Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại

Ở những nơi cơ chế phát thải chủ yếu là sự hóa hơi, khí ô nhiễm cơ bản bao gồm là những hợp chất hữu cơ. Khí ô nhiễm có thể sinh ra do quá trình sản xuất hoặc do quá trình xử lý chất thải. Sự ô nhiễm của bụi và các thành phần khí khác chủ yếu là do quá trình đốt và do sự xói mòn của gió liên quan chủ yếu đến những hạt nhỏ và có những tính chất ô nhiễm khác nhau ví dụ như chất hữu cơ, kim loại, PCB, dioxin. Chất bay hơi: chủ yếu từ bồn chứa, hệ thống ống, bề mặt ao hồ. Chất hữu cơ và chất vô cơ bay chủ yếu có nguồn gốc từ các bồn chứa, hệ thống ống, đường ống, bề mặt ao hồ. Chất hữu cơ có thể bay hơi từ nước rò rỉ và di chuyên đến nước bề mặt. Tốc độ bay hơi phụ thuộc vào nhiệt dộ, áp suất bay hơi của chất, sự chênh lệch giữa nồng độ trong pha long và pha khí. Các chất bay hơi trong môi trường có thể dịch chuyển trực tiếp vào khí quyển, đôi khi các

docx42 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5363 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một hàm lượng đồng (từ 1 - 2%) - gọi chung là chất thải nguy hại. 2.Tác động đến sức khỏe Các chất nguy hại gây tác động đến con người do có sự tiếp xúc chất thải với môi trường và con người. Có hai cách tiếp xúc: - Tiếp xúc cố ý của chất nguy hại với con người qua không khí, nước uống, thức ăn trong trường hợp tự tử hay đầu độc. - Tiếp xúc không cố ý. Chất nguy hại được phát thải vào môi trường và con người hoạt động trong môi trường đó bị tiếp xúc với chất nguy hại. Ví dụ, con người sử dụng bao bì nhiễm bẩn chất nguy hại co các mục đích sinh hoạt. Chất nguy hại xâm nhập vào bên trong cơ thể như qua đường hô hấp, qua da hay tiêu hoá. Chất độc hại xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá do tiêu thụ thực phẩm bị nhiễm bẩn hay do sử dụng những dụng cụ nhà bếp không sạch. Tay nhiễm bẩn có thể giúp hấp thụ chất độc qua việc làm bếp làm nhiễm bẩn thức ăn, qua động tác ăn uống hay hút thuốc… Chất thải nguy hại có tác động đến an toàn và sức khoẻ con người. Vấn đề an toàn: do tính chất dễ cháy, nổ, hoạt tính hoá học cao, gây ăn mòn, các chất nguy hại có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của con người. Đồng thời khi diễn ra quá trình cháy nổ còn phát sinh thêm nhiều chất độc hại thứ cấp khác, gây ngạt do mất oxy có thể dẫn đến tử vong. Ngoài ra, chất thải nguy hại còn phá hủy vật liệu nhanh chóng. Do đó chúng gián tiếp có ảnh hưởng đến sự an toàn và sức khoẻ của con người. Vấn đề sức khoẻ con người: Chất nguy hại gây tổn thương cho các cơ quan trong cơ thể, kích thích, dị ứng, gây độc cấp tính và mạn tính có thể gây đột biến gen, lây nhiễm, rối loạn chức năng tế bào… dẫn đến các tác động nghiêm trọng cho con người và động vật như gây ung thư, ảnh hưởng đến sự di truyền 2.1 Các triệu chứng lâm sàng và rối loạn chức năng Con người khi tiếp xúc với chất nguy hại có thể biểu hiện nhiễm độc qua các triệu chứng lâm sàng và rối loạn chức năng như sau: Biểu hiện ở đường tiêu hoá: tăng tiết nước bọt, kích thích đường tiêu hoá, nôn, tiêu chảy, chảy máu đường tiêu hoá, vàng da. Biểu hiện ở đường hô hấp: tím tái, thở nông, ngừng thở, phù phổi.. Biểu hiện rối loạn tim mạch: mạch chậm, mạch nhanh, trụy mạch, ngừng tim. Các rối loạn thần kinh, cảm giác và điều nhiệt: hôn mê, kích thích và vật vã, nhức đầu nặng, chóng mặt, điếc, hoa mắt, co giãn đồng tử, tăng giảm thân nhiệt. Rối loạn bài tiết: vô niệu... Nhóm Tên nhóm Nguy hại đối với người tiếp xúc Nguy hại đối với môi trường 1 Chất thải dễ bắt lửa, dễ cháy Hỏa hoạn, gây bỏng Gây ô nhiễm không khí Các loại này khi ở thể rắn khi cháy có thể sinh ra các sản phẩm cháy độc hại 2 Chất ăn mòn Ăn mòn, gây phỏng, hủy hoại cơ thể khi tiếp xúc Ô nhiễm không khí và nước gây hư hại vật liệu 3 Chất thải dễ nổ Gấy tổn thương đến sức khỏe do sức ép, gây bỏng dẫn đến tử vong Phá hủy công trình Sinh ra các chất ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. 4 Chất thải dễ oxy hóa Gây cháy nổ khi xảy ra phản ứng hóa học Ảnh hưởng đến da, sức khỏe Gây ô nhiễm nước, đất 5, 6 Chất độc ảnh hưởng mãn tính và cấp tính đến sức khỏe Gây ô nhiễm nước, đất 7 Chất lây nhiễm Lan truyền bệnh Một vài hậu quả về môi trường Sơ đồ các tuyến xâm nhập chất thải nguy hại vào cơ thể con người 2.2 Một số chất độc Dung môi Các dung môi hữu cơ có thể tan trong môi trường mỡ cũng như nước. Các dung môi thân mỡ khi tan trong môi trường sẽ tích tụ trong mỡ bao gồm cả hệ thần kinh. Hơi của dung môi rất dễ được hấp thu qua phổi . có nhiều loại dung môi hữu cơ gây độc tính cấp và mãn tính cho con người và động vật khi tiếp xúc. Một số dung môi hữu cơ thường gặp là benzen, toluen, xylen, etylbenzen, xyclohexan. Các dung môi này có thể hấp thụ qua phổi và qua da. Khi tiếp xúc ở liều cao gây độc tính cấp suy giảm thần kinh trung ương, gây chóng mặt, nhức đầu, ngộp thở dẫn đến rối loạn tiêu hóa. Benzen tích lũy trong các mô mỡ và tủy xương gây bệnh bạch cầu, xáo trộn AND di truyền. Liều hấp thụ benzen từ 10-15 mg có thể tử vong. Các hydrocacbon Các chất halogen hóa chủ yếu là nhóm clo hữu cơ, chúng đều là các chát dễ bay hơi và rất độc, đặc biệt chúng dễ gây mê, gây ngạt, ảnh hưởng đến hệ thần kinh, gan thận như Triclometan,tetraclorocacbon,tricloroetylen…các hợp chất phức tạp còn có khuynh hướng tích tụ trong cơ thể động thực vật khi hấp thu chúng như PCBs, DDT... Các Kim loại nặng Các kim loại nặng gây hại đáng kể cho môi trường. Với hàm lượng cao chúng gây rối loạn, ức chế hoạt động của sinh vật. Tác động nguy hại đáng quan tâm của chúng là lên sức khỏe con người. Sự xâm nhập của chúng vào cơ thể diễn ra trong thời gian dài nên khó có thể phát hiện và ngăn ngừa. Một số kim loại nặng tiêu biểu là Cr (VI), Hg, As, Cd… Các chất có độc tính cao Chất lỏng :thủy ngân, dung dịch các chất rắn ở trên, hợp chất vòng thơm… Chất rắn : antimon, cadmi, chì, bery, asen, selen, muối cyanua và các hợp chất của chúng Chất khí : hydrocyanua, photgen, khí halogen, dẫn xuất của halogen… chất gây đột biến : carcinogens, asbetos. PCBs… CHƯƠNG II. SỰ LAN TRUYỀN, TÍCH LŨY VÀ PHÂN HỦY CỦA CTNH TRONG MÔI TRƯỜNG Có thể nhận thấy rằng sự lan truyền, tích lũy và phân hủy của chất trong môi trường nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào bản chất của chất thải, cách thức xâm nhập vào môi trường, bản chất của môi trường tiếp nhận, điều kiện môi trừng…Vì vậy để hiểu rõ các vấn đề cần xem xét đến các yếu tố liên quan trên. Các dạng phát tán Để có thể nhận dạng một cách rõ ràng các con đường dẫn đến sự lan truyền của chất thải nguy hại (CTNH), các dạng phát tán vào