chi đây” Có thể hiểu lục bát biến thể là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít khịt trên sáu dưới tám mà có sự co giãn nhất định về âm tiết, về vị trí hiệp vần… lục bát biến thể cũng là vấn đề đáng chú ý trong ca dao. Sự phong phú về thể lục bát không chỉ dừng lại ở đó. Có câu lục biến thể tăng tiến như: ”Con gà rừng tốt mã khoe lông/ Chẳng cho đi chọi, nhốt lồng làm chi!” Phần lớn câu lục biến thể tăng tiến đều bắt nguồn từ dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian mà cách nói phổ biến là giảng giải, phân trần. Một số câu lục biến thể có sự chêm xen các từ khẩu ngữ đệm vào, đây là một đặc điểm của thơ hát nói. Không hẳn lục bát chỉ có tăng số tiếng, câu nói có thể ngắn gọn, xúc tích hơn cũng có thể nhờ vào câu lục biến thể giảm số tiếng. Loại biến thể này thì lời ca như những câu châm ngôn, có lời như một tục ngữ. Lời thơ xúc tích, hàm nghĩa mang tính triết lý nhân sinh, những nhận xét sắc sảo về những vấn đề cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu. ”Mật ngọt chết ruồi Ai mà đến đấy thời người say sưa” Khác với câu lục câu bác có thể kéo dài tự do, có thể là do đặc trưng về số dòng số tiếng của thơ lục bát. ”Hoa kia thơm lửng, thơm lừng Dặn con ong kia đừng chởi nhởi, dặn con bướm đừng xôn xao” Mang những đặc trưng chung của kiểu câu lục và câu bát biến thể và có những đặc điểm như câu suy luận nhiều vế, câu kết hợp nhiều kiểu câu, khuôn lục bát không rõ ràng, câu nặng tính khẩu ngữ, thường là câu dồn chứa nhiều thông tin, ranh giới câu lục thường xâm lấn câu bát hoặc ranh giới chức năng của hai câu không rõ ràng. ”Hạt lúa vàng, hạt thóc cũng vàng/ Anh yêu em, bác mẹ, họ hàng cũng yêu” Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấu về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần… đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát về cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát. Từ ngàn đời nay sự liên kết luôn tạo nên những thứ bền chặt nhất, và thể song thất lục bát kết hợp với lục bát đã tạo nên được một âm hưởng vang vọng, bay xa hơn cho ca dao Việt Nam. Đa dạng phong phú nhưng không kém phần tinh túy xâu xa với ba lối liên kết cơ bản nhất đã làm cho ý nghĩa của ca dao thấm dần vào hồn thơ của người. Đầu tiên là dạng song thất lục bát ở dạng này bài ca dao ít nhất là một khổ bao gồm hai dòng đầu là 7, hai dòng sau là 6/8 ”Thang mô cao/ bằng thang danh vọng Nghĩa mô trọng / bằng nghĩa chồng con Trăm năm nước chảy đá mòn Xa nhau nghìn dặm dạ còn nhớ thương”. Tiếp theo là dạng lục bát dán thất là hai câu 6/8 rồi đến hai câu 7: ”Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay”. Cuối cùng là hai câu lục bát đầu cuối xen giữa hai câu thất: ”Đêm qua nguyệt lặn về tây Sự tình kẻ đấy người đây còn dài Trúc với Mai/Mai về Trúc nhớ Trúc trở về/ Mai nhớ Trúc không Bây giờ kẻ Bắc người Đông Kể sao cho xiết tấm lòng riêng tư”. Thể thơ này thường lặp đi lặp lại, cuộn trào như ngọn sóng phù hợp cho việc diễn tả tâm trạng buồn đau của nhân vật trữ tình. Thể song thất và lục bát kết hợp nhau là cho tình cảm vốn đa chiều, phức tạp được thể hiện có hiệu quả rõ rệt với cách nói đa giọng, nhiều cung bậc và gam màu. Thể vãn là đặc trưng trong hát dặm Nghệ Tĩnh. Mỗi câu thơ thường gồm 4, 5, 6 chữ và vần chân: ”Công đôi ta thề thốt Kể đã mấy niên rồi Lòng đã quyết lúa đôi Nhất ngôn nói hẳn lời Đừng bốn chốn ba nơi Đững trăng gió chào mời Trăng nhiều trăng rạng rỡ Trăng nhiều đèn rạng rỡ”. Thể vãn kết hợp với thể lục bát làm cho tiết tấu và vần điệu thơ phong phú, có khả năng diễn đạt những cung bậc khác nhau của tình cảm. ”Nào khi mô em nói với anh Sông cạn mà tình không cạn Vàng mòn mà nghĩa không mòn Nay chừ nước lại xa non Đêm nằm tơ tưởng héo hon ruột tằm” Thể lục bát kết hợp với thể vãn tạo cho bài ca có thế vững chắc, là điểm nhẫn kết vấn đề, ngăn lại dòng kể lan man của thể vãn. Tháng giêng tháng hai, tháng ba, tháng bốn Tháng khốn, tháng nạn Đi vay, đi dạm Được một quan tiền Ra chợ Kẻ Giêng Mua con gà mái về nuôi Nó đẻ ra mười trứng Một trứng: ung Hai trứng: ung … Chớ than phận khó ai ơi Còn da lông mọc, còn chồi lên cây”. Ngoài ra còn có thể hỗn hợp, thể này kết hợp các đặc trưng của các thps thoangể khác nhằm diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trong ca dao, thể này sử dụng không nhiều, chiếm 1% nhưng khá đa dạng: ”Ai sầu ai thảm Ai thương ai cảm Ai nhớ ai trông Thuyền ai thoáng bên sông Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non” Nếu thể 6-8 thường được vận dụng trong những bài ca có nội dung trữ tình hoặc giao duyên, thể song thất lục bát (hai câu 7 chữ và một câu 6-8) thường dùng trong những bài hát có âm điệu nói lối và ca xướng thi thể hỗn hợp 4, 5 chữ, kết hợp với thể lục bát và song thất lục bát được sử dụng nhiều trong những loại hát nghi lễ phong tục, những bài hát sinh hoạt, những bài hát giao duyên. Nói tóm lại, đặc trưng thể thơ trong ca dao suy cho cùng là diễn đạc tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Tùy theo cảm xúc, cung bật mà chọn lựa một thể thơ phù hợp. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu... do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát. Vì thể thơ này có khả năng diễn đạc tất thảy những cung bậc cảm xúc mà những con người thấp cổ bé họng không biết chia sẻ cùng ai. Việc sáng tạo thể thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Ngày nay, thể lục bát trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhung_dac_trung_co_ban_cua_thi_phap_ca_dao_1012.doc
Tài liệu liên quan