Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng

Đối các quốc gia thuộc hệ thống Luật Châu Âu lục địa điển hình là Pháp và đa số các quốc gia khác trên thế giới (Hàn Quốc, Thái Lan.) thì hoạt động phát hành cổ phần ra công chúng nằm trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng được điều chỉnh bới Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc có luật riêng là Luật phát hành chứng khoán. Việc chào bán cổ phần ra công chúng cũng như chào bán chứng khoán phải được phép của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán là Ủy ban Chứng khoán. (Dẫn theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán – Tập bài giảng Luật áp dụng trong ngành chứng khoán, Hà Nội 2000 )

doc40 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4728 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưu đãi chứng quyền hoặc bảo chứng phiếu. Bảo chứng phiếu cũng quy định số lượng cổ phiếu phổ thông được quyền mua nhưng có thời hạn dài hơn chứng quyền, hoặc thời hạn vĩnh viễn. Công ty đại chúng chào bán thêm cổ phần ra công chúng để thay đổi cơ cấu sở hữu mà không làm tăng thêm vốn điều lệ: Công ty đại chúng đã thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng nhưng chưa bán hết số lượng cổ phiếu được phép phát hành. Tổ chức phát hành thực hiện đợt chào bán thêm cổ phiếu chưa phát hành ra công chúng. Do công ty cổ phần chưa phát hành hết cổ phần của mình ra công chúng nên khi thực hiện chào bán thêm cổ phiếu công ty không phát hành kèm theo chứng quyền cho cổ đông của công ty. Ưu điểm của của chào bán cổ phần ra công chúng Lợi thế đầu tiên của chào bán cổ phần ra công chúng là khả năng thu được lượng vốn lớn từ xã hội do không hạn chế số lượng nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân. Công ty cổ phần thực hiện chào bán cổ phần riêng lẻ bị hạn chế số lượng cổ đông và thông thường chỉ bán cổ phần cho những nhà đầu tư có mối quan hệ mật thiết với tổ chức phát hành. Nếu thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng tổ chức phát hành chỉ cần cung cấp thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng tài chính và năng lực bộ máyquản trị theo quy định của pháp luật, những nhà đầu tư có nhu cầu sẽ tìm hiểu và quyết định mua cổ phiếu. Như vậy, số luợng nhà đầu tư không hạn chế là một ưu điểm lớn của phương thức chào bán cổ phần ra công chúng. Những nhà đầu tư cá nhân ít có cơ hội tham gia mua cổ phần của các công ty chào bán riêng lẻ do thiếu thông tin và tổ chức phát hành cũng bị hạn chế số luợng cổ đông. Thứ hai, các loại cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi ra công chúng mới thực sự là cổ phiếu có tính thanh khoản cao. Khi nhà đầu tư muốn mua bán chuyển nhượng cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi, họ có toàn quyền tự do chuyển nhượng (trừ trường hợp cổ phiếu ưu đãi biểu quyết hoặc cổ phiếu phổ thông của của cổ đông sáng lập nếu chuyển nhượng phải tuân theo một số yêu cầu của pháp luật ). Công ty cổ phần chào bán riêng lẻ luôn bị giới hạn số lượng cổ đông duới một trăm nhà đầu tư trừ nhà đầu tư chuyên nghiệp. Chính vì vậy, khi một cổ đông muốn chuyển nhượng một phần cổ phần của mình họ không thể tự do chuyển nhượng cho bất kỳ ai, mà phải đảm bảo sau khi chuyển nhượng công ty cổ phần vẫn giữ đuợc số lượng cổ đông duới một trăm (trừ cổ đông là nhà đầu tư chuyên nghiệp). Ngoài ra, chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp cho cô rphiếu được niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung khiến cho hoạt động mua bán cổ phiếu dễ dàngvà thuận tiện nhất. Thứ ba, chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp tổ chức phát hành quảng bá được tên tuổi, thương hiệu của mình. Để được cầp giấy chứng nhận chào bán cổ phần ra công chúng, công ty cổ phần phải thỏa mãn đuợc những điều kiện khắt khe về công bố thông tin, chế độ kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Do vậy, một công ty có cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi mặc nhiên được đánh giá cao hơn các công ty khác cùng lĩnh vực ngành nghề mà không thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng. Bên cạnh đó, nếu công ty làm ăn có hiệu quả cổ phiếu của công ty đó sẽ lên giá và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, như vậy là công ty đó đã được quảng cáo bằng chính cổ phiếu của mình. 1.2.4 Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng Chào bán cổ phần ra công chúng không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với tổ chức phát hành mà cả với nhà đầu tư và tòan bộ nền kinh tế: Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với tổ chức phát hành: Để huy động vốn, doanh nghiệp có nhiều sự lựa chọn: vay vốn từ các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu hoặc phát hành cổ phiếu. Trước khi Việt Nam có thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp chỉ có thể vay vốn từ ngân hàng với lãi suất nhất định trong một thời hạn nhất định và thường phải thế chấp tài sản cố định để bảo đảm khoản vay. Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam cho phép các doanh nghiệp có thêm một kênh huy động vốn hiệu quả và linh hoạt. Nguồn vốn huy động từ chào bán cổ phần ra công chúng không cấu thành một khoản nợ mà công ty có trách nhiệm hoàn trả, giảm áp lực cho công ty. Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với nhà đầu tư: Nhà đầu tư được chia thành hai loại là: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư chuyên nghiệp. + Nhà đầu tư cá nhân chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Từng cá nhân hoặc hộ gia đình riêng lẻ không có nhiều tiền nhưng với số lượng lớn nên lượng tiền nhàn rỗi rất lớn và thực sự đóng vai trò quan trọng nhất khi tham gia vào thị trường cổ phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng giúp cho tất cả các nhà đầu tư có khả năng tham gia sở hữu cổ phiếu với số lượng bất kỳ. Chỉ khi các công ty cổ phần chọn hình thức chào bán cổ phần ra công chúng thì đông đảo các nhà đầu tư cá nhân mới có cơ hội tham gia vào hoạt động mua cổ phiếu của công ty. Đối với các đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ, nhà đầu tư cá nhân thực sự không có nhiều cơ hội để tham gia sở hữu cổ phần của công ty vì bị hạn chế số lượng và thông tin. Những công ty nhà nước cổ phần hóa chào bán riêng lẻ thường chỉ bán cho một bộ phận cán bộ công nhân viên của công ty, không thể bán hết cho tòan bộ người lao động vì hạn chế số lượng. Thêm vào đó, khi người sở hữu cổ phần của công ty muốn chuyển nhượng cổ phiếu lại bị ràng buộc bởi những qui định chuyển nhượng của công ty. + Nhà đầu tư chuyên nghiệp các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán. Nhà đầu tư chuyên nghiêp khác nhà đầu tư cá nhân ở quy mô tổ chức và nghiệp vụ. ĐốI vớI hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng các tổ chức nói trên không chỉ là nhà đầu tư đơn thuần mà còn đóng vai trò trung gian quan trọng giữa nhà đầu tư và tổ chức phát hành Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với toàn bộ nền kinh tế Chào bán cổ phần ra công chúng là một bộ phận của chào bán cổ phần. Nó là hoạt động khởi điểm mở đầu cho mọi hoạt động của thị trường cổ phiếu. Cổ phiếu được giao dịch trên thị trường có đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động chào bán. Để được chào bán cổ phiếu ra công chúng các công ty cổ phần phải đạt đủ một số điều kiện nhất định về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh trong một thời gian cụ thể, cùng các quy định khắt khe về kế toán và kiểm toán. Sau khi phát hành cổ phiếu ra ra công chúng các công ty này phải tiếp tục duy trì chế độ báo cáo thông tin đầy đủ và minh bạch về những hoạt động của công ty cũng như về tình hình tài chính dưới sự kiểm tra và giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng sẽ tăng chất lượng và độ chính xác của các bản báo cáo tài chính, làm trong sạch môi trường đầu tư và kinh doanh. Điều kiện, thủ tục chào bán cổ phiếu được lập theo chuẩn chung do nhà nước quy định nên nó vừa đảm bảo tính chính xác cao vừa thuận tiện cho việc so sánh đánh giá kết quả hoạt động của các công ty cổ phần. PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG Khái niệm Chào bán cổ phần ra công chúng là một hoạt động cơ bản và quan trọng của thị trường chứng khoán. Tất cả các nước trên thế giới đểu có những quy định chi tiết điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng. Chào bán cổ phần ra công chúng mục đích là để thu hút lượng vốn dồi dào trong xã hội từ tất cả các thành phần, bao gồm cả những nhà đầu tư nhỏ như cá nhân và hộ gia đình đến những nhà đầu tư chuyên nghiệp là các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm và các công ty tài chính. . Khác với chào bán riêng lẻ chủ yếu bán cổ phiếu cho những nhà đầu tư có mối quan hệ mật thiết với tổ chức phát hành nên có khả năng tự mình tìm kiếm và phân tích thông tin, hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng rất phức tạp. Khi chào bán ra công chúng các nhà đầu tư hầu như không tự mình tìm kiếm được thông tin mà hoàn toàn phụ thuộc và những thông số do tổ chức phát hành đưa ra. Chính vì vậy để bảo vệ nhà đầu tư pháp luật chứng khoán tất cả cá nước đều có quy định về chào bán cổ phần ra công chúng. Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở một số nước trên thế giới : Chứng khoán và thị trường chứng khoán ngày nay không còn xa lạ với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, với các quốc gia phát triển thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh dẫn vốn không thể thiếu được đối với nền kinh tế. Với vị trí là một hoạt động chủ chốt của thị trường chứng khoán, chào bán chứng khoán cũng có một lịch sử lâu đời. Đi cùng với sự phát triển của hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng là sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh họat động chào bán cổ phần ra công chúng. Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở từng quốc gia có những nét khác biệt. Những quốc gia thuộc hệ thống Luật chung (điển hình là Anh) hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng được điều chỉnh bởi Luật Công ty. Các nước này cũng có luật chứng khoán nhưng luật chứng khoán chỉ đề cập đến các lĩnh vực của thị trường chứng khoán như các dịch vụ về chứng khoán. Đối các quốc gia thuộc hệ thống Luật Châu Âu lục địa điển hình là Pháp và đa số các quốc gia khác trên thế giới (Hàn Quốc, Thái Lan..) thì hoạt động phát hành cổ phần ra công chúng nằm trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng được điều chỉnh bới Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc có luật riêng là Luật phát hành chứng khoán. Việc chào bán cổ phần ra công chúng cũng như chào bán chứng khoán phải được phép của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán là Ủy ban Chứng khoán. (Dẫn theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán – Tập bài giảng Luật áp dụng trong ngành chứng khoán, Hà Nội 2000 ) Về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng các quốc gia trên thế giới nói chung đều thống nhất về một số quy định chung như: - Quy định về công bố thông tin : Tất cả các nước trên thế giới đều có quy định bắt buộc tổ chức phát hành phải công bố thông tin về tình hình doanh nghiệp: tình hình tài chính, bộ máy quản trị, kết quả hoạt động kinh doanh, các thông tin về cổ phiếu sắp phát hành, để giúp cho nhà đầu tư nắm được đầy đủ chính xác thông tin về cổ phiếu phát hành qua đó đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Theo Luật chứng khoán Mỹ tổ chức phát hành phải gửi kèm thông tin tài chính trong hồ sơ đăng ký, báo cáo định kỳ và các báo cáo khác, trình lên Ủy ban chứng khoán và sẵn sàng cho công bố ra công chúng. Tại Trung Quốc việc chào bán cổ phiếu ra công chúng phải được hội đồng thẩm định và ban giám quản chứng khoán xét duyệt. Luật Hàn Quốc quy định để chào bán chứng khoán trong đó có chào bán cổ phần ra công chúng công ty phải đáp ứng các điều kiện về đăng ký và công bố thông tin do Ủy ban chứng khoán quy định. Công ty phát hành phải trình hồ sơ đăng ký cùng với tài liệu về phương án phát hành cổ phiếu. Sau khi hoàn thành việc đăng ký công ty phải ký hợp đồng và đại lý chuyển nhượng để công bố và phân phối các cổ phần. Tại Thái Lan muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng tổ chức phát hành phải trình với Ủy ban chứng khoán là họ có kinh nghiệm phát hành và việc phát hành và khả thi về tài chính để xin phép cơ quan này cho phép phát hành cổ phiếu. Tại Philippin, công ty phát hành phải thực hiện công bố thông tin theo quy định của Luật chứng khoán và của Ủy ban chứng khoán, cùng với việc công bố thông tin ra công chúng về lịch sử hoạt động của công ty và ban quản trị cùng với những báo cáo tài chính đã kiểm toán. - Quy định về điều kiện phát hành: Thông thường, những điều kiện cơ bản để chào bán cổ phiếu ra công chúng mà Luật chứng khoán các nước đều quy định gồm: _ Điều kiện về vốn: Ở mỗi quốc gia, điều kiện về vốn đối với hoạt động chào bán ra công chúng là khác nhau. _ Điều kiện về thời gian hoạt động: Luật chứng khoán các nước thường quy định công ty phả có thời gian hoạt động trên thực tế ít nhất là 2 năm. _ Điều kiện về năng lực quản trị công ty: Hội đồng quản trị công ty và ban giám đốc phải có trình độ năng lực và kinh nghiệm nhất định trong lĩnh vực kinh doanh của công ty. _ Điều kiện về kết quả hoạt động kinh doanh: Hoạt động kinh doanh của công ty phải có lãi, công ty không đạt điều kiện về kết quả hoạt động không thể chào bán cổ phần ra công chúng. _ Điều kiện về phương án sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành: Phương án sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành phải có tính khả thi và được Đại hội cổ đông thông qua. Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam Thị trường chứng khoán ở Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới còn non trẻ. Hai trung tâm giao dịch chứng khoán Hà NộI và thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động chưa được mười năm. Song song với sự phát triển của thị trường chúng khoán và hoạt động chào bán chứng khoán, pháp luật điều chỉnh cũng liên tục được thay đổ để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường. Văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh về chứng khoán là Nghị định 75/CP của chính phủ ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thành lập Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước. Sự ra đời của Ủy ban chứng khoán nhà nước là một cột mốc đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. khi có sự tham gia của một cơ quan nhà nước có chức năng chuyên biệt về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Sau đó là quyết định của Thủ thướng chính phủ QĐ 127/1998/QĐ-TTg ngày 11 tháng 7 năm 1998 về việc thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán, tạo thị trường tập trung cho hoạt động mua bán chứng khoán nói chung và hoạt động mua bán cổ phiếu nói riêng. Hoạt động chào bán cổ phiếu là một trong những hoạt động chủ chốt của thị trường chứng khoán, do vậy khi Chính Phủ ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 về Chứng khoán và thị trường chứng khoán đã dành chương II để qui định về phát hành chứng khoán ra công chúng trong đó có những quy định cơ bản về phát hành cổ phiếu ra công chúng . Luật chứng khoán 2006 ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã hệ thống lại các quy phạm cơ bản điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán trong đó có hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng. Luật chứng khoán 2006 đã quy định cụ thể các nội dung của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng: Điều kiện chào bán, thủ tục trình tự chào bán và quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Do những quy định về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là một trong những nội dung quan trọng nhất của hệ thống quy phạm luật chứng khoán nên những quy định về chào bán cổ phần ra công chúng nằm xen lẫn trong tất cả các chương của Luật chứng khoán 2006. Luật chứng khoán 2006 thực sự là một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Luật có những quy định cụ thể về mọi mặt của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng như mệnh giá cổ phiếu, hồ sơ đăng ký chào bán, phân phối cổ phiếu cho đến hình thức xử lý đối với vi phạm hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng như đình chỉ, hủy bỏ đợt chào bán ra công chúng. Tóm lại, Luật chứng khoán 2006 ra đời đã luật hóa những quy định về chào bán cổ phần ra công chúng, tạo điều kiện để hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng được thực hiện hiệu quả và thống nhất Nội dung pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng Sau khi Luật chứng khoán 2006 ra đời tạo khung pháp lý cho hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng, các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã tích cực đưa ra những văn bản dưới luật để hướng dẫn và giải thích áp dụng luật trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Các văn bản dưới luật do các cơ quan Nhà nước như Chính phủ, Bộ tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cùng với Luật chứng khoán 2006 đã tạo thành hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Luật chứng khoán 2006 quy định về chào bán cổ phần ra công chúng, với ý nghĩa là một bộ phận của chào bán chứng khoán ra công chúng: Trong chương I Luật có những quy định về các nguyên tắc của hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng chính là các nguyên tắc của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Luật định nghĩa một số thuật ngữ cơ bản liên quan đến hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng như tổ chức phát hành, chào bán ra công chúng, bảo lãnh phát hành, bản cáo bạch...và các quy định về quản lý nhà nước về hoạt động chứng khoán nói chung. Chương II : Là chương về chào bán chứng khoán ra công chúng. Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là một bộ phận của chào bán chứng khoán ra công chúng, do vậy chương II quy định những vấn đề chủ yếu nhất của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng: mệnh giá cổ phiếu, hình thức chào bán, điều kiện chào bán, phân phối cổ phiếu... Các chương còn lại của Luật quy định một số vấn đề khác của hoạt động chào bán như chế độ công bố thông tin, công ty đại chúng, thanh tra và xử lý vi phạm trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng . Ngoài Luật chứng khoán 2006, các văn bản hiện hành được dùng để điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng còn có: Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, Nghị định số 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 1 năm 2007 quy định chi tiết về một số điều của Luật chứng khoán 2006 và một số văn bản dưới luật khác do Chính phủ, Bộ tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ban hành. Ngoài những văn bản luật chuyên ngành về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn có một văn bản luật rất quan trọng là Luật doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể về công ty cổ phần và cổ phiếu. Chủ thể của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng Chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng là những công ty cổ phần được phép của Ủy ban chứng khoán nhà nước sau khi đã đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật về điều kiện chào bán và trình tự thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành lập và tồn tại độc lập với những chủ sở hữu công ty. Vốn của công ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành nhằm mục đích huy động vốn của các nhà đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Các nhà đầu tư khi mua cổ phần của công ty trở thành chủ sở hữu một phần vốn góp của công ty gọi là cổ đông của công ty. Cổ đông được quyền tham gia quản lý kiểm soát điều hành công ty thông qua việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong Ban quản lý, Ban kiểm soát, Ban điều hành. Ngoài ra cổ đông được hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra được cũng như chịu lỗ tương ứng với mức độ đóng góp (tỉ lệ thuận với cổ phần của họ). Công ty cổ phần có nhiều ưu điểm nổi trội so với các loại hình công ty khác: - Ưu điểm thứ nhất là cấu trúc mềm dẻo linh hoạt. Công ty cổ phần có thể tăng vốn bằng cách chào bán cổ phần ra công chúng, là hình thức huy động vốn đặc trưng không có ở các loại hình công ty khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh...Cấu trúc vốn mềm dẻo khiến quy mô của công ty cổ phần rất phong phú, có thể có quy mô vốn nhỏ từ vài tỷ đồng đến vài nghìn tỷ đồng. - Ưu điểm thứ hai là khả năng điều chuyển vốn linh hoạt. Các cổ đông có thể dễ dàng mua bán chuyển nhượng phần sở hữu của mình cho các cổ đông khác hoặc người ngoài công ty. Công ty nhà nước cổ phần hóa: Công ty nhà nước cổ phần hóa chiếm số lượng đáng kể trong số những công ty cổ phần đang ký chào bán cổ phiếu ra công chúng. Các công ty này có đặc điểm khác với công ty cổ phần thông thường vì có giai đoạn chuyển đổi từ công ty nhà nước sang công ty cổ phần. Công ty nhà nước cổ phần hóa là đặc trưng của những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. Công ty nhà nước cổ phần hóa là các doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi hình thức sở hữu từ một trăm phần trăm vốn nhà nước hoặc có tỉ lệ vốn góp chi phối (từ năm mươi mốt phần trăm trở lên) thành công ty cổ phần. Mục tiêu chuyên đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần nhằm huy động nguồn vốn của các cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước nhằm nâng cao công nghệ cải tiến kỹ thuật đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đối tượng công ty nhà nước không thuộc diện nhà nuớc nắm một trăm phần trăm vốn được cổ phần hóa đuợc quy định tại nghị định 187/2004/CP bao gồm các tổng công ty nhà nước( bao gồm cả các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính nhà nước), công ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch tóan độc lập của tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước Những doanh nghiệp do nhà nuớc nắm một trăm phần trăm vốn là đối tượng cổ phần hóa được quy định trong danh mục cụ thể