Sáng kiến kinh nghiệm Quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường THCS huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên

Hàng năm, trước khi bắt đầu năm học mới, hiệu trưởng các trường THCS đều có sự rà soát lại các điều kiện CSVC, trang TBDH của trường để có kế hoạch mua sắm, sửa chữa đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập. Để đáp ứng đúng nhu cầu của giáo viên, các trường thường để giáo viên tự kê khai những TBDH thiếu hoặc bị hỏng ở môn mình dạy, những sách giáo khoa và tài liệu tham khảo cần thiết cho từng giáo viên, từng môn. Căn cứ vào đó, nhà trường lập kế hoạch mua sắm, sửa chữa và dự trù kinh phí cần thiết. Các trường đã sử dụng tối đa nguồn ngân sách cho phép để mua sắm, sửa chữa TBDH, tài liệu tham khảo, CSVC.Vì nguồn kinh phí Nhà nước cấp rất eo hẹp, nên hầu hết các nhà trường đã huy động sự ủng hộ từ chính quyền địa phương, từ các nhà hảo tâm, các tổ chức, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn và từ phụ huynh học sinh để có thể đáp ứng được nhu cầu trước mắt là đảm bảo điều kiện dạy học và lâu dài là xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Với cách làm này, nhiều trường đã tự trang bị được phòng Tin học để phục vụ giảng dạy. Việc xây thêm các phòng học và các phòng bộ môn cũng tăng dần theo từng năm học, hệ thống các phòng học cấp 4 đã dần dần được xoá bỏ để thay thế vào đó các phòng học kiên cố . Các nhà trường còn phát động giáo viên tự làm thêm đồ dùng dạy học và duy trì việc tổ chức thi đồ dùng dạy học tự làm ở cấp trường hàng năm theo chỉ đạo của Phòng GD&ĐT.

doc94 trang | Chia sẻ: binhan19 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường THCS huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
soạn bài trước một tuần và ký duyệt giáo án hàng tuần được thực hiện nghiêm túc. Kết quả kiểm tra giáo án được lưu trên sổ theo dõi riêng của ban giám hiệu và tổ trưởng chuyên môn. Mỗi lần kiểm tra đều kèm theo đánh giá xếp loại về chất lượng giáo án và lời nhận xét để giáo viên điều chỉnh. Thực trạng việc soạn bài lên lớp của giáo viên ở các trường đã thực hiện nghiêm túc: Soạn bài đầy đủ trước một tuần khi lên lớp, các bài soạn đều theo hướng đổi mới phương pháp giảng dạy và phù hợp yêu cầu của chương trình, sách giáo khoa. Các bài soạn có đủ các bước lên lớp, thể hiện được các hoạt của thầy và trò, phù hợp với nội dung bài học và khả năng tư duy của học sinh, có phương án hướng dẫn học sinh tự đọc, tự học, tự tìm hiểu chủ động tiếp thu kiến thức. Các bài soạn của giáo viên đều bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng qui định của chương trình, không tự ý cắt xén nội dung bài dạy, tăng cường sử dụng thiết bị, phát huy trí thông minh sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên việc soạn bài lên lớp của giáo viên còn một số hạn chế nhất định: Hệ thống câu hỏi chưa lô gíc, chưa thật sự sát đối tượng học sinh, chưa thể hiện đổi mới phương pháp giảng dạy; một số giáo án soạn quá dài, tham kiến thức chưa có nội dung củng cố từng phần, chốt vấn đề làm nổi bật trọng tâm của bài giảng 2.3.2.3. Quản lý việc thực hiện kế hoạch, chương trình giảng dạy của GV. Thông qua việc tìm hiểu thực hiện chương trình kế hoạch giảng dạy của giáo viên ở các trường THCS, cho thấy: - GV bộ môn ở các nhà trường đã nghiêm túc thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy, không có hiện tượng cắt xén, dồn ép chương trình giảng dạy. - Qua theo dõi hệ thống hồ sơ quản lý việc thực hiện kế hoạch bài dạy của giáo viên gồm: thời khóa biểu, sổ báo giảng, sổ đầu bài, vở ghi học sinh với giáo án của GV bộ môn đã chứng tỏ việc thực hiện chương trình kế hoạch giảng dạy khá phù hợp với kết quả đánh giá của các cấp quản lý giáo dục. - Hồ sơ theo dõi dạy thay, kiểm tra việc thực hiện chương trình của giáo viên được các nhà trường lưu giữ đầy đủ. Bảng 2.11: Kết quả thực hiện chương trình kế hoạch giảng dạy của giáo viên theo đánh giá của thanh tra Phòng GD-ĐT Trường Bộ môn Chu Mạnh Trinh Tân Tiến Phụng Công Thắng Lợi Toán Tốt Tốt Khá Tốt Vật lý Tốt Khá TB Khá Khá Hóa học Tốt Tốt Khá Tốt Sinh học Khá TB Khá Khá Khá Công nghệ Tốt Khá Khá Tốt Thể dục Tốt Tốt Khá Khá Ngữ văn Tốt Khá Khá Khá Lịch sử Tốt Tốt Khá Tốt Địa lý Khá Khá Tốt Khá GDCD Khá Tốt Khá TB Khá Ngoại ngữ Tốt Khá Tốt TB Khá Âm nhạc Khá Tốt Khá Tốt Mỹ thuật Tốt Tốt Khá Tốt Bên cạnh những việc đã làm được, công tác quản lý việc thực hiện kế hoạch bài dạy của giáo viên vẫn còn những tồn tại, như sau: - Một số trường chưa thường xuyên kiểm tra tiến độ thực hiện chương trình, chưa rà soát, nắm bắt kịp thời những môn chậm chương trình vì vậy để dồn vào cuối kỳ, cuối năm dạy bù rất vất vả. - Việc phân công dạy thay khi giáo viên nghỉ ốm hoặc đi công tác nhiều khi mới chỉ là “lấp chỗ trống”, tức là giáo viên dạy thay chỉ quản lớp chứ không dạy được nên dẫn đến việc chậm chương trình hoặc sau đó giáo viên phải dạy dồn tiết để bù. 2.3.2.4. Quản lý việc đổi mới phương pháp giảng dạy, sử dụng phương tiện dạy học của giáo viên. + Về phương pháp dạy học: Hiệu trưởng các trường THCS thông qua tổ nhóm chuyên môn đã quán triệt đầy đủ cho giáo viên về định hướng đổi mới PPDH. Tổ chức cho giáo viên học tập, bồi dưỡng nắm vững về các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực. Tổ chức các chuyên đề về PPDH, phân công giáo viên cốt cán dạy minh họa ở các tổ chuyên môn để các giáo viên khác học tập. Đưa việc đổi mới phương pháp thành một tiêu chí thi đua để đánh giá tổ, nhóm chuyên môn và mỗi giáo viên. Thực tế thực hiện ở các trường cho thấy hầu hết các đồng chí giáo viên đã căn cứ vào điều kiện thiết bị hiện có, bám sát vào yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng, nội dung sách giáo khoa để vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học phù hợp với bộ môn và nội dung chương trình, sách giáo khoa nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tư học của học sinh. Đa số giáo viên đã đổi mới cách dạy, có ý thức khai thác các thiết bị và đồ dùng dạy học đối với các môn học có thí nghiệm, thực hành đã qui định trong chương trình. Tuy vậy, việc sử dụng PPDH vẫn còn nhiều hạn chế, đó là: - Còn một bộ phận không nhỏ giáo viên không theo kịp các yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, không có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học do tuổi đã cao lại quá quen với lối dạy truyền thống. - Một số giáo viên khác lại do ý thức chưa tập trung cao cho chuyên môn, chưa chú ý tự học tập bồi dưỡng nên hiểu và thực hiện một cách hời hợt, hình thức, đối phó chưa mang lại hiệu quả thực sự. - Điều kiện CSVC, TBDH, thiết bị CNTT của các trường chưa đáp ứng đủ yêu cầu sử dụng của giáo viên. - Công tác quản lý HĐDH chưa thật hiệu quả. + Về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học: Các biện pháp quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin của Hiệu trưởng trong dạy học thông các phương thức chủ yếu: - Tiết kiệm chi phí để mua sắm thiết bị thông tin tối thiểu, khai thác và sử dụng Internet phục vụ cho công tác dạy học, khuyến khích giáo viên sử dụng các phần mềm dạy học ở các bộ môn đặc biệt là các bộ môn có thí nghiệm thực hành như: Hóa học, Sinh học, Vật lý. - Tổ chức tập huấn cho toàn thể giáo viên về Tin học căn bản, cách sử dụng các phần mềm dạy học, quan niệm và cách thiết kế bài giảng tử, cách sử dụng các TBDH - Khuyến khích cán bộ giáo viên tự bồi dưỡng kiến thức tin học, mua sắm và sử dụng thành thạo máy vi tính phục vụ cho việc soạn bài, truy cập Internet thu thập tài liệu bổ sung vào nội dung bài giảng, khai thác các ngân hàng đề thi trên mạng, có ý thức tích lũy tư liệu giảng dạy của cá nhân và thường xuyên giao lưu trao đổi với đồng nghiệp. Về kết quả thực hiện của giáo viên trên thực tế của các trường THCS, cho thấy: Đa số giáo viên nhận thức rõ tác dụng, sự cần thiết của việc ứng dụng CNTT vào dạy học và có ý thức học hỏi nghiên cứu để nắm bắt sử dụng. Hầu hết, các giáo viên trẻ đã sử dụng thành thạo máy tính với các phần mềm thông dụng bằng trang thiết bị tự có của mình. Việc khai thác, sử dụng, tự tích lũy, giao lưu trao đổi tài liệu dạy học qua mạng thực sự tích cực, hiệu quả. Các nhà trường đã đưa ra chỉ tiêu phấn đấu mỗi giáo viên có ít nhất 2 bài giảng điện tử trong năm học vào các đợt hội giảng cấp trường và đã thực hiện đảm bảo chỉ tiêu trên. Một số giáo viên có tuổi đã rất cố gắng để tiếp cận, sử dụng CNTT vào dạy học. Việc sử dụng CNTT vào dạy học đã thực sự làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên kết quả thực hiện còn nhiều hạn chế: - Trang thiết bị CNTT của mỗi trường còn quá ít so với nhu cầu sử dụng (mỗi trường chỉ có từ 1 đến 3 máy chiếu projetor) nên mỗi khi hội giảng hoặc có đoàn thanh tra các đ/c giáo viên phải đi mượn trường khác để sử dụng rất vất vả, do đó việc sử dụng thường xuyên bị hạn chế. - Do quan niệm và cách hiểu chưa đầy đủ ở một bộ phận giáo viên nên việc áp dụng CNTT chạy theo hình thức dẫn đến lạm dụng trình chiếu hạn chế việc rèn kỹ năng kỹ xảo hoặc còn sao chép bài giảng một cách vội vã dẫn đến sai sót về kiến thức, chưa phù hợp với đối tượng. + Về hội giảng, hội học: Giáo viên và học sinh ở các nhà trường THCS đều coi hội học, hội giảng là động lực để động viên khích lệ phong trào dạy tốt học tốt là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên trong năm học. Ở huyện Văn Giang, các thầy cô giáo và học sinh tham gia hội giảng vào 2 đợt trong năm nhân dịp các ngày kỷ niệm: Đợt I từ 15/10 -20/11; đợt II từ 3/2-26/3. Trong mỗi đợt hội giảng các thầy cô giáo đều chọn các bài khó để dạy, từ đó rút kinh nghiệm trong tổ nhóm chuyên môn, chọn ra các giờ dạy tốt tham gia hội thi GV dạy giỏi cấp huyện hàng năm do Phòng GD-ĐT tổ chức. + Về sử dụng thiết bị thí nghiệm, tự làm đồ dùng dạy học của giáo viên: Ở các trường THCS huyện Văn Giang, việc sử dụng thiết bị đồ dùng, thí nghiệm của giáo viên trong giờ lên lớp có nhiều ưu điểm: - Hệ thống sổ sách đăng kí sử dụng thiết bị đồ dùng, thí nghiệm được ghi chép rõ ràng, phân kì việc sử dụng theo tuần, tháng và kì học. - Mỗi giáo viên đều phải lập kế hoạch sử dụng TBDH cho từng môn dạy theo từng tháng, tuần và cả năm học ngay từ đầu năm. Kế hoạch này được lưu ở ban giám hiệu (để kiểm tra) và nhân viên thiết bị (để hỗ trợ giáo viên chuẩn bị theo kế hoạch). - Giáo viên bộ môn đã khai thác khá đầy đủ thiết bị đồ dùng hiện có kết hợp với thiết