Photoshop - Một vài điều cần biết

Resampling là tên gọi của một tiến trình dùng phép tính thuật toán có phương

trình tốt nhất để điền thêm pixels vào chỗtrống khi phóng đại bức ảnh hoặc trừra,

loại bỏmột sốpixels cho hợp với kích thước bức ảnh mà ta muốn đạt đến.

Chúng ta biết rằng hình ảnh được trình chiếu và đo lường bằng sốpixels của

màn hình (e.g. a 1024x1280 tuỳtheo video display nhé), trên một màn ảnh (monitor)

có kích thước bềngang đo được chẳng hạn là (e.g. 15 inch). Thật là hợp lý khi chúng

ta nghĩrằng: thay đổi ppi (pixels per inch) sẽ ảnh hưởng đến kích thước của tấm ảnh

trên màn monitor.Có vẻhợp lý thế đấy nhưng lại không đúng đâu!Mặc dù các màn

hình monitor hay nói đúng ra là video display card có những tuỳchọn cho phép ta mặc

định ppi của màn hình, Thếnhưng, trên thực tế, trịsốppi của tấm ảnh (cần phân biệt :

không phải là ppi của monitor!)lại KHÔNG HỀ được sửdụng nếu ta dùng trình

duyệt(web browser) đâu! Sao vậy nhỉ?.

pdf59 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3456 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Photoshop - Một vài điều cần biết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng cao như thế! No! Photoshop chưa làm được phép lạ để upsampling được đâu! – No…. Not yet. Chẳng thà uncheck [Resample Image] và chọn kích thước (dimension) lớn hơn (Ta sẽ có PPI thấp hơn!!!) 4) Sharpen & Convert! Cuối cùng và chỉ có lúc này ta mới sharpen the Image. TIP: Bao giờ cũng nên khử noise trước, rồi mới sharpen the Image để làm sắc cạnh hình sau, (quá trình này không thể bị đảo ngược). Có như thế ta mới cứu vãn lại được độ sắc cạnh của hình ảnh trong tiến trình resampling cũng như tiến trình đưa qua print resolution! (Vì nó làm soft hình) - Nếu in bằng laser hoặc high quality Inkjet thì để nguyên File TIFF này (vì vẫn còn là Adobe RGB1998 hoặc rRGB mode) để In. Nhưng nếu phải đưa ra những Ấn quán thương mại (For commercial reproduction, process color output ) – Chỉ có lần này ta mới chuyển đổi (Convert) qua dạng CMYK trước khi giao cho nhà In mà thôi. Tuyệt đối ta không convert sang CMYK nếu in bằng laser printer hay là inkjet printer hay là các loại local printer device in trực tiếp tại nhà bằng computer của chúng ta bao giờ!!! How to Save TIF Lossless File:- Cách Lưu File ở dạng TIF (CMYK / 8 bits) Click Image->Mode->Chọn CMYK Colors, chọn ->8 bits/Channel. File->Save as: Lưu File ở dạng TIFF. Chọn ô LZW (Lossless) – Click OK Xin chúc mừng, Bạn đã thành công và có một bức hình sắc nét, sẵn sàng gởi đi nhà in! – Mà khi nhà In nhận được, Open File ra coi thấy dạng TIF CMYK. Họ sẽ biết rằng bạn là công dân photoshop, hoặc ít ra cũng rất đúng với câu : He know what the heck he’s doing! So don’t mess around with his Files! Photoshop - Một vài điều cần biết về Kỹ Thuật Digital Imaging! (Phần 3) Digital Imaging - Pixel, Resolution, PPI, DPI A- Digital Image Resizing 1- Pixels and images 2- DPI - thuật ngữ dễ gây ngộ nhận với PPI. 3-Confusion - Confusion! B- Resolution và kích thước bản in. 5- Layers là gì - Cách dùng Layers để tạo màu RGB & CMYK A- Understanding RGB Working Color space: B- Không gian làm việc CMYK: (để biết sự tạo màu của Printer) 6- Nhận dạng PPI: 7- Printer / print sharpness 8- Resampling 9- Pixels and Resolution in Web Browser 10 - Cần bao nhiêu PPI để có một bản In chất lượng ? Mục đích của bài viết này là làm sáng tỏ một đôi điều để cho các bạn mới vào Kỹ thuật số (Digital Imaging) hiểu thêm một cách rõ ràng chắc chắn về những sự việc, những gì liên quan đến hình KTS. Trong đó điều dễ gây ngộ nhận nhất là kích thước của tấm ảnh. Và hễ nói về KTS thì có 3 điều căn bản cần phải nắm vững : Pixels, Size, Resolution. 