môi trường phải được nhận dạng một cách rõ ràng. Nhìn chung CTNH đi vào môi trường ở ba dạng: rắn, lỏng, khí tương ứng với bap ha rắn, lỏng, khí. Phát tán ở dạng khí: CTNH thải vào môi trường pha khí có thể bao gồm: chất bay hơi từ ao hồ, thùng chứa hoặc khí thải từ các ống khói nhà máy, từ lò đốt, từ hoạt động giao thông…Tùy theo mức độ phát tán, phạm vi ảnh hưởng, độ cố định hay di động để phân biệt được người ta có thể phân ra như sau: Nguồn điểm: ống khói từ lò đốt, khí bãi chon lấp…(khối lượng/thời gian) Đường: bụi từ đường phố, khói xe (khối lượng/thời gian.chiều dài) Vùng (diện tích): chất bay hơi từ ao hồ, đầm chứa (khối lượng/thời gian.diện tích) Thể tích: các trường hợp của các ngôi nhà (khối lượng/thời gian.thể tích) Nhất thời (không thường xuyên) do các sự cố về tràn, rơi vãi của chất thải (khối lượng của tổng thải) Ở những nơi cơ chế phát thải chủ yếu là sự hóa hơi, khí ô nhiễm cơ bản bao gồm là những hợp chất hữu cơ. Khí ô nhiễm có thể sinh ra do quá trình sản xuất hoặc do quá trình xử lý chất thải. Sự ô nhiễm của bụi và các thành phần khí khác chủ yếu là do quá trình đốt và do sự xói mòn của gió liên quan chủ yếu đến những hạt nhỏ và có những tính chất ô nhiễm khác nhau ví dụ như chất hữu cơ, kim loại, PCB, dioxin. Chất bay hơi: chủ yếu từ bồn chứa, hệ thống ống, bề mặt ao hồ. Chất hữu cơ và chất vô cơ bay chủ yếu có nguồn gốc từ các bồn chứa, hệ thống ống, đường ống, bề mặt ao hồ. Chất hữu cơ có thể bay hơi từ nước rò rỉ và di chuyên đến nước bề mặt. Tốc độ bay hơi phụ thuộc vào nhiệt dộ, áp suất bay hơi của chất, sự chênh lệch giữa nồng độ trong pha long và pha khí. Các chất bay hơi trong môi trường có thể dịch chuyển trực tiếp vào khí quyển, đôi khi các chất này cũng trãi qua quá trình biến đổi pha mới đến khí quyển theo sơ đồ tổng quát sau: Hình sự phân bố của chất hữu cơ bay hơi trong môi trường đất – nước – không khí Sự di chuyển của chất ô nhiễm từ đất và nước ngầm cho phép chúng thoát vào khí quyển không được kiểm soát từ con đường chuyển đổi cơ bản (đơn giản). Về cơ bản có thể dụng định luật Henry cân bằng hóa học, yếu tố riêng như loại đất, độ ẩm, tốc độ gió, diện tích hồ nước để ước tính sự thoát ra nguồn và xử lý chúng. Phát tán ở dạng rắn: chủ yếu từ hai nguồn: quá trình đốt và nguồn tức thời (fugitive) từ bốc dỡ vật liệu, bề mặt: đường. công trường xây dựng, bến đỗ, chuồng trại (impoundment), bãi chôn lấp, công trường xử lý đất, bể ổn định chất thải. Nguyên nhân chính gây nên phát tán do tác động của gió và hoạt động của con người. Lượng bụi phát tán từ quá trình đốt có thể ước tính theo nguyên liệu đốt có thể tham khảo tính toán trong tài liệu xử lý ô nhiễm không khí. Trong nội dung phần này chỉ đề cập đến một số phát tán do hoạt động giao thông và bốc dỡ. Lượng bụi do hoạt động giao thông và bốc dỡ. Lượng bụi do hoạt động giao thông có thể ước tính bằng công thức sau: Trong đó: EVT hệ số phát tán (lb/mi xe di chuyển) (lb/mi=0.423kg/km) SP hàm lượng bùn của bề mặt đường % Vv tốc độ xe trung bình (mi/h) (mi/h=1.609km/h) MV trọng lượng trung bình của xe (tấn) WV số bánh xe trung bình DP số ngày trong năm có lượng mưa tối thiểu là 0.254mm Để tính toán lượng bụi thất thoát do hoạt động bốc dỡ (bốc dỡ đất) có thể dùng phương trình sau: E = hệ số phát tán (lb bụi đi vào