bị đồ dùng tự làm của giáo viên và học sinh. - Giáo viên sử dụng thiết bị đồ dùng, thí nghiệm trên giờ lên lớp đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng bài giảng, gây hứng thú, phát huy trí lực của học sinh. Tuy nhiên thực trạng sử dụng thiết bị đồ dùng thí nghiệm ở các trường còn có nhiều hạn chế đáng lo ngại, ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng giáo dục, đến việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy trí thông minh sáng tạo của học sinh, đó là do: Sử dụng thiết bị đồ dùng thí nghiệm của giáo viên chủ yếu là các thí nghiệm chứng minh giờ học trên lớp. Học sinh được tham gia làm thí nghiệm trên phòng thực hành bộ môn còn ít do điều kiện CSVC, phòng thực hành, phòng học bộ môn của các nhà trường không đủ đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Do tâm lý giáo viên ngại vất vả khi phải chuẩn bị cho một giờ thực hành, sợ không thành công khi thực hiệnnên nhiều giờ có đủ điều kiện thực hiện giáo viên vẫn “dạy chay”.Thông qua tìm hiểu, phỏng vấn CBGV và học sinh ở các trường, chúng tôi thu nhận được kết quả đánh giá việc sử dụng thiết bị đồ dùng thí nghiệm của GV như sau: Bảng 2.12: Đánh giá thực trạng sử dụng thiết bị dạy học. TT Thực trạng sử dụng thiết bị đồ dùng thí nghiệm của giáo viên Chu Mạnh Trinh Tân Tiến Phụng Công Thắng Lợi 1 Việc lập kế hoạch sử dụng thiết bị của giáo viên Tốt Khá Tốt Khá 2 Sổ sách theo dõi sử dụng thiết bị đồ dùng thí nghiệm dạy học của nhà trường. Tốt Khá Khá Khá 3 Đồ dùng dạy học tự làm của giáo viên và học sinh Khá Khá Khá Khá 4 Sử dụng thiết bị đồ dùng thí nghiệm dạy học của giáo viên trên lớp Khá Khá Khá TB 5 Tỷ lệ học sinh được sử dụng thiết bị đồ dùng thí nghiệm trong các giờ thực hành 60% 55% 70% 45% 2.3.2.5. Quản lý hoạt động kiểm tra- đánh giá kết quả học tập của HS. Hiệu trưởng cùng với ban giám hiệu thông qua các tổ trưởng chuyên môn thống nhất tới giáo viên bộ môn các quy định về nội dung, hình thức, quy trình biên soạn đề kiểm tra Quy định cho giáo viên thời hạn chấm trả bài sau một tuần đối với các bài kiểm tra thường xuyên và sau hai tuần đối với các bài kiểm tra định kỳ có trong phân phối chương trình. Cách ra đề kiểm tra hướng người học phải hiểu bài, biết vận dụng kiến thức, hạn chế ghi nhớ máy móc, loại bỏ hiện tượng quay cóp, gian lận khi học sinh làm bài kiểm tra. Việc chấm bài cho điểm của giáo viên chính xác, khoa học có tác dụng thiết thực giúp đỡ học sinh học tập, có tác dụng giáo dục. Đối với các bài kiểm tra có yếu tố tự luận, bài kiểm tra định kỳ theo phân phối chương trình nhất thiết phải có lời phê ưu điểm, nhược điểm của học sinh về kiến thức, kỹ năng vận dụng, cách trình bày và chữ viết đối với học sinh. Hiệu trưởng các trường đều coi việc đánh giá chất lượng học sinh là một biện pháp giáo dục quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Việc thực hiện ở các trường THCS có những ưu điểm sau: - Việc thực hiện kế hoạch kiểm tra, thời hạn trả bài, quy định về cách chấm, chữa, ghi lời phê đa số giáo viên thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. - Hình thức, nội dung đề kiểm tra đã bám sát yêu cầu đổi mới. - Việc tổ chức coi chấm bài đã ngày càng đi vào nền nếp, đảm bảo công bằng, khách quan và kỷ cương trường học. Bên cạnh đó, việc kiểm tra đánh giá học sinh còn nhiều hạn chế, đó là: - Một số giáo viên có tuổi khó khăn trong việc nắm bắt, vận dụng quy trình và kỹ thuật biên soạn đề kiểm tra, không biết sử dụng máy