Sự cần thiết phải sử dụng đầy đủ , hợp lí lao động nông nghiệp nông thôn

Phần I ; Đặt vấn đề Trang 1

Phần I I; Nội dung của đề tài . Trang 3

 I ; Một số vấn đề lí luận Trang 3

 1; Khai niệm ,vai trò, đặc điểm của LĐ NNN Trang 3

 2; Sự cần thiết của việc sử dụng đầy đủ , hợp lí LĐ . Trang 4

 3; Các nhân tố ảnh hưởng . Trang 5

 II; Khái quát qúa trình sử dụng lao động NNNT . Trang 11

 1; Về số lượng lao động . Trang 11

 2; Thời gian lao động được sử dụng Trang 11

 3; Về chất Lượng lao động . Trang 12

Phần III; Các Biện pháp sử dụng đầy đủ, hợp lí LĐ NNNT Trang 13

 1 ; Các biện pháp chung Trang 13

 2 ; Các biện pháp cụ thể . Trang 13

 2.1; Đa dạng hoá các loại hình kinh tế Trang 13

 2.2; Phân công lao động . Trang 16

 2.3; Đẩy mạnh xuất khẩu lao động . Trang 19

Tài liệu tham khảo . Trang 20

 

doc21 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1081 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự cần thiết phải sử dụng đầy đủ , hợp lí lao động nông nghiệp nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng bình cao và lao động phụ ngoài độ tuổi lao động. Vì số lao động trẻ có trình độ tay nghề đã bị thu hút sang một số ngành khác. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng lao động trong nông nghiệp nông thôn thấp và có xu hướng già hoá. + Lực lượng lao động đông đảo nhưng phân bố không đồng đều giữa các vùng và giữa các khu vực. Lao động chủ yếu tập trung ở hai vùng đồng bằng lớn là Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long. Các vùng miền núi và trung du thì lại rất thưa thớt. 2. Sự cần thiết phải sử dụng đầy đủ , hợp lí lao động nông nghiệp nông thôn Có thể nói là hiện nay chúng ta đang đứng trước một thực tế là lực lượng lao động nông nghiệp đông nhưng không mạnh. Cung về lao động tiếp tục tăng trong những năm tới do sự gia tăng về dân số, trong khi đó quỹ đất sử dụng trong nông nghiệp lại giảm dần do chuyển mục đích sử dụng. Cơ cấu nông nghiệp ít đổi mới , các doanh nghiệp nông nhiệp gặp nhiều khó khăn về thị trường, vốn nên ít có khả năng mở rộng qui mô và chủng loại nên không thu hút được thêm nhiều lao động. Mặt khác cũng do một số lao động mới thành lập có xu hướng hiện đại hoá, tự động hoá nên dùng ít nhân công hơn, đặc biệt là lao động phổ thông điều đó làm cho việc sử dụng lao động nông nghiệp không có hiệu quả sử dụng không đúng người, đúng việc, người lao động không có cơ hội phát huy hết khả năng về sức lực và trí lực của mình đẫn đến lãng phi nguồn lao động và năng suất lao động không cao. Bên cạnh đó vấn đề sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn vẫn chưa thực sự hợp lí trong từng ngành từng bộ phận, thậm trí cả ngay trong từng hộ gia đình. Khi người lao động không có việc làm họ sẵn sàng làm bất kì công việc gì mà họ có thể, không cần biết la họ có thể phát huy được khả năng của mình không miễn là họ co việc làm có thu nhập để đảm bảo cuộc sống của họ. Trong dự thảo báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng phát huy sức mạnh dân tộc, tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chỉ rõ “Đường lối kinh tế của Đảng ta là đây mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước Công nghiệp ” (báo nhân dân 3-2 2001). Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mười năm 2001- 2010 là :“Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt chất lượng đời sống vật chất , văn hoá tinh thần của nhân dân , tạo nền tảng đến năm 1020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Muốn đạt được như vậy chúng ta cần phải có bước đi phù hợp với nhiều biện pháp thích hợp đối với nguồn nhân lực, cân nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng một cách có hiệu quả, Tạo động lực thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, nâng cao chất lương đời sống của nhân dân theo tiêu chuẩn của một nước công nghiệp. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng nguồn lực lao động nông nghiệp nông thôn 3.1. Nhân tố đất đai và khí hậu Về đất đai; Ruộng đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Ruộng đất là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đất làm cho đất đổi hình đổi dạng như cày, bừa Ruộng đất là tư liệu lao động khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động lên đất thông qua các thuộc tính lý học, hoá học, sinh học Trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì ruộng đất có chất lượng ngày càng tốt hơn và sức sản xuất của ruộng đất là không có giới hạn. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ở nước ta vào loại thấp khoảng 0,1 ha/ người hơn nữa ruộng đất nông nghiệp lại phân bố không đồng đều giữa các vùng trong cả nước, phân bố không đồng đều và chất lượng đất cũng không đồng đều. Mỗi vùng, khu vực có một loại đất khác nhau, chất đất khác nhau. Ví dụ: vùng núi Trung du bắc bộ chủ yếu là đất Feranit đá vôi, còn đất vùng Tây Nguyên chủ yếu là đất đỏ Bazan nên đã hình thành lên những vùng sản xuất mang đặc trưng riêng. Quỹ đất nông nghiệp hiện nay đang bị giảm dần do đó phải sử dụng một cách hểt sức tiết kiệm. Đồng thời phải biết phân bố và sử dụng lao động một cách phù hợp và có hiệu quả. Chánh tình trạng có nơi thì thừa lao động có nơi thì thiếu lao động . Nhân tố khí hậu; Ngoài đất đai khí hậu cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp , ảnh hưởng đến cơ cấu cây trồng vật nuôi và ảnh hưởng đế mùa vụ của sản xuất nông nghiệp . Nước ta nằm trong khu vực co khí hậu nhiệt đới gió mùa do đó nông nghiệp nước ta cũng mang tính chất nhiệt đới gió mùa. Sản phẩm của nông nghiệp chủ yếu là các loại sản phẩm nhiệt đới. Khí hậu chia làm hai mùa, mùa khô và mùa mưa. Tính chất mùa vụ của khí hậu gián tiếp ảnh hưởng đến lao động nông nghiệp nông thôn.Và đây cũng là một đặc điểm cơ bản của lao động nông nghiệp nông thôn. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ảnh hưởng đến phân bổ lao động trong các ngành kinh tế . Sự phân bố về qui mô , số lượng , chất lượng lao động. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến dẫn đến sự di chuyển của lao động giữa các ngành. Những ngành nào phát triển nhanh mạnh và cần nhiều lao động thì sẽ thu hút nhiều lao động. Do đó cơ cấu lao động cũng có sự thay đổi và dịch chuyển theo. Để đáp ứng sự phát triển và ổn định xã hội. Sau gần 20 năm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tăng trưởng kinh tế bình quân cả nước hàng năm đạt > 7%. Nông nghiệp đạt mức tăng trưởng trung bình là 5,7% .Tổng số lao động nông thôn là 31 941 500 người chiếm 75,82% lao động cả nước, Nông nghiệp phát triển liên tục góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung giữ vững ổn định kinh tế xã hội... Công nghiệp và xây dựng đạt mức tăng trưởng bình quân là 13,5%. Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế nói chung. Nhìn chung cơ cấu các ngành kinh tế đã từng bước chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tỷ trọng ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần và tăng tỷ trọng dần các ngành công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra trong bản thân các ngành cũng diễn ra sự chuyển dịch về cơ cấu. Năm Ngành 1995 % 2000 % 2005(dự kiến) % Nông nghiệp 27,2 24,3 20-21 Công nghiệp 27,8 36,6 38-39 Dịch vụ 44,1 39,1 41-42 Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Trong từng giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Sự phát triển của nông nghiệp nông thôn được dựa trên một hệ thống