không khí/ tấn đất được lấy đi) (lb=0.4535kg) U = tốc độ gió trung bình (mi/h) (mi/h=1.609km/h) M = hàm lượng ẩm của vật liệu (%) K hệ số liên quan đến kích thước hạt có thể lấy trong bảng sau: Kích thước hạt (mm) <30 <15 <10 <5 <2.5 k 0.74 0.48 0.35 0.20 0.11 Bảng 1: kích thước hạt và hệ số k Phát tán ở dạng lỏng: quá trình phát tán của chất thải ở dạng lỏng vào môi trường rất đa dạng: về hình thức và luôn xảy ra không ngừng chẳng hạn như: đầu ra của hệ thống xử lý, nước từ các tháp xử lý khí thải lò đốt, nước rò rỉ sau xử lý, nước rửa máy móc thiết bị…Do khả năng xử lý luôn nhỏ hơn 100% nên những nguồn nước này mặc dù được xử lý nhưng vẫn thải vào môi trường ít được thực hiện so với các kiểm soát thông thường. Vì hầu hết như việc kiểm soát, giám sát chỉ được thực hiện dựa trên các chỉ tiêu thông thường và được thực hiện đối với các công trình cố định trên mặt đất mà chưa quan tâm đến công trình ngầm hay những nguồn không thường xuyên. Ví dụ điển hình cho trường hợp này là việc dùng thuốc bảo vệ thực vật, các hệ thống cống rãnh ở nông thôn, cũng như dùng bể tự hoại trong nhà của các đô thị. Việc giám sát nguồn này ngày nay còn rất hiều tranh luận và chưa đưa ra biện pháp hiệu quả nhất, ngay cả việc khoan giếng đến tầng kiến tạo đá và đổ CTNH vào đó vẫn còn nhiều tranh cãi, thảo luận. Ngoài ra, còn có những nguồn phát thải vào nước mặt va nước ngầm mà không thể kiểm soát được. Những nguồn này có thể là nước mưa chảy tràn và nước rò rỉ trong bãi rác cũng như hoạt động của con người (làm đỗ, tràn, gây rơi vãi) Bảng 2: các nguồn phát thải, lượng thải, mức độ ô nhiễm và nguyên nhân – yếu tố tác động Nguồn Lượng thải Mức độ ô nhiễm Các nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng Vận chuyển (do tràn và chảy đổ) Một phẩn của thể tích chất được vận chuyển Cao trong trường hợp chất vận chuyển là chất tinh khiết Do tai nạn giao thông, các sự cố khi bốc dỡ xuống hàng Kho lưu trữ +Tràn +Rò rỉ Một phần của thể tích thùng chứa Tốc độ nhỏ tuy nhiên có thể xảy ra liên tục trong thời gian dài đặc biệt khi thùng chứa trong long đất Cao khi chất lưu trữ là chất tinh khiết Cao khi chất lưu trữ là chất tinh khiết Do cấu trúc của thùng chứa sai, các sự cố trong bảo quản Chế độ kiểm tra bảo trì, niên hạn sử dụng của thùng chứa Đầu ra của hệ thống xử lý Khác nhau tùy thuộc quy mô của hệ thống, thường là lớn Thấp do yêu cầu của luật Thành phần, nồng độ đầu vào, thiết kế và vận hành hệ thống Bãi chon lấp +Nước mưa chảy tràn +Hiện tượng thấm rỉ bề mặt +Rò rỉ qua lớp lót đáy Tùy thuộc vào mùa và lượng mưa Tốc độ thấp nhưng có thể liên tục kéo dài trong một thời gian dài Tốc độ thấp khi có lớp lót đáy, từ trung binhg đến cao khi không có lớp lót đáy, liên tục trong thời gian dài Thấp, thành phần ô nhiễm chủ yếu là cặn. Trong trường hợp bãi chon lấp hình nón thì hầu như không có Từ trung bình đến cao Từ trung bình đến cao Tình trạng, đỉnh bãi chôn lấp, độ dốc, lượng mưa và thời gian mưa Đặc tính của đỉnh bãi chon lấp (độ dốc và tính thấm), do chon lấp chất lỏng , hệ thống thu gom nước rò rỉ Đặc tính của đỉnh bãi chon lấp (độ dốc và tính thấm), do chon lấp chất lỏng , hệ thống thu gom nước rò rỉ, đặc tính của lớp lót đáy Hồ chứa +Quá tải hay sự rửa trôi +Thấm, rỉ Một phần của lượng thải chứa trong hồ Lưu lượng