1- Pixels của hình: thí dụ: - 3000x2000 pixels 2- Size, Kích thước khung hình: - 4” x 6” = 15.24cm x 10.16 cm 3- Resolution (độ phân giải): - 100 Pixels per inch (ppi) Cả 3 điều trên liên hệ mật thiết với nhau mà vì không hiểu chúng tương tác, liên hệ với nhau như thế nào nên gây ra không ít phân vân, lẫn lộn, hoặc chỉ hiểu một cách chung chung, đại khái, mù mờ rồi trở thành không nắm vững vấn đề!!! - Thế là chết tiêu rồi còn gì vì trọng tâm của bất cứ phần mềm edit hình ảnh KTS nào rồi cũng đều đi đến đích điểm này: Đó là sự thay đổi các pixcels, resolution, size (kích thước) của tấm ảnh. - Một số sách vở mà tôi đã đọc qua in bằng tiếng Việt lại nói quá phớt lờ về điều này đôi khi còn hướng dẫn sai lạc nữa! Cách chung, vì là kỹ nghệ KTS tương đối mới mẻ, thường ta phân vân không biết ppi ảnh hưởng tới kích thước của bức ảnh trên màn monitor như thế nào?! - . Vậy ta vào đề nhé: 1- Pixels and images Tổng quát: Hình ảnh KTS gồm những ô hình chữ nhật chứa đầy pixels giống như tấm hình nằm bên dưới. Pixel là từ viết tắt của “picture elements – tạm dịch nguyên tố ảnh”. Ảnh này có kích thuớc ngang dọc là 52x35 pixels; tổng cộng là 1820 pixels, đó là resolution của tấm ảnh. Hình này đã được phóng đại lên nhiều lần, mục đích là để chúng ta quan sát hình dạng những pixels ấy. Chúng hiện ra như những hình vuông nằm san sát bên nhau khi đượcc phóng đại lên như thế! Và để lưu giữ lại trong computer thì hình ảnh KTS đã được tiêu chuẩn hoá duới dạng thức trữ liệu data (bytes) trong bộ nhớ của máy vi tính hoặc duới dạng hồ sơ (Files) mà ta thuờng gặp đó là các dạng JPEG, TIF, BMP, PNG, GIF, RAW etc... A bit of Technical terms: Mỗi pixel gồm có 8 bits (1 byte) cho ảnh trắng đen (B&W) hoặc là 24 bits (3 bytes) cho ảnh màu. 1 byte cho màu Đỏ (Red), 1 byte cho màu Xanh (Green) và 1 byte cho màu Xanh da trời (Blue). 8 bits tương ứng với (mũ) 2x8 = 256 tonal levels (Cấp độ tông màu) (0-255 - Dùng để tạo mã số sRGB) Dạng ảnh 16-bit B&W và 48-bit color image (ảnh màu) cũng thế. Mỗi pixel tương ứng với (1 mã số trong những mã số của mũ) 2x16 = 65,536 tonal levels (cấp độ tông màu). Ảnh 16/48 bits cho ta chất luợng cao nhất khi chỉnh sửa. Bạn có thể lưu ảnh bằng 8/24 bits (files) duới dạng TIF. PSD. “Resolution” của ảnh là tổng số các pixels. thí dụ: 1600x2000 = 3.2 Megapixels, Tương ứng với 3.2 megabytes nằm trong máy vi tính thuộc dạng ảnh 8 bit B&W, hoặc là 9.6 Megabytes cho dạng ảnh màu có 24-bit (3 bytes/pixel). 