cớ sở hạ tầng có trình độ phát triển nhất định. Sự đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn có vai trò to lớn. Cho đến nay cơ sở vật chất phục vụ sản xuất nông nghiệp nông thôn của nước ta vẫn còn yếu, thiếu, lạc hậu hoạt động kém hiệu quả. Chính vì vậy ngay từ đầu Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương đầu tư khá lớn để thực hiện các hoá; thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, hoá học hoá, sinh học hoá Số lượng và chất lượng lao động Về số lượng; Cuộc điều tra về lao động viêc làm 1/7 /2003 đã được Bộ lao động và thương binh xã hội kết hợp với tổng cục thống kế thực hiện. Cuộc điều tra đã tiến hành trên 3236 địa bàn mẫu với 109540 hộ trong cả nước. Trong khu vực nông thôn điều tra 1248 địa bàn với 1984 hộ với kết quả như sau; Tại thời điểm 1/7/2003 lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi trở lên cả nước là 42 128 343 người. Trong đó khu vực nông thôn là 31 941500 người, chiếm 75, 82 % lao động cả nước (nữ có 15 888 646 người chiếm 76,5% lao động cả nước). So với năm 2002 lực luợng lao động ơ khu vực nông thôn có 31 128 343 người tăng 1,33% với qui mô tăng thêm là 4 17 900 người. Mỗi năm chúng ta giai quyết công ăn việc làm cho 1,6 triệu lao động . Bảng phân bố LĐ NNNT của nước ta năm 2003 Vùng Kinh Tế SL LĐNNNT (người) Tỷ lệ ( %) ĐB Sông Hồng 7 619 657 23,86 Đông Bắc 4 117 596 12,89 Tây Bắc 1 156 402 3,62 Bắc Trung Bộ 4 425 112 13,85 DH Miềm Trung 2 531 119 7, 92 Tây Nguyên 1 644 570 5, 15 Đông Nam Bộ 2 976 395 9,15 ĐBS Cửu Long 7 470 646 23,39 Qua bảng phận tích trên ta thấy lực lượng lao động nông thôn ở các vùng phân bố không đều. ĐB Sông Hồng và ĐB Sông Cửu Long là hai vùng có lượng lao động chiếm tỷ lệ cao, nguồn lao động dồi dào và cũng chính là hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước có thế mạnh về nguồn nhân lực. Trong khi đó các vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỷ trọng thấp về lực lượng lao động. Có ưu thế về nguồn tài nguyên đất đai nhưng lại thiếu nguồn lao động do đó phải có sự quy hoạch và phân bố lại để trở thành những vùng kinh tế động lực của nước ta. * Về chất lượng lao động Lao động nông nghiệp chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đao tạo và chiếm tỷ trọng lớn.Trình độ văn hoá , trình độ chuyên môn kĩ thuật còn rất thấp. Theo số liệu thống kê năm 2003 cho thấy ở khu vực nông thôn tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn là 4 255 500 người chiếm 13,32% lực lượng lao động toàn khu vực nông thôn , 5,51% lao động đã qua đào tạo kĩ thuật không bằng cấp, 1,97% đào tạo sơ cấp, tỷ lệ chưa biết chữ của cả nước là 4,35%. Cuộc điều tra của tổng cục thống kê đầu năm 2004 cho kết quả như sau ; cả nước có 93,8% lực lượng lao động nông thôn chưa qua đào tạo, có 2,3 lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc công nhân kĩ thuật, 2,4% có trình độ trung cấp kĩ thuật, 0,8% có trình độ cao đẳng, 0,7% có trình độ đại học và tương đương. Nói đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nói đến nâng cao trí lực (trình độ văn hoá , Chuyên môn – kĩ thuật ) nâng cao thể lực (sức khoẻ, điều kiện chăm sóc sức khoẻ) và nâng cao phẩm chất , đạo đức, tư tưởng , tác phong làm việc và sinh hoạt của người lao động, nhằm đáp ứng yêu cầu của một nước công nghiệpdo chất lượng lao động nông nghiệp còn thấp và không đồng đều nên việc sử dụng và tuyển dụng gặp nhiều khó khăn, thường phải đào tạo và trang bị kiến thức, khoa hoc kĩ thuật cho họ trước khi sử dụng. Chính sách của nhà nước Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã cố ngắng tạo mọi điều kiện để người lao động có việc làm, khuyến kích mọi người tự tạo việc làm để thu hút lao động xã hội như; chính sách đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn, tín dụng ngân hàng, xuất khẩu lao độngmỗi năm giải quyết cho hơn 1,4 triệu lao động. Chính sách về lao động việc làm của Việt Nam là giải quyết việc làm trên cơ sở phát triển kinh tế , gắn với giải quyểt các vấn đề xã hội. Mục tiêu của chính sách việc làm là tạo cơ hội việc làm nhiều hơn và tốt hơn cho mọi người lao động , giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp. Đảm bảo sự hài hoà giữa mở rộng cơ hội việc làm và chất lượng việc làm, vì mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững. Phấn đấu để mỗi năm tạo ra 1,4 triệu việc làm mới , nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn lên 80% vào năm 2005. Để đạt được chỉ tiêu trên , việc đều chỉnh chính sách và các giải pháp tập trung vào các nội dung sau; Phát triển kinh tế xã hội, tạo mở việc làm đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động có thêm chỗ làm mới tự tạo việc làm. Tổ chức các dịch vụ việc làm trong thị trường lao động, tổ chức cho người thiếu việc làm đăng kí tìm việc tại các cơ sở thuộc hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm trong phạm vi cả nước, cung cấp các dịch vụ việc làm miễn phí. Tổ chức dạy nghề gắn với việc làm. Thực hiện chủ trương xã hội hoá, đa dạng hoá các hình thức đào tạo sẽ tăng quy mô đào tạo. Ngoài ra còn nhiều chính sách khác của hệ thống chính sách nhà nước về vấn đề lao động việc làm. Bên cạnh việc ban hành những chính sách, cũng cần phải xem xét điều chỉnh, những chính sách đã ban hành sao cho cụ thể xác thực, tác động đúng đối tượng đúng phạm vi điều chỉnh để các chính sách ngày càng hoàn thiện hơn. Khắc phục những mặt hạn chế sau đây; - Số lượng văn bản quá nhiều và tản mạn gây khó khăn cho việc sưu tầm tổng hợp tra cứu. - Nội dung các văn bản đôi khi thiếu thống nhất, chồng chéo hoặc mâu thuẫn nhau gây ra sự vận dụng khác nhau và dẫn đến tiêu cực. Chính sách chủ yếu chỉ là những nguyên tắc, chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể nên chưa thực hiện được. Các văn bản có nhưng quy định không nhất quán, không được sửa đổi nôi dung kịp thời cho đồng bộ nên không thực hiện được hoặc dễ gây tiêu cực. Thủ tục hành chính để triển khai rất phiền hà. II khái quát tình hình sử dụng nguồn lao động nnnt của nước ta hiện nay 1. Về số lượng lao động Dân số nước ta có khoảng 84 triệu người lưc lượng lao động của cả nước là 42 128 343 người trong đó khu cực nông thôn có 31941500 người chiếm 75,82 so với cả nước hàng năm nguồn lao động tăng từ 1,2 đến 1,3 triệu người trong đó số việc làm từ nông nghiệp chiếm 38%. Bên canh những mặt tích cưc của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một góc độ nhất đinh nào đó cũng nảy sinh tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm ở khu vực nông thôn và thành thị. Năm 1996 tỉ lệ thất nghiệp ở khu vưc thành thị là5,88% năm1998 là 6,85% năm1999 ;7,4% năm 2000;6,42% năm 2001;6,28% năm 2002;6,01% năm 2003;5,6% và đến 1/7/2003 là 5,78% giảm so với tỉ lệ này ở cùng thời điểm của năm trước là 0,23%. Tỉ lệ thất nghiệp của lao động nữ trong độ tuổi lao động là 7,22% cao hơn so với tỉ lệ chung là 1,44%. 2. Thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn được nâng lên. Theo cuộc điều tra trong vòng 12 tháng 1/7/2003 và 1/7/2004 cho kết quả như sau; Tỉ lệ thời gian lao động được sử dụng trong 12 tháng qua là số phần trăm của tổng số ngày công làm viêc thực tế so với tổng số ngày công có nhu cầu làm việc(bao gồm số ngày công thưc tế đã làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua tính đến thời điểm điều tra. Như vậy, tỉ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi trở lên trong 12 tháng tính đến thời điểm điều trả khu vực nông thôn của cả nước là 77,94% (so với năm 2002, tăng thêm 2,53%).Tính riêng cho lực lượng lao động nữ, tỉ lệ này là77,74%. Trong 8 vùng chỉ có 1vùng đạt tỉ lệ trên 80% là Tây Nguyên (80,58%); thấp nhất là Tây Bắc(74.45%); các vùng còn lai tỷ lệ này dao động từ 77% đến gần 79%. Trong 8 tỉnh nông nghiệp trọng điểm thuộc đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn dao động trong khoảng 77% đến gần 82%. Trong đó 1Tỉnh có tỷ lệ dưới 77% là Hưng Yên (76,72%). Năm tỉnh tù 77% đến dưới 80% là ; Vĩnh Long(77,44%), Hà Nam(77,46%), Thái Bình (77,74%), Long An (78,55%)và Tiền Giang (79,16%) . Hai tỉnh có tỷ lệ trên 80% là Hà Tây (81,30%) và An Giang (81,75%). So với năm 2002, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn các tỉnh trọng điểm thuộc ĐB Sông Hồng và ĐBS Cửu Long đều tăng khá rõ rệt, hầu hết các tỉnh phố biển tăng trên 3%. Với tốc độ tăng như vậy có thể chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu nâng đỡ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80 đến 85 % năm 2010. 3. Cơ cấu lao động trong các nghành của nông nghiệp nông thôn: So với năm 2002,lao động có việc làm trong cả nước tăng thêm 686 546 người. Số lượng lao động có việc làm trong các khu cực I II và III đều tăng, song tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực I(nhóm nghành nông-lâm-ngư nghiệp) tiếp tục giảm (1,63%); tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực II (nhóm nghành Công nghiệp và xây dựng) và trong khu vưc III (nhóm nghành dịch vụ)tiếp tục tăng (tương ứng là1,28% và 0,35%). Cơ cấu lao động của cả nước chia theo nhóm nghành, năm 2003 so với năm 2002 vẫn chuyển dịch theo hướng tích cưc. Trong đó, tỉ lệ lao động làm việc trong nhóm nghành CNvà XD tăng nhanh hơn so với nhóm nghành dịch vụ. Với tốc độ chuyển dịch như thế này có thể đến năm 2010 tỷ lệ nông nghiệp sẽ còn khoảng 50% như mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội IX đã đề ra. Tỷ lệ lao đông làm việc trong nhóm nghành Nông Lâm Ngư Nghiệp theo 8 vùng kinh tế như sau: Vùng có tỷ lệ lao đông làm viêc trong nhóm nghành nông lâm ngư nghiêp dưới 30% là Đông Nam Bộ (29,99%); hai vùng có tỷ lệ từ trên 54% đến gần 57% là Duyên Hải Nam Trung Bộ (54,74%) và Đồng Bằng Sông Hồng (56,13%); hai vùng từ trên 60% đến gần 70% là Đồng Bằng Sông Cửu Long (61,28%) và Bắc Trung Bộ (68,12%); ba vùng có tỷ lệ trên 70% là Tây Nguyên(73.18%), Đông Bắc (76,28%) và Tây Bắc (86,81%). Nhìn chung trong nông nghiệp nông thôn lao động chủ yếu tập trung ở ngành trồng trọt. Phần III một số biện pháp nhằm sử dụng lao động đầy đủ hợp lí 1. Những biện pháp chung Giải phóng mọi sức sản xuất ở nông thôn khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng các nguồn lực của đất nước của các vùng và các ngành nông nghiệp, phát triển mạnh nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành phần, củng cố và nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh khai thác phát huy và sử dụng có hiệu quả các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế hộ nông dân, kinh tế trang trại, đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa khọc công nghệ vào nông nghiệp và phát triển nông thôn tổng hợp, gắn chặt sử dụng lao động với việc mở rộng kinh tế đối ngoại, kết hợp giải quyết việc làm của người lao động tại chỗ là chủ yếu với phân bổ lao động hợp lý hợp lý theo vùng lãnh thổ 2. Những biện pháp cụ thể 2.1 Đa dạng hoá các hình thức tổ chức và thành phần kinh tế Phát triển đa dạng hoá các hình thức tổ chức và thành phần kinh tế. Phát triển mạnh kinh tế hộ và kinh tế trang trại ở nông thôn. Đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ ở nông thôn trong tất cả các lĩnh vực, nghành