nhỏ khi có lớp lót, trung bình đến cao khi không có lớp lót, liên tục theo thời gian Cao khi trữ các chất nguy hại Cao khi lưu trữ CTNH Cấu trúc sai, do lũ lụt Tính thấm của lớp lót, chiều sâu của CTNH Sự lan truyền của chất ô nhiễm trong đất Trong đất sự dịch chuyển của chất ô nhiễm phụ thuộc rất lớn vào dòng nước ngầm trong đất. Không gian chứa nước và sự phân bố của nước ngầm có ảnh hưởng rất lớn đến sự lan truyền của chất ô nhiễm. Để có thể hiêu rõ về dòng nước ngầm hình thành trong đất có thể xem hình dưới đây Chu trình nước cho thấy khi bắt đầu việc kết tụ của nước trên mặt đất do mưa, mưa đá, tuyết sẽ hình thành một vòng chảy tràn trên mặt đất. Dòng nước chảy tràn trên mặt đất này sẽ thấm xuống dưới đất thành nước ngầm, phần còn lại sẽ chảy về các vùng trũng (vùng tụ thủy) hình thành các dòng chảy như suối, song và cuối cùng chảy ra biển. Lượng nước ngầm thấm xuống đất và lượng nước chảy trên bề mặt tiếp tục quay vóng vào khí quyển do bay hơi, phần còn lại trong đất sẽ thấm xuống và tùy theo cấu trúc địa tầng mà hình thành các tầng chưa bão hòa nước và tầng chứa nước. Tùy theo cấu trúc địa tầng nước sẽ có xu hướng dịch chuyển đi lên mặt đất hay hướng về chỗ trũng. Quá trình dịch chuyển và hướng dịch chuyển của nước trong đất sẽ phụ thuộc rất lớn vào thành phần đất ví dụ đối với tầng chứa cát và sỏi nước sẽ có xu hướng thấm ngang hơn thấm dọc. Lưu lượng dòng chảy của nước ngầm trong đất có thể ước tính bằng cách xử dụng công thức Darcy Trong đó, Q= lưu lượng (cm3/s) K= hệ số thấm (cm/s) I= gradient thủy lực (cm/cm) A= diện tích mặt cắt (cm2) Hệ số thấm phụ thuộc rất nhiều vào thành phân đất Bảng 3: hệ số thấm của đất Loại K(cm/s) Sỏi 1-105 Cát hay hỗn hợp cát sỏi 10-3-1 Cát mịn và bùn (phù sa) 10-2 - 10-6 Sét pha bùn hay sét 10-5 - 10-9 Trong công thức trên, gradient thủy lực chỉ thị cho độ tổ hợp tổn thất thế năng khi dòng chảy qua lớp vật liệu xốp (đất) được xác định như sau: Trong đó, chiều cao cột áp tại vị trí 1(cm) chiều cao cột áp tại vị trí 2(cm) khoảng cách giữa hai vị trí Do trong đất có lỗ xốp và quá trình dịch chuyển của dòng chảy trong đất là sự dịch chuyển qua các lỗ xốp vì vậy có thể tính lưu lượng theo công thức biến đổi Darcy như sau V= vận tốc thấm darcy = k.i (cm/s) A= diện tích mặt cắt ngang dòng (cm2) Vs= vận tốc thấm tuyến tính (cm/s)= v/n N= độ xốp của đất (%) Av diện tích mặt cắt ngang hữu ích của dòng (diện tích lỗ xốp m2) Tuy nhiên đất mỗi nơi đều có thành phần và cấu trúc khác nhau, điều này sẽ dẫn đến tố độ thấm khác nhau. Để đánh giá khả năng dẫn nước của đất, người ta sử dụng giá trị độ dẫn nước (transmissivity) của đất để đánh giá K= hệ số thấm (cm/s) t= độ dày của tầng nước (cm) Cơ chế lan truyền chất ô nhiễm trong đất Chất ô nhiễm trong đất tồn tại ở rất nhiều dạng (hay pha) khác nhau tùy theo bản chất lý hóa của chất ô nhiễm. Chất ô nhiễm có thể hòa tan trong nước ngầm, tuy nhiên xét theo phương diện hẹp, quá trình này liên quan trực tiếp đến kích thước hạt và độ xốp của đất. Khi dịch chuyển trong đất, chất ô nhiễm (hay nói cách khác là dòng chứa ô nhiễm) không đi xuyên qua các hạt đất mà đi qua các khoảng trống trong đất như hình sau: Sơ đồ cơ chế phân tán cơ học Khi chảy qua khoảng trống của các hạt đất, dòng chảy sẽ liên tục đổi hướng, phân dòng dẫn