do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng tùy thuộc từng loại công ty cổ phần khác nhau: Công ty cổ phần thành lập theo Luât doanh nghiệp: Đối với công ty cổ phần thành lập theo luật doanh nghiệp điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng được thực hiện theo Luật chứng khoán 2006: + Điều kiện về vốn: Vốn điều lệ đã góp phải đạt từ mười tỷ đồng trở lên tính theo giá trị sổ sách kế toán. + Điều kiện về tình hình hoạt động của công ty: Công ty phải có kết quả kinh doanh tốt, có lãi trong năm liền trước năm đăng ký hồ sơ chào bán, không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng. + Phương án phát hành và phương án sử dụng vốn được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Công ty nhà nước cổ phần hóa: Đối với công ty nhà nước cổ phần hóa đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng thì phải thỏa mãn được các điều kiện quy định tai Nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần: + Công ty nhà nước không nắm 100% vốn : Điều kiện cổ phần hóa là: Vẫn còn vốn nhà nước (không tính giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài sản không cần dùng và tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thát do lỗ, giảm giá trị tài sản; công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí cổ phần hóa. + Đối với đơn vị hạch toán độc lập của các công ty nhà nước không nắm 100% vốn đòi hỏi đơn vị hạch toán phụ thuộc phải có điều kiện hạch toán độc lập và khi tách đơn vị để cổ phần hóa thì không làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc của các bộ phận khác của doanh nghiệp. + Công ty 100% vốn nhà nước không có điều kiện cụ thể để chuyển đổi sang hình thức sở hữu là công ty cổ phần mà do Chính phủ quyết định và đưa vào danh mục công ty 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần. Sau khi đạt điều kiện chuyển đổi thành công ty cổ phần, cơ quan quyết định cổ phần hóa sẽ quyết định hình thức chào bán cổ phần là chào bán cổ phần ra công chúng hoặc chào bán cổ phần riêng lẻ. Thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng Để chào bán cổ phần ra công chúng công ty cổ phần phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trừ trường hợp chào bán cổ phần ra công chúng của doanh nghiệp cổ phần hóa. Hồ sơ đăng ký chào bán Thông tư số 17/2007/TT-BTC của Bộ tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng. Theo đó, hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng phải được gửi tới Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và được lập bằng văn bản gồm 1 bộ gốc và 5 bộ sao y bản chính, kèm theo file điện tử theo địa chỉ do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước quy định. Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng gồm : Giấy đăng ký chào bán ra công chúng: lập theo mẫu do Bộ tài chính quy định. Bản cáo bạch: Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phát hành phải công bố cho người mua chứng khoán những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và những quyền lợi cơ bản của người mua chứng khoán, để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không. Tài liệu phục vụ cho mục đích đó gọi là Bản cáo bạch. Bản cáo bạch chính là một lời mời hay chào bán để công chúng đầu tư đăng ký hoặc mua chứng khoán của công ty phát hành. Bản cáo bạch bao gồm mọi thông tin liên quan đến đợt phát hành. Do đó, thông tin đưa ra trong Bản cáo bạch sẽ gắn với các điều khoản thực hiện lời mời hay chào bán. . Khi một công ty muốn phát hành chứng khoán phải lập Bản cáo bạch để Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét, gọi là Bản cáo bạch sơ bộ. Bản cáo bạch sơ bộ khi đã được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận sẽ được coi là Bản cáo bạch chính thức. Khi thực hiện chào bán chứng khoán, ngoài Bản cáo bạch chính thức, công ty phát hành thường cung cấp Bản cáo bạch tóm tắt. Nội dung Bản cáo bạch tóm tắt là tóm gọn lại những nội dung chính của Bản cáo bạch chính thức nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ theo các quy định của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Bản cáo bạch là một tài liệu rất quan trọng.Với tư cách là một nhà đầu tư, Bản cáo bạch là phương tiện giúp bạn đánh giá mức độ sinh lời và triển vọng của công ty trước khi quyết định có đầu tư  vào công ty hay không Để có được bản cáo bạch nhà đầu tư có thể tìm trên các website của tổ chức phát hành hoặc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng.doc