vi tính nên hiệu quả thực hiện thấp. - Chất lượng nhiều đề kiểm tra chưa cao: đề chưa bao quát kiến thức, chưa phân hóa được học sinh, chưa cân đối giữa các mức độ nhận thức thậm chí còn sai sót về kiến thức, ra đề vào phần đã được cắt bỏ - Giáo viên các môn xã hội còn ngại ra đề với các câu hỏi mở đòi hỏi học sinh phải vận dụng tổng hợp kiến thức kỹ năng, phải biểu đạt chính kiến của bản thân mình vì sợ mất nhiều thời gian công sức. - Ở một số trường biên chế học sinh vào lớp hơi đông nên khó đảm bảo tính nghiêm túc trong khi làm bài. 2.3.2.6. Quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên. Các nhà trường THCS trong huyện rât chú trọng công tác bồi dưỡng giáo viên, coi đó là động lực để nâng cao chất lượng dạy học. Vào trước mỗi năm học, các trường đều lập kế hoạch bồi dưỡng giáo viên gồm bồi dưỡng thường xuyên (theo chu kỳ, nâng chuẩn), bồi dưỡng tại chỗ (thông qua sinh hoạt chuyên môn, tổ chức các chuyên đề, hội thảo), hoạt động nghiên cứu khoa học, viết sáng kiến kinh nghiệmĐồng thời, khuyến khích giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về giảng dạy. Kết quả thực hiện có nhiều ưu điểm: + Các nhà trường quan tâm tạo điều kiện việc bồi dưỡng nâng chuẩn cho giáo viên, tỷ lệ giáo viên trên chuẩn tăng dần qua các năm. + Việc triển khai các nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn, tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên, tổ chức thảo luận khá thường xuyên tích cực đã giải quyết kịp thời các khó khăn trong giảng dạy ở mỗi đơn vị. + Phong trào viết và phổ biến các kinh nghiệm sáng kiến, báo cáo chuyên đề của giáo viên được thực hiện rất nền nếp.Theo quy định của các nhà trường, mỗi giáo viên có một sáng kiến kinh nghiệm trong năm học, các trường đánh giá xếp loại nghiêm túc. Các kinh nghiệm có giá trị được báo cáo trước toàn tổ và được gửi lên cấp trên để xếp loại. + Đa số giáo viên nhất là GV trẻ có ý thức học hỏi đồng nghiệp qua dự giờ thăm lớp. Đồng thời cũng rất tích cực tự đọc, tự nghiên cứu, tự tìm kiếm thông tin qua mạng Internet để phục vụ cho chuyên môn của mình. Đây chính là hoạt động bồi dưỡng quan trọng nhất để nâng cao trình độ, năng lực GV. + Việc bồi dưỡng giáo viên đặc biệt là giáo viên trẻ trở thành giáo viên dạy giỏi cấp huyện và cấp tỉnh được các nhà trường rất quan tâm vì đó là tiêu chí để đánh giá thi đua các nhà trường. Các giáo viên đăng ký dự thi giáo dạy giỏi cấp huyện được tổ chuyên môn tập trung góp ý xây dựng bài, được tạo điều kiện tối đa về các TBDHKết quả cho thấy trường nào tổ chuyên môn tập trung hỗ trợ giáo viên dự thi trong quá trình chuẩn bị thì trường đó có kết quả tốt. Tuy vậy, công tác bồi dưỡng phát triển đội ngũ vẫn còn những hạn chế, đó là: + Ở một số trường, lực lượng giáo viên trẻ nhiều lại thường xuyên luân chuyển (như trường THCS Thắng Lợi) nên thiếu những giáo viên vững vàng về chuyên môn, là hạt nhân của phong trào dẫn đến chưa tạo ra môi trường thuận lợi để giáo viên giao lưu trao đổi chuyên môn. + Các chuyên đề được tổ chức ở cấp trường chất lượng chưa cao, do khả năng của giáo viên có hạn, do các trường chưa động viên xứng đáng, chưa huy động sức mạnh tập thể cùng tham gia. + Một số trường còn học 2 ca dẫn đến thời gian tổ chức hoạt động bồi dưỡng rất eo hẹp, hầu như không có. + Một bộ phận giáo viên trong đó có cả giáo viên trẻ có tâm lý ỷ lại, không có ý thức phấn tự học tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề. + Lãnh đạo một số trường