đến việc dòng được khuấy trộn thủy lực. Trường hợp này được gọi là phân tán cơ học hay phân tán thủy lực. Hệ qủa của việc này sẽ dẫn đến phạm vi ảnh hưởng cũng như nồng độ của chất ô nhiễm khác nhau trong đất. Nếu nguồn ô nhiễm là nguồn điểm, dưới tác động của dòng chảy, sự phân tán cơ học, thể tích (hay phạm vi ảnh hưởng) của chất ô nhiễm sẽ lớn lên do sự hòa tan và nước trong đất, theo thời gian chất ô nhiễm sẽ bị pha loãng. Nếu nguồn ô nhiễm là nguồn liên tục, dưới tác động của dòng chảy và cơ chế phân tán cơ học, chất ô nhiễm sẽ lan rộng theo hướng dòng chảy và cũng được pha loãng theo thời gian như trong nguồn điểm. Sơ đồ lan truyền của chất ô nhiễm trong trường hợp nguồn điểm và nguồn liên tục cho trong hình Sơ đồ phân tán của chất ô nhiễm trong trường hợp nguồn liên tục Sơ đồ phân tán của chất ô nhiễm trong trường nguồn điểm Về cơ bản, quá trình lan truyền của chất ô nhiễm hòa tan được biểu diễn như trên, tuy nhiên trong thực tế có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự lan truyền bao gồm cả các yếu tố vật lý, hóa học và sinh học của đất cũng như bản chất hóa học vật lý của chất thải. Một số quá trình trong tự nhiên ảnh hưởng đến sự lan truyền của chất ô nhiễm được cho như sau Bảng 4: các quá trình tự nhiên tác động đến sự lan truyền của chất ô nhiễm Loại quá trình Quá trình tác động Quá trình vật lý (cơ học) Phân tán, khuếch tán, cấu trúc địa tầng Quá trình hóa học Phản ứng oxy hóa-khử, trao đổi ion, phức hóa, kết tủa/hòa tan, sự phân tầng do khả năng hòa tan của chất ô nhiễm, hấp phụ, thủy phân Quá trình sinh học Quá trình hiếu khí, quá trình kỵ khí, hấp thụ của sinh vật Sự phân bố của cấu trúc địa tần sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố của đường lan truyền, rộng hay hẹp đổi khi làm hình thành dòng chảy trong các vết gãy địa tầng. Đối với chất không hòa tan hay ít hòa tan vào nước, trong đất nó có thể hình thành vùng lắng đọng hay các lớp váng trong tầng nước ngầm như sơ đồ sau Sự tích lũy và phân hủy của CTNH trong đất Trong đất luôn tồn tại khí – nước – vô cơ/ hữu cơ nên có khả năng làm chậm lại quá trình lan truyền của chất ô nhiễm hay tăng khả năng lan truyền cũng như giảm (hay biến đổi) nồng độ của chất ô nhiễm. Bảng 5: các quá trình tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình tích lũy – phân hủy của chất ô nhiễm Quá trình Loại chất ô nhiễm Tác động Hấp phụ Chất hữu cơ/ vô cơ Tích lũy làm chậm quá trình lan truyền Kết tủa Chất vô cơ Tích lũy làm chậm quá trình lan truyền Trao đổi ion Chất vô cơ Tích lũy làm chậm quá trình lan truyền Lọc Chất hữu cơ/ vô cơ Tích lũy làm chậm quá trình lan truyền Oxy hóa – khử Chất hữu cơ/ vô cơ Biến đổi/Tích lũy làm chậm quá trình lan truyền Hấp thụ sinh học Chất hữu cơ/ vô cơ Tích lũy làm chậm quá trình lan truyền Phân hủy sinh học Chất hữu cơ Biến đổi giảm độc tính hay nồng độ chất ô nhiễm Thủy phân Chất hữu cơ Biến đổi giảm độc tính hay nồng độ chất ô nhiễm Hóa hơi Chất hữu cơ Biến đổi pha (tiếp tục tích lũy trong đất hay giải phóng ra khí quyển) Hòa tan Chất hữu cơ/ vô cơ Tích lũy năng động (tăng khả năng lan truyền) Đồng dung môi Chất hữu cơ Tích lũy năng động (tăng khả năng lan truyền) Phân ly (ion hóa) Chất hữu cơ Tích lũy năng động (tăng khả năng lan truyền) Phức hóa Chất vô cơ Tích lũy làm