hoạt động mà kinh tế hộ có thể tham gia. Kinh tế hộ gia đình nông dân đã được xác định là những đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn mở rộng ra các lĩnh vực hoạt động khác. Hiện nay kinh tế ở các vùng nông thôn đã phát triển nhiều ngành nghề đa dạng ngoài sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đã mở rộng hoạt động sang chế biến nông, lâm, thủy sản chiếm 17,3% số hộ có ngành nghề phi nông nghiệp: công nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 32,5%, xây dựng, thương mại và dịch vụ chiếm 48,9% làm cho các hoạt động kinh tế nông thôn trở lên sôi động và bộ mặt nông thôn thay đổi nhiều. Xây dựng chiến lược lâu dài về đào tạo việc làm đào tạo nghề trang bị kiến thức cho lao động nông thôn gắn với chiến lược con người của thời kỳ CNH- HĐH đất nước. Mục tiêu của chiến lược là giải phóng mạnh mẽ các hình thức lao động giản đơn tạo thêm việc làm phi nông nghiệp ít đòi hỏi lao động có kỹ năng cao ngay tại địa bàn nông thôn điều tiết di chuyển lao động ồ ạt từ nông thôn ra thành phố. Coi dạy nghề cho nông dân là một bộ phận của chiến lược con người vì họ chiếm 80% dân số cả nước. Các biện pháp tiến hành; + Gắn chiến lược xoá đói giảm nghèo với tạo việc làm cho lao động ở nông thôn, trở thành bộ phận hữu cơ đảm bảo cho quá trình phát triển bền vững ở nông thôn. + Hoàn thiện bổ xung và xây dựng mới cơ chế chính sách thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nứơc vào các chương trình và dự án tạo thêm việc làm, thu hút lao động nông thôn. + Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đi đôi với đổi mới cơ cấu đầu tư. Trong các năm tới cần thiết phải tăng cường đầu tư cơ bản trong nông nghiệp, nông thôn nhất là đầu tư nâng cấp, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, điện, đường, trường, trạm, trại nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên để phát triển kinh tế hộ lâu dài và ngày càng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ tạo ra, cần thực hiện một số biện pháp sau: + Có chính sách thích hợp phát triển kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá theo đặc thù sản xuất của từng vùng, đó là các chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, khoa học công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm + Kiên trì thực hiện chủ trương khuyến khích” ai giỏi nghể gì làm nghề đó”, trên cơ sở đó đa dạng hoạt động kinh tế của từng hộ theo tiềm năng của nội tạng, khuyến khích kinh tế hộ sử dụng lao động làm thuê tại chỗ hoặc lao động từ nơi khác đến tìm việc làm thông qua chế độ ưu đãi về cho thuê mặt bằng, tín dụng ban đầu + Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là một giải pháp lâu dài hữu hiệu để thực hiện chủ trương tạo việc làm cho lao động nông thôn. Từng bươc phát triển kinh tế hộ nông, lâm, ngư trại thành các doanh nghiệp nhỏ trong nông thôn, có tư cách pháp nhân bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác.Hiện nay, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ(doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã..) có đăng ký hoạt động chưa nhiều mới đạt 3% còn 97% vẫn thuộc loại hình kinh tế hộ không đăng ký, điều này dẫn đến sự phát triển của kinh tế hộ chưa được phát lý bảo hộ, nên chưa đủ điều kiện phát huy hết tiềm năng tạo việc làm ở nông thôn. Để nhanh chóng phát triển mở rộng thêm số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cần phả: + Tạo điều kiện thuận lợi tối đa về mặt thủ tục để cơ sở sản xuất đăng ký thành lập doanh nghiệp dễ dàng + Cần có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh chế biến nông sản về mặt cơ sở sản xuất tại các địa bàn có nguồn nguyên liệu dồi dào. Các cơ sở này một mặt sẽ thu hút một lượng