chưa tạo được không khí thi đua, động lực phấn đấu nâng cao tay nghề trong đội ngũ. 2.3.2.7. Quản lý hoạt động tổ nhóm chuyên môn. Tổ chuyên môn là một bộ phận cấu thành của nhà trường, là một đầu mối quản lý mà hiệu trưởng nhất thiết phải dựa vào đó để quản lý nhà trường trên nhiều phương diện, nhưng cơ bản nhất là HĐDH. Sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn là một hình thức hoạt động chuyên môn giúp nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên có hiệu quả. Theo quy định, tổ chuyên môn sinh hoạt ít nhất 2 kỳ/ tháng trong đó sinh hoạt nhóm chuyên môn được quan tâm đặc biệt: Ngoài việc kiểm điểm việc thực hiện quy chế chuyên môn, giáo viên bộ môn trong nhóm trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ giảng dạy, thống nhất nội dung và phương pháp dạy các tiết trong tuần, xác định trọng tâm bài dạy, tổ chức rút kinh nghiệm các tiết thao giảng... Đặc biệt là tổ chuyên môn phải lập kế hoạch và thực hiện các chuyên đề trong suốt năm học để tháo gỡ, thống nhất các vấn đề mới, các vấn đề khó thường gặp trong quá trình giảng dạy các bộ môn. Thông qua tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, Hiệu trưởng quản lý thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy, công tác soạn giảng, kiểm tra đánh giá xếp loại học sinh, đổi mới phương pháp dạy học, đánh giá cho điểm học sinh, thao giảng xếp loại tay nghề GV. Ở các trường THCS thuộc huyện Văn Giang, nền nếp hoạt động tổ chuyên môn được duy trì khá tốt, thực sự có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học. Thực tế cho thấy, ở đơn vị nào cơ cấu được đội ngũ tổ trưởng chuyên môn có năng lực, duy trì nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ, thường xuyên tổ chức chuyên đề thì ở đó có chất lượng dạy học, có đội ngũ giáo viên dạy giỏi, HSG tương xứng. Mặc dù vậy, hoạt động tổ chuyên môn vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là: - Thời gian sinh hoạt tổ đặc biệt là nhóm chuyên môn còn eo hẹp vì một số trường phải học 2 ca hoặc trùng với nhiều hoạt động khác trong nhà trường. - Năng lực của một số tổ trưởng, tổ phó còn hạn chế chưa phát huy hết vai trò tác dụng trong công tác. - Công tác quản lý HĐDH của hiệu trưởng chưa tạo điều kiện, chưa động viên được tổ chuyên môn thực hiện hết chức năng nhiệm vụ đặc biệt là việc giúp hiệu trưởng quản lý nâng cao chất lượng dạy học. 2.3.2.8. Quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học: Hàng năm, trước khi bắt đầu năm học mới, hiệu trưởng các trường THCS đều có sự rà soát lại các điều kiện CSVC, trang TBDH của trường để có kế hoạch mua sắm, sửa chữa đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập. Để đáp ứng đúng nhu cầu của giáo viên, các trường thường để giáo viên tự kê khai những TBDH thiếu hoặc bị hỏng ở môn mình dạy, những sách giáo khoa và tài liệu tham khảo cần thiết cho từng giáo viên, từng môn. Căn cứ vào đó, nhà trường lập kế hoạch mua sắm, sửa chữa và dự trù kinh phí cần thiết. Các trường đã sử dụng tối đa nguồn ngân sách cho phép để mua sắm, sửa chữa TBDH, tài liệu tham khảo, CSVC.Vì nguồn kinh phí Nhà nước cấp rất eo hẹp, nên hầu hết các nhà trường đã huy động sự ủng hộ từ chính quyền địa phương, từ các nhà hảo tâm, các tổ chức, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn và từ phụ huynh học sinh để có thể đáp ứng được nhu cầu trước mắt là đảm bảo điều kiện dạy học và lâu dài là xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Với