chậm quá trình lan truyền Sự lan truyền trong ô nhiễm không khí Chất ô nhiễm khí thải vào khí quyển, chúng sẽ lan truyền và phát tán chúng ngoài không khí phụ thuộc rất nhiều vào gió, đặc tính của môi trường không khí, địa hình khu vực bản chất ô nhiễm và nguồn phát thải. Nguồn phát thải vào không khí bao gồm hai nguồn chính từ các ống khói và từ ao hồ thiết bị. Trong đó khí thải từ các ống khói kiểm soát dễ dàng hơn. Nồng độ chất ô nhiễm theo chiều của hướng gió ở chiều cao H trên mặt đất có thể đươc ước tính theo phân bố Gaus như sau Q= lưu lượng thải chất ô nhiễm (mg/s) C= nồng độ chất ô nhiễm tại vị trí (x,y,z) đang xét (mg/m3) U= tốc độ gió trung bình (m/s) = hệ số khuếch tán (m) H= chiều cao nguồn (m) Z= tổng chiều cao nguồn và chiều cao luồng khói (m) Bên cạnh sự phát tán theo gió, chất ô nhiễm còn sa lắng theo chiều phát tán dưới tác dụng của trọng lực, mưa… Chương III. SỰ CỐ, NGUY CƠ TIẾP XÚC VỚI CTNH Chứng bệnh Minamata Chứng bệnh Minamata là sự rối loạn hệ thần kinh mãn tính gây bởi chất Metyl thủy ngân. Căn bệnh này lần đầu tiên phát sinh ở vùng xung quanh vịnh Minamata, ở Tây Nam Nhật Bản và được chính phủ Nhật Bản chính thức xem Metyl thủy ngân gây ra vào năm 1968. Công ty Chisso đã sử dụng oxit thủy ngân trong việc sản xuất exetandehid và oxit thủy ngân cũng như Metyl được thải ra nguồn nước thải của nhà máy. Metyl thủy ngân được tích lỹlại ở cá tôm, cua, sò hến sau đó chim động vật và con người ở quanh vịnh Minamata lại ăn phải chúng. Triệu chứng về sự nhiễm độc metyl thủy ngân là sự tiết nước bọt, bị choáng và chứng co giật. Những phụ nữ mang thai nhiễm thủy ngân có thể có thể họ không bị nhiễm độc nhưng những đứa trẻ con họ thì mắc phải chứng liệt não và kém phát triển trí tuệ trầm trọng. Những phụ nữ khác mất khả năng sinh sản, sẫy thai… tổng số bệnh nhân mắc bệnh tính đến tháng 3/1990 là 2248 người trong số đó 1004 người chết. Cho đến ngày 30/4/1997, số người trong hai tỉnh Kumamoto và Kagoshima chứng nhận là đã mắc bệnh Minamata lên tới 17 ngàn người. Trong đó có 2.265 (trong đó 1.484 người đã qua đời cho đến 31/1/2003) đã được chính phủ công nhận. 10.625 người sau khi được chứng nhận là bệnh nhân Minamata đã được Chính phủ bồi thường. Như vậy, theo Chính phủ Nhật thì có tổng cộng 12.890 người đã mắc bệnh cho đến nay. Tuy nhiên có một số đã chết trước khi căn bệnh này được chính thức khám phá, và nhiều người chưa kịp nộp đơn xin chứng nhận thì đã chết. Nhiều người thì không nộp đơn vì nhiều lý do, chính vì vậy mà không thể có được một số liệu chính xác về những bệnh nhân Minamata. Nguyên nhân dẫn đến tử vong của các bệnh nhân mắc phải căn bệnh Minamata rất khác nhau. Công ty Chisso đã tiến hành cải tạo nạo vét các khu vục dưới lòng vịnh Minamata ở những nơi mà hiện tượng thủy ngân vược quá mức cho phép chi phí lên đến 47900 tỷ yên. Vụ mây khí độc ở Bhopal Rạng sáng 3/12/1984 một đám mây khí độc phát thải ra từ nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu tại Bhopal, Trung Ấn Độ. Đêm 2-3 tháng 12 năm 1984, một lượng lớn nước được đưa vào thùng chứa 610, đang chứa 42 tấn Methyl isocyanate. Phản ứng tỏa nhiệt xảy ra làm nhiệt độ bên trong thùng chứa tăng lên vượt 200 °C (392 °F), áp suất tăng lên vượt quá mức mà thùng chứa được thiết kế để có thể chịu được. Nó gây ra