2- DPI - thuật ngữ dễ gây ngộ nhận với PPI. Thuật ngữ “Resolution=72 DPI” rất dễ gây ngộ nhận. Ta cần phân biệt màn ảnh monitor screen resolution khác với image resolution. – Đã có một số nhà chuyên môn cho rằng resolution là độ mịn, độ phân giải, tích luợng của màn hình (screen resolution) hay của 1 ảnh (image). Nhưng hiểu theo cách đơn giản thì “Resolution” là tổng số các pixels của màn hình, hay của ảnh (image) bằng cách nhân (Pixels ngang x Pixels dọc). Hình ảnh chứa càng nhiều Pixels thì hình càng có nhiều chi tiết! (Nhưng chưa chắc đã là tấm hình đẹp!), ngoài ra để cho dễ nhớ thì hãy tuởng tuợng Resolution như là diện tích của một mặt bằng vì nó cũng tuợng hình và có hình dáng thay đổi. Như đã nói ở trên. Khác biệt trong cách dùng thuật ngữ DPI (Dot per Inch) hoặc PPI (Pixcel per Inch) giữa Các Editing software chẳng hạn Photoshop (Adobe) và Picture Window Pro (Digtal Light & Color) đã gây rất nhiều phân vân, ngộ nhận cho users! Picture Window Pro dùng thuật ngữ DPI (Sai) - Trong khi Photoshop dùng PPI. (Chính xác!): Xin xem hình của cả hai bên trong cửa sổ Resize và Image Size. Trong lý thuyết và trong áp dụng, DPI là ngôn ngữ chỉ dùng riêng, là tài sản của printer hoặc driver của Printer mà thôi chứ không hề là hình KTS. Đó là mật độ của các hạt mực li ti được phun ra trong 1 inch vuông từ máy in trong lúc máy làm việc. Các hãng máy printer thuờng quảng cáo cho người tiêu thụ thấy rằng máy in của họ có độ phun hạt (mực) là 360dpi, 720dpi hoặc 1440dpi, 2880dpi . (phun được n số hạt mực trong một inch) Điều này đúng với lý thuyết của máy In mà thôi. Nhưng nếu Software dùng để Edit hình ảnh mà lại dùng thuật ngữ DPI để nói lên resolution của bức ảnh thì không đúng tí nào cả nguợc lại PPI mới là đơn vị đo luờng pixel chính xác! Thay đổi số lượng (mật độ) DPI KHÔNG thay đổi kích thước (Size) của bản in. PPI là yếu tố quyết định điều đó. DPI chỉ là mật độ ít hay nhiều hạt mực trong 1 inch mà thôi! - Tưởng như thế bạn đã quá rõ về PPI vs DPI rồi chứ ! (Picture Window Pro gọi là DPI vs Photoshop gọi là PPI làm chúng ta dễ ngộ nhận. Photoshop - Một vài điều cần biết về Kỹ Thuật Digital Imaging! (Phần 4) 3- Confusion - Confusion! Phần này bạn có thể skip, bỏ qua vì không quan trọng mấy! Nhưng nếu bạn thấy bức rức vì chưa biết đến nơi đến chốn thì OK. read on... MicroSoft cũng gây ngộ nhận rất nhiều trong Display setting-> Screen Resolution. Xin xem hình minh hoạ: Hãy xem hình minh hoạ phía bên trái. các vòng đã khoanh sẵn. Theo vòng Screen resolution, rồi nhìn xuống dưới ta đọc được DPI setting! - Đây là điều gây ra confusion là phải rồi! – Có vị nào là software Engineer cho Windows làm ơn giải thích dùm về sự : muốn tăng hay giảm độ DPI (dot per inch) thì phải tăng giảm độ PPI (pixel per inch)! - !!! – Khó hiểu! Yes. – Chúng ta đang theo dõi Screen hình minh hoạ của Windows (bên trái) và Photoshop (bên phải). Muốn thấy cửa sổ hộp thoại này để kiểm chứng hãy làm theo cách sau đây: Click vào nền của Windows Desktop->property->Settings->Advanced – Dĩ nhiên là ít khi chúng ta để ý đến PPI và DPI làm gì cho nó mệt cả linh hồn :) nên thuờng là phớt lờ nó cho tiện việc sổ sách. Nhưng khổ nỗi bây giờ ta lại đang đam mê chụp hình và Photoshop mới chết chứ! Dĩ nhiên khi edit hình ảnh KTS thì việc đầu tiên là ta phải coi lại screen resolution trong WINDOWS. Và càng chú ý tìm hiểu thì ta càng đi vào ma trận chẳng biết đâu là đúng hay sai! Này nhé: Windows có 2 lần nói về DPI trong 2 hộp thoại : 1-Trong hộp tuỳ chọn [Display]: Ta hãy