lớn nguồn nhân lực tại chỗ tham gia vào quá trình sản xuất nguyên liệu cho cơ sở chế biến, mặt khác nó cũng tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân địa phương tham gia vào quá trình sản xuất chế biến của cơ sở này + Đối với các doanh nghiệp sản xuất phi nông nghiệp đã có đăng ký và đang hoạt động, khuyến khích các doanh nghiệp này đặt cơ sở trên địa bàn huyện, xã chủ yếu làm nông nghiệp dân số đông. Các doanh nghiệp này sẽ có cơ sở để giải quyết lao động nông nhàn và khởi đầu cho việc phát triển hoạt động phi nông nghiệp trong nông thôn + Khôi phục và phát triển nghành nghề truyền thống và nghề mới ở nông thôn. Nghàh nghề truyền thống đã có từ lâu đời và có thể gọi là một thế mạnh của nươc ta như nghề kim hoàn, thêu ren, dệt tơ lụa, trạm khắc gỗ, khảm trai, chế biến nông sảnNghành nghề truyền thống hiện đại giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động. Tuy nhiên từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các cơ sở sản xuất và các làng nghề cũng gặp không ít khó khăn nhất là về tiêu thụ sản phẩm, công nghệ lạc hậu ít vốn Vì thế nhà nước cần có một số chính sách hỗ trợ để khội phục và phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang các nghề mới trên cơ sở: + Tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất ở các làng nghề truyền thống như cho vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, hình thành các khu làng nghề sản xuất tập trung Tổ chức lại các cơ sở làng nghề truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời phát triển mạnh mẽ hình thức hiệp hội, liên kết các gia đình tiến tới thành lập những doanh nghiệp nhỏ và vừa Ban hành một số chính sách khuyến khích về vốn, tín dụng, thuế và giải quyết mặt bằng cho sản xuất đối với các làng nghề, nghề truyền thống ở giai đoạn khôi phục và phát triển mới Có chính sách ưu đãi đối với các nghệ nhân, thợ giỏi, hỗ trợ công tác đào tạo truyền nghề để những nghành nghề truyền thống không bị mai một. Bảo vệ quyền phát minh sáng chế của nghệ nhân và xây dựng chế độ bảo hiểm khi về già để người dân làm việc trong các làng nghề truyền thống yên tâm đầu tư vốn và yên tâm sống với nghề của mình Tăng cường hình thành các ngành nghề và sản phẩm mới mang tính truyền thống và bản sắc việt nam, với các làng cụm làng chuyên nghề ở các làng nghề hiện tại để thúc đẩy sự lan truyền trong phạm vi xã huyện và vùng. 2.2 Xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí đồng nghĩa đối với sử dụng hợp lý nguồn lao động xã hội, trong đó có lao động nông nghiệp. Việc phân phối sức lao động giữa nông nghiệp với ngành kinh tế quốc dân khác phải đảm bảo cho nông nghiệp cả về số lượng và chất lượng một cơ cấu lao động hợp lý đủ để cho nông nghiệp phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc rút bớt lao động nông nghiệp chuyển sang phát triển ngành kinh tế khác là tuỳ thuộc vào việc nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, việc khai thác các tiềm năng lao động, đất đai, rừng, biển ngành nghề để tăng nhanh khối lượng nông sản phẩm hàng hoá, đặc biệt những sản phẩm để xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nươc ta - Phân bổ lao động hợp lý giữa các vùng là biện pháp quan trọng để sử dụng đầy đủ và hợp lý các nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. Việc thực hiện phân bố lao động đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ lao động với các nguồn tài nguyên và tư liệu sản xuất sãn có từ vùng khác nhau trên phạm vi cả nươc để khai thác có hiệu quả các tiềm năng đó, tạo ra nhiều ngành mới, nhiều vùng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp làm cho nền kinh tế cả nước phát triển một cách đồng đều Để thực hiện nhiệm vụ đó yêu cầu