cách làm này, nhiều trường đã tự trang bị được phòng Tin học để phục vụ giảng dạy. Việc xây thêm các phòng học và các phòng bộ môn cũng tăng dần theo từng năm học, hệ thống các phòng học cấp 4 đã dần dần được xoá bỏ để thay thế vào đó các phòng học kiên cố . Các nhà trường còn phát động giáo viên tự làm thêm đồ dùng dạy học và duy trì việc tổ chức thi đồ dùng dạy học tự làm ở cấp trường hàng năm theo chỉ đạo của Phòng GD&ĐT. Các phòng học, phòng thực hành bộ môn, phòng Tin học, thư viện của nhà trường đã được khai thác, sử dụng thường xuyên. Việc quản lý khai thác, sử dụng CSVC, TBDH vẫn còn những hạn chế, đó là: - Các trường chưa có đủ cán bộ chuyên trách công tác thư viện, thiết bị nên phải phân công giáo viên làm công tác kiêm nhiệm hoặc có cán bộ chuyên trách nhưng nghiệp vụ còn hạn chế nên việc sắp xếp, bảo quản, hướng dẫn, tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng còn chưa tốt. - Công tác quản lý giám sát việc thực hiện của giáo viên chưa sâu sát nên vẫn còn hiện tượng “dạy chay” khi có đủ điều kiện thực hành. - Ở một số trường, công tác tham mưu với chính quyền địa phương và huy động các nguồn lực của xã hội còn chưa tốt nên CSVC chậm được đầu tư nâng cấp. 2.3.3. Thực trạng quản lý hoạt động học của học sinh Hiệu trưởng các trường được điều tra đều quan tâm đến hoạt động học tập của học sinh như quan tâm đến hoạt động dạy của thầy.Thông qua giáo viên đặc biệt là đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp, hiệu trưởng thực hiện việc quản lý hoạt động học tập của học sinh. Các nội dung quản lý hoạt động học tập của học sinh bao gồm: 2.3.3.1.Quản lý hoạt động học tập trên lớp. Hiệu trưởng các trường THCS trong huyện đã xác định rõ tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động học của học sinh trên lớp và có nhiều biện pháp tác động khá hiệu quả. Việc lựa chọn và phân công giáo viên làm công tác chủ nhiệm được các nhà trường quan tâm hàng đầu. Giáo viên làm chủ nhiệm là những giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có kinh nghiệm và phương pháp quản lý học sinh tốt. Kế hoạch chủ nhiệm của mỗi giáo viên được nhà trường duyệt vào đầu năm học, trong đó căn cứ vào kết quả năm trước đã đạt của lớp để xây dựng chỉ tiêu học lực và hạnh kiểm. Hàng tháng lãnh đạo nhà trường họp giao ban với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình các lớp chủ yếu là đạo đức và thái độ học tập. Các trường đều xây dựng nội quy nhà trường, trong đó có nội quy học tập được để tổ chức cho học sinh học tập, thảo luận ngay từ tuần đầu của năm học. Nội quy quy định rõ về: chuyên cần; tinh thần thái độ học tập; tổ chức học tập; chuẩn bị đồ dùng học tập; khen thưởng, kỷ luật việc thực hiện nội quy học tập. Đồng thời, hiệu trưởng các nhà trường cũng đã phát huy tốt vai trò chức năng của tổ chức Đoàn, Đội trong trường học để quản lý giáo dục ý thức học tập cho các em thông qua các hoạt động đội. Việc thực hiện các cuộc vận động và các phong trào thi đua của ngành, đặc biệt là phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được các trường cụ thể hoá bằng những việc làm thiết thực để giáo dục ý thức trong học tập, gắn bó với thầy cô, với trường lớp. Một số trường đã khuyến khích các em đề xuất ý kiến của mình về việc dạy học của các thầy cô trên lớp để qua đó nhà trường điều chỉnh việc phân công giáo viên và đổi mới phương pháp. Trong năm học, các trường THCS đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo trao đổi học hỏi kinh nghiệm giữa giáo viên các trường, giữa các thế hệ giáo viên về phương pháp quản lý học sinh trong giờ học, về công tác chủ nhiệm lớp, về kinh nghiệm xây dựng tập thể lớp thành tập thể tự quản. Việc theo dõi tình hình học tập của các lớp được Ban giám hiệu hết sức quan tâm thông qua nhận xét trên sổ đầu bài của giáo viên bộ môn, qua theo dõi của đội cờ đỏ và qua kiểm tra của ban giám hiệu.Việc đánh giá thi đua các lớp được tiến hành hàng tuần vào buổi chào cờ đầu tuần. Đội TNTP HCM của trường, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn của các trường trực tiếp quản lý nền nếp học tập trên lớp của học sinh, quản lý việc thực hiện 15 phút truy bài đầu giờ. Đội ngũ cán bộ lớp kiểm tra đôn đốc các bạn trong lớp về ý thức học bài cũ, làm bài tập trước khi đến lớp, nhắc nhở tư vấn về phương pháp học tập có hiệu quả cho các bạn cùng lớp. Trong tiết dạy, giáo viên thực hiện nghiêm túc các bước lên lớp: kiểm tra sĩ số học sinh đầu tiết học, kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới ... để giáo dục ý thức tự giác cho học sinh. Những học sinh ý thức học tập chưa tốt, không chú ý học, làm việc riêng, nói chuyện trong giờ được các thầy cô giáo nhắc nhở, động viên và ghi lại trong sổ đầu bài khi cần thiết. Những thông tin này giúp cho giáo viên chủ nhiệm, giúp cho nhà trường có biện pháp điều chỉnh kịp thời công tác quản lý học sinh. 2.3.3.2. Quản lý hoạt động tự học Quản lý hoạt động tự học là khâu góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu giáo dục của các trường THCS. Việc tự học diễn ra không chỉ ở nhà mà ngay cả trong giờ lên lớp. Qua tìm hiểu tôi được biết các trường đã rất quan tâm đến việc quản lý hoạt động tự học của học sinh. Thực hiện phong trào đổi mới phương pháp dạy học, Hiệu trưởng các nhà trường đã chỉ đạo các giáo viên bộ môn hình thành cho học sinh thói quen và phương pháp tự học đối với từng môn. Kết quả việc tự học trên lớp, được thể hiện qua ý thức tham gia xây dựng kiến thức bài học, làm thực hành, thí nghiệm... bằng hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm. Điều này, giáo viên bộ môn sẽ nắm bắt, phản ánh qua sổ đầu bài hoặc trao đổi tực tiếp với giáo viên chủ nhiệm lớp. Kết quả tự học ở nhà được thể hiện bằng việc học bài cũ và làm bài tập trước khi đến lớp. Điều này được ban cán sự lớp nắm bắt trong khi truy bài và việc kiểm tra bài cũ của GV bộ môn trong giờ lên lớp. Trong các cuộc họp phụ huynh, GV chủ nhiệm đã tư vấn cho phụ huynh cách theo dõi, kiểm soát kết quả học tập của con em trên lớp và việc học ở nhà. Song nhìn chung việc phối hợp với cha mẹ học sinh để quản lý việc tự học kết quả chưa cao, vì một số lý do sau: + Một số gia đình chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em, thậm chí không đi họp phụ huynh. Một số khác, tuy có quan tâm nhưng phương pháp chưa hợp lý hoặc không có đủ thời gian để thực hiện. + Một bộ phận học sinh của các trường có kết quả học lực yếu, kém vẫn chưa tự tin khi thực hiện việc học tập ở nhà, các em rất lúng túng trong việc tham khảo tài liệu, tự ti khi nhờ bạn bè. Mặc dù đã có nhiều học sinh quyết tâm và có những hành động cụ thể khắc phục tình trạng học tập yếu kém của mình, song do không có sự chỉ bảo động viên nên hiệu quả chưa cao. Cá biệt còn có những học sinh có hành động đối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSK Quan ly hoat dong day hoc cua Hieu truong truong THCS_12319862.doc
Tài liệu liên quan