sự thoát khẩn cấp để giảm áp xuất thùng chứa MIC, thải ra một lượng lớn các khí ga độc vào không khí. Tốc độ phản ứng tăng lên bởi sự xuất hiện của thép trong những đường ống làm bằng thép không rỉ đang bị ăn mòn. Một hỗn hợp các khí ga độc tràn ra thành phố Bhopal, gây ra sư hoảng loạn khi mọi người thức dậy với cảm giác cháy trong phổi. Dởi ảnh hưởng của khí gas, hàng ngàn người chết ngay sau đó và rất nhiều người phải chịu đau đớn trong sự hoảng loạn. Ngoài MIC, khí ga còn có thể chứa Phosgene COCl2, Hidro Xianua HCN, Mônôxít cacbon CO, clorua hiđrô HCl, các Ôxít nitơ, ethylamine và khí Cacbon điôxít, sinh ra trong bình chứa hoặc ngoài không khí. khí gas là hỗn hợp chủ yếu của những chất nặng hơn không khí, chúng là là mặt đất và lan rộng ra cộng đồng dân cư xung quanh. Những tác động ban đầu bao gồm ho, nôn mửa, tấy mắt nghiêm trọng, cảm giác khó thở. Những người bị đánh thức bởi các triệu chứng trên tìm cách tránh xa nhà máy. Phần lớn họ vừa chạy vừa thở, một số sử dụng xe. Trẻ em và những người vóc dáng nhỏ hít phải khí ga nồng độ đậm đặc hơn. Nhiều người bị dẫm đạp khi chạy trốn. Tính đến sáng hôm đó, hàng ngàn người đã chết. 170,000 người được điều trị tại bệnh viện và phòng khám dã chiến. 2,000 con trâu, dê và các loại động vật khác đã được thu gom và đem chôn. Chỉ trong vài ngày, lá cây úa vàng và rụng. Các nguồn cung cấp, đặc biệt là thức ăn, trở nên khan hiếm bởi nỗi lo an toàn của những người cung cấp. Đánh cá cũng bị cấm, làm cho sự thiếu hụt nguồn cung trầm trọng hơn. Tổng cộng có 36 khu vực được nhà chức trách đánh dấu là 'chịu ảnh hưởng khí ga" với số dân 520,000 người. Trong số đó, 200,000 người dưới 15 tuổi, 3,000 phụ nữ mang thai. Năm 1991, 3,928 cái chết đã được xác nhận. Những tổ chức độc lập ghi nhận có 8,000 người chết trong ngày đầu tiên. Một số khác ước tính từ 10,000 đến 30,000. Khoảng 100,000 đến 200,000 người khác đã chịu những tổn thương vĩnh viễn ở các mức độ khác nhau. Vụ cháy ở Sandoz Xảy ra vào ngày 1/11/1986 nó đã được mô tả như một “Chernobasie” hay một Bhopal của sông Ranh. Một sự hỏng hóc về điện bị gây bởi sự gặm nhấm của động vật trên hệ thống dây điện ở kho 9 trong hệ thống kho bãi Muttenz của công ty hóa chất Sandoz cách trung tâm Basle vài dặm đã gây ra sự bắt lửa và đã biến thành một đám cháy lớn. Nhà kho này chúa 1.246 tấn hóa chất, chủ yếu là thuốc diệt côn trùng. Mặc dù ngôi nhà đã tuân theo những quy định về an toàn của chính phủ Thụy Sỹ. Nhưng trang bị của tòa nhà đã không hề có cảm ứng nhiệt, hệ thống nước cứu hỏa tự động hoặc các kênh ngăn chặn nhằm ngăn chặn kịp thời khi có sự rò rĩ tiềm tàn của các hóa chất độc hại. Đội cứu hỏa đã sử dụng một khối lượng lớn nước để dập lửa, nhưng thật không may lượng nước này đã đổ vào sông Ranh lân cận mang theo 30 tấn hóa chất diệt cỏ, diệt côn trùng và nhiều hợp chất chứa thủy ngân. Nó đã tạo nên một vết loang dài 30 dặm, vết loang này sau đó tràn xuống sông Ranh giết chết hàng trăm nghìn con cá, lươn và gây nên sự lo ngại về vấn đề cấp nước sinh hoạt cho thị trấn ven sông. Hai trăm dặm phía thượng nguồn sông Ranh đã mất hoàn toàn hệ sinh vật dưới nước và không thể nào nói trước được nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxSự cố nguy cơ tiếp xúc với chất thải nguy hại.docx
Tài liệu liên quan