đọc quoted “: If your screen resolution makes your screen items too small to view comfortably, You can increase the DPI to Compensate.” - Tạm dịch: Nếu resolution của màn ảnh làm những hình thể trên màn ảnh quá nhỏ để nhìn. Hãy tăng Dot per inch (DPI) ??!!! - Thế rồi ta nhìn ngay hàng bên duới, ta thấy hàng chữ : DPI setting: Normal size (96 dpi) – (Đúng ra là phải viết 96 PPI) 2-Trong hộp thoại [Custom DPI Setting]: Ta hãy đọc quoted: “For a custom DPI setting, select a percentage from the list, or drag the ruler with your mouse” – (Tạm dịch: Muốn cài đặt DPI theo ý muốn (custom). Hãy chọn trị số phần trăm trong bảng list, hoặc là kéo rê thanh thuớc với chuột của bạn) - Theo huớng dẫn trên, ta lấy chuột, click vào thanh thuớc kẻ và kéo rê qua phải để tăng PPI, trong lúc ấy nhìn xuống hàng bên duới có hàng chữ “10 point Arial at 96 pixels per inch” ta thấy trị số PPI tăng giảm theo huớng ta rê chuột! – PPI này là Resolution trong Windows. Mà Screen Resolution này được mặc định bởi một vài tuỳ chọn tuỳ theo video graphic card được cài đặt trong máy vi tính. Toshiba labtop của tôi thì có 800x600, 1024x768, ~ cho tới 1440x900. Tuỳ chọn cuối cùng là độ resolution cao nhất. Với cách áp dụng và giải thích như trên. DPI rất dễ ngộ nhận là vậy!. Thôi - Tạm bỏ vấn đề DPI trong Windows và Picture Windows Pro qua một bên cho khoẻ linh hồn! Ta đã nắm vững PPI rồi, Còn DPI là việc của printer driver, Vậy theo tôi hãy gác cái anh anh chàng DPI này qua một bên cho tiện việc sổ sách! B - Resolution và kích thuớc bản in. Các hãng sản xuất máy in printer đã gây ra khá nhiều ngộ nhận đáng kể khi họ quảng cáo máy in của họ bằng số DPI. chẳng hạn máy in đuợc 720 DPI, hoặc 1600 DPI (dots per inch). Vì làm sao đo đuợc DPI vì nó quá nhỏ so với mắt trần! Đó chỉ là thủ thuật marketing chứ không có giá trị thực tiễn. Ta hãy đi vào phần thực nghiệm: Nếu bạn là nguời có óc tò mò cộng với một tí kiên trì thì đây là cách tìm hiểu về sự phối hợp của màu sắc khi chúng đuợc tạo thành bằng cách nào! Đồng thời, chúng ta sẽ dùng nhau vuợt qua vùng tối tăm của DPI, PPI một cách rất dễ dàng bằng cách thực hiện theo huớng dẫn những việc sau đây: - Ngược lại, bạn có thể SKIP, vượt qua phần này. 5- Layers là gì?- áp dụng Layers để tạo màu RGB & CMYK Nhằm mục đích trình bày cho đầy đủ ngọn nghành và cũng có đôi chút tham lam là làm cái việc của một công 2 chuyện. Tôi mạo muội giải thích một cách ôm đồm và bao gồm trong topic này vừa về Layers và cách thức làm việc hoà trộn (blending mode) giữa các Layers với nhau để tạo màu RGB cũng như CMYK một cách vắn tắt.Vắn tắt thôi, nhưng sẽ là nền tảng căn bản sau này cho những topic khác. Vậy xin vào đề để khỏi mất thời giờ của quý bạn: Hãy tưởng tượng Layers là các tầng không gian làm việc riêng biệt, mà mỗi tầng đều chứa những dữ liệu hình ảnh. Thí dụ cụ thể và đơn sơ nhất là : 1- Tầng một: ta có bầu trời xanh và mây, (Layer 1) 2- Tầng 2 ta có nước biển và sóng bạc đầu, (Layer 2) 3- Tầng 3 ta có đất liền và những cây dừa cùng khách nhàn du đi tắm biển. (Layer 3) Nếu gộp cả 3 tầng layers này chung với nhau (Flatten image) ta sẽ có một bức ảnh! Đó là khái niệm vắn tắt về Layers để bạn có thể bắt đầu làm việc edit hình ảnh theo hệ thống của PhotoShop. Thực hành: 1-CTRL + N (Mở một File mới) 2-Điền vào theo hình minh hoạ như sau và click OK Một khung với nền trắng hiện ra, đấy là không gian làm việc của một hồ sơ hình ảnh: A-Tạo color dùng mã RGB: Tạo một khung bằng 1.25 inch vuông với nền đen như hình bên dưới (dễ quá mà) Nhìn vào hộp thoại Layers và hãy làm theo hướng dẫn số 1- click đây, màu xanh.... theo như hình trên. 2- CTRL+J 3 lần để tạo 3 tầng layers 3- Double click vào từng tầng layers để đổi tên thành Red, Green, Blue. 4- Click vào hộp thoại Layers để chọn blending mode = Lighten (Quan Trọng!) 5- Chọn Color Picker và click Set foreground color. Một hộp thoại mở ra để ta chọn RGB color, cột bên trái: Truớc tiên ta chọn mã số Green color. R=0, G=255, B=0 6-Chọn Soft brush tool, size= 90 hadrness = 100% , Mode=lighten, Opacity=100, Flow=100. - 7- Click vào con mắt của tầng layer có tên là Green - Click 1 lần vào nền đen của khung hình để tô màu, ta sẽ thấy màu Green hiện lên. 8- Xong rồi, ta lại click Chọn Color Picker -Set foreground color, Chọn R=255, G=0, B=0 rồi click vào con mắt của tầng layer màu đỏ Red, rồi Click để tô vẽ chồng và chéo lên màu Green (xem minh hoạ) - Tương tự, tiếp theo ta ta lại click Set foreground color, Chọn R=0, G=0, B=255 và click vào tầng layer màu xanh blue để tô lên 2 màu vừa có. – Kế quả sẽ có như hình bên dưới: Nào bây giờ bạn hãy quan sát cách tạo màu trên nền đen. Click vào con mắt của các layers để tắt mở layers này thì bạn sẽ thấy Nếu (Add) hoà trộn màu đỏ chồng lên green thì sẽ tạp ra màu vàng. Red+Blue=Magenta, Blue+Green=Cyan, Red+Blue+Green=White. Đúng không nào ? Nếu làm đúng bạn sẽ có một hình như bên dưới phía trái có khung vuông nền đen. Đây là sự tạo màu gọi là dương tính (Additive color). Bạn đang quan sát và thực nghiệm 2 điều quan trọng trong Photoshop, Đó là 1:- Khái niệm về các Layers (Tầng lớp chồng lên nhau, trong đó chứa đựng các image riêng trước khi làm xẹp, gộp chung nó lại thành 1 tệp) - 2- Cách hoà trộn (blending mode = lighten) giữa các Layers để tạo màu trong không gian RGB. Hiểu về Layers và cách hoà trộn, thêm vào để tạo màu mới trong RGB, cũng như huỷ diệt màu khi hoà trộn để tạo màu khác trong CMYK thì mai kia bạn sẽ biết cách áp dụng nó đề tách tóc etc... khỏi nền một cách thoải mái dễ dàng thôi! B-Tạo color dùng mã CMYK: (Để biết sự tạo màu của Printer) Các bước thực hành tương tự như trên, nhưng lần này ta vẽ lên nền trắng (White Background) giả như là máy in sẽ phun mực lên tờ giấy trắng! - Bạn cũng có thể tạo 3 layers riêngnhư các bước trên nhưng Blending mode (Hoà trộn) lần này=Multiply chứ không phải lighten nhé. Quan trọng đấy, vì nếu không. Các Layers sẽ không huỷ màu được để tạo màu mới được đâu! - Thực hành: Soft brush size = 90, Mode=Multiply. Menu: Image->Mode=CMYK 8bits. Chọn Color Picker - Set foreground color, - Một khung thoại chọn màu sẽ hiện ra, Nhưng lần này ta click chọn phía bên phải, section có chữ CMY Chọn M=100%, C=0, Y=0. (Cột bên phải), Click để tô vào nền trắng, màu Magenta. Chọn C=100%, M=0, Y=0, Click để tô màu Cyan chồng lên Magenta Chọn Y=100%, M=0, C=0. Click để tô màu Yellow chồng lên Magenta & Cyan . - Bạn sẽ diện kiến sự hấp thụ để tiêu huỷ màuđể tạo các màu khác của CMY thành Red, Green, Blue mà ta gọi là màu âm tính (Subtractive color) !!! - Kỳ diệu hả bạn. Vừa rồi bạn đã chứng kiến sự tạo màu của RGB và CMYK . Bây giờ chúng ta sẵn sàng nhận dạng PPI và DPI 6-NHẬN DẠNG PPI: Xin hãy kiên nhẫn thêm một chút nữa bạn sẽ thấy hình dạng của Pixel như thế nào. 1-Alt+Ctrl+I hay là [Image->Image size] 2-Check (Bôi đen) [Resample Image] mà thôi, Resolution=100 PPI, Click OK. Thoát 3-Ctrl+K , Chọn Guides, Grid, Slices & Count 4-Gridline every: =1 inch; Subdivisions=100, Click OK Thoát (Xem hình duới) (Đây là cách dùng grid line trong photoshop vẽ thành 100 hàng trong 1 inch để xem 100 Pixel per inch thực thụ nhìn ra sao!! Và Dots nằm bên trong pixel hiện hình dạng như thế nào? Bây giờ hãy khuếch đại hết cỡ lên, CTRL + ‘ hay [View->Show-> Grid] chúng ta sẽ thấy sự thể hiện các đuờng kẻ lên hình, mỗi ô vuông là một Pixel, và trong mỗi Pixel gồm nhiều dots. Xem hình minh hoạ: Kết Luận: Trong Image size (photoshop). Để tăng giảm Resolution, thì bôi đen Resample và thay đổi số Resolution: PPI 1 PPI bao gồm nhiều DPI (khi In). Vậy PPI > DPI. Photoshop - Một vài điều cần biết về Kỹ Thuật Digital Imaging! (Phần 5) 7- Printer / Print sharpness Bạn cần biết rằng, chất luợng của bản in lệ thuộc lớn vào phẩm chất của phần mềm dùng để edit hình ảnh như Photoshop, Window Pro, Paint shop Pro. Capture One NX của Nikon etc…và điều quan trọng không kém nữa đó là Working color space mà bạn chọn lựa chẳng hạn như Adobe RGB (1998), sRGB IEC61966-2.1, Apple RGB, Nikon sRGB, Nikon Bruce RGB 4.0.0.3000 etc… Điều kế tiếp là chọn kích thước ảnh nghĩa là phải hiểu và biết cách làm việc của Image Resize như thế nào (sẽ được giải thích ở 8-Resampling) . Kế tiếp nữa là phải biết cách tạo cho tấm hình có độ sắc nét và màu sắc như ý muốn bạn có thể tham khảo kỹ hơn tại thread này: Screen Resolution Vs Print Resolution! Xong các bước trên thì bạn có thề lưu (save file) và sẵn sàng rõ gởi nó xuống printer để in. Và đây chính là mục đích trong nội dung ở đoạn viết này : Khi một bức ảnh (image) đuợc gởi xuống printer, bằng image editor, printer driver (Intercept) đón nhận và làm việc theo khả năng của printer. – Nó có thể in ở mật độ 720 dpi như Epson Photo printers; 600 dpi như HP và Canon. Nhưng …. Cần phân biệt một điều là mỗi một phần mềm làm việc khác nhau! Photoshop để cho ta chọn khung size của tấm hình để edit. Và cuối cùng, khi ta đã sẵn sàng gửi file xuống printer, nếu tấm hình (image) có kích thuớc lớn hơn size của giấy in, chẳng hạn ảnh edit có khuông là 17x11 inches, khi ảnh này đuợc gởi xuống printers để chọn in ở letter size. Photoshop sẽ báo ngay bằng 1 một hàng chữ : "The image is larger than the paper's printable area; some clipping will occur." “Hình ảnh lớn hơn kích thuớc giấy in, một phần hình ảnh (ngoài khung) sẽ bị cắt xén”. Điều này kể ra là hơi phiền toái !!! – Nghĩa là bạn phải trở ra để dùng hộp thoại Image Resize rồi dùng Rescale, hoặc Check Scale to Fit Media để điều chỉnh hình cho đúng khổ in của trang giấy. Window Picture Pro (Digital Light & Color) để ta tuỳ chọn kích thuớc ảnh khi in!!!! NoDPI.jpg --------------------------- 8- Resampling Resampling là tên gọi của một tiến trình dùng phép tính thuật toán có phương trình tốt nhất để điền thêm pixels vào chỗ trống khi phóng đại bức ảnh hoặc trừ ra, loại bỏ một số pixels cho hợp với kích thước bức ảnh mà ta muốn đạt đến. Chúng ta biết rằng hình ảnh được trình chiếu và đo lường bằng số pixels của màn hình (e.g. a 1024x1280 tuỳ theo video display nhé), trên một màn ảnh (monitor) có kích thước bề ngang đo được chẳng hạn là (e.g. 15 inch). Thật là hợp lý khi chúng ta nghĩ rằng: thay đổi ppi (pixels per inch) sẽ ảnh hưởng đến kích thước của tấm ảnh trên màn monitor. Có vẻ hợp lý thế đấy nhưng lại không đúng đâu! Mặc dù các màn hình monitor hay nói đúng ra là video display card có những tuỳ chọn cho phép ta mặc định ppi của màn hình, Thế nhưng, trên thực tế, trị số ppi của tấm ảnh (cần phân biệt : không phải là ppi của monitor!) lại KHÔNG HỀ được sử dụng nếu ta dùng trình duyệt (web browser) đâu! Sao vậy nhỉ?. Bạn cũng nên nhớ một điều nữa là hình ảnh KTS được “đóng ấn" - (tagged) với các thông tin như kích thước ngang dọc bằng số lượng pixels mà nó có, hoặc bằng độ phân giải resolution (ppi). Hoặc bằng những thông tin về khẩu độ (exposure), focus, flash data etc… và được lưu trữ bằng dạng EXIF. (Exchangeable Image File Format). Chúng ta thường bắt gặp nó đặc biệt dưới dạng JPEG nén (JPEG compression). Vậy những thông tin hình ảnh KTS được sử dụng như thế nào và dùng để làm gì ? 9- Pixels and Resolution in Web Browser Khi chúng ta dùng trình duyệt (web browser) để trình bày hình ảnh KTS lên màn monitor, điều căn bản có tính cách quyết định kích thước của tấm hình đó là số lượng pixels của chiều ngang và chiều đứng mà bức ảnh có. Ngoài ra tất cả những thông tin khác trong hồ sơ đều bị bỏ qua không dùng! kể cả resolution (ppi data). Vậy nếu ta có tấm hình có dung lượng là 480 Kbytes nghĩa là ta có 800 pixels bề ngang x 600 pixels bề dọc. Màn hình sẽ trình chiếu hoàn toàn 100% bức ảnh nếu bạn dùng 800x600 monitor display. Nên nhớ một điều : Sẽ chẳng có một tí ảnh hưởng gì ráo cho dù bạn đã mất công mặc định số ppi của bức ảnh là 1 hay là 1000 ppi! - Tại sao thế? - Thưa là bởi vì các trình duyệt (web browsers) tự mặc định resolution hình ảnh KTS là 72 ppi rồi mà họ lại không lịch sự thông báo cho chúng ta biết đó thôi :) - Vậy điều cần ghi nhớ là : Trong web browser, trị số pixels chiều ngang và chiều dọc của tấm hình quyết định tất cả. Muốn thay đổi kích thước khung hình hay size lớn hay nhỏ hãy nhớ điều này: Chẳng hạn nếu ta có file gốc của bức hình là 1600x1200 pixels. Dĩ nhiên là nó quá lớn để có thể được xem hết trong một lần với 95% diện tích của màn hình hiện có trên thị trường. Và nó sẽ bị tải chậm khi vào mạng Internet vì dung lượng file quá lớn. Vậy nếu muốn kẻ nào đó trong thế giới Internet có màn hình display là 800x600 xem hình của chúng ta một cách đầy dủ và rõ ràng, Ta cần phải thay đổi kích thước bức ảnh bằng cách hạ nó xuống còn 600x400 pixels (nên nhớ cửa sổ (khung) của trình duyệt nhỏ hơn là màn ảnh monitor). Chúng ta đang nói về "down sampling" đấy. Làm hình nhỏ lại thường được gọi là "downsampling" hoặc "downsizing". Làm hình lớn thêm (cẩn thận nhé! bạn đang dealing với kỹ thuật toán học dùng nội suy Interpolation đấy) "upsampling" hay "upsizing". Đây là việc làm của các phần mềm chứ bạn chẳng đẽo gọt nó bằng tay với búa kìm được đâu :) - Thí dụ dưới đây là của màn hình PhotoShop, cho phép chúng ta Resampling thay đổi pixel ngang và dọc của ảnh KTS. Resample.jpg Màn hình trên cho thấy chúng ta có tấm ảnh với chiều ngang đo được là 1000 pixels và 640 pixel chiều cao. Nếu ta muốn người vẫn còn sử dụng màn hình video 640x480 có thể xem được toàn cảnh ảnh của chúng ta trong 1 lần trên Web browser. Để làm được điều này dĩ nhiên là ta phải hạ kích thước khung hình xuống. Chẳng hạn làm nhỏ lại bằng một nửa thôi: 500 pixels ngang x 320 pixels bề đứng. Vậy ta phải làm sao? - Trước hết cần nhớ là khung hộp thoại thứ hai [Document size] không có liên quan gì hết vì nó chỉ ảnh hưởng trong khi in mà thôi! Vậy nếu chúng ta dùng Trình duyệt (web browser) để trình chiếu hình ảnh thì thông tin trong khung hộp thoại [Pixel Dimensions:] mới đúng là quan trọng! - Vậy ta cần thay đổi trị số "500" trong hộp tuỳ chọn [Width: (bề ngang)], và check mark chọn "constrain proportions" - "resample image" (quan trọng đấy) resample_2.jpg Xong rồi, bấm "OK" để thoát. - PhotoShop sẽ thay đổi kích thước của khung hình = 500 x 320 pixels bằng phương trình "bicubic" resampling algorithm. - Xin được mở ngoặc ở đây để nói về thuật toán "bicubic" algorithm. Thuật toán này thường cho chúng ta kết quả tốt nhất trong mọi trường hợp. - "Bilinear" và "nearest neighbor" thì chạy nhanh hơn nhưng lại không cho kết qủa tốt bằng "bicubic"! - Resampling là tên gọi của một tiến trình dùng phép tính thuật toán có phương trình tốt nhất để điền thêm pixels vào chỗ trống khi phóng đại hoặc trừ ra, loại bỏ một số pixels cho hợp với kích thước bức ảnh mà ta muốn đạt đến.[/I] . Downsampling thì tương đối dễ có kết quả tốt vì chúng chỉ loại bỏ những pixels đã có sẵn, nhưng upsampling lại là cả một vấn đề phức tạp vì pixels phải được điền thêm vào cho đúng nơi đúng chỗ (trống) để có được một tấm hình tốt. Cụ thể là nếu lấy tấm ảnh 500x300 pixels rồi phóng đại lên 2000x1280 pixels. Ok. làm được chứ nhưng... Cần nhớ một điều là bây giờ ta phải tạo ra một tấm hình mới với sự có mặt thêm vào của 1.92 triệu pixels với đủ loại tông màu khác nhau!!!! - Hình càng được phóng đại lớn thì sẽ càng bị mất đi tính nguyên thuỷ so với bản gốc, nghĩa là sẽ không giống như cũ, sẽ không nhìn sắc nét so với hình gốc! Vậy nếu phải làm cái chuyện phóng đại hình thì tốt nhất là nên dùng bicubic resampling và nên làm từng bước nhỏ. 5 hay 6 lần nhỏ thì tốt hơn là phóng đại lên cái rụp! Thí dụ ta sẽ làm từ 500 - 750 - 1000 - 1250 - 1500 -1750 - 2000 ppi. hơn là từ 500 ta phóng lên 2000 ppi một cái ào! - (Bạn có thể dùng action để phóng lớn từng bước hoặc dùng các plug in khác như blow out của Alien Skin etc... thì có thể sẽ có đỡ hơn một chút!) Bạn sẽ nhận ra rằng chiều ngang (Width) và bề đứng (Height) của khung [Document Size:] đã thay đổi trị số cùng một lượt với khi ta thay đổi số lượng pixels của bức hình, trong khung [Pixel Dimension:]. - Vậy chúng có liên quan với nhau không? - Surely! Yes. - Nhưng... Coi lại kỹ đi nào, có một bộ phận không thay đổi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphotoshop_mot_vai_dieu_can_biet_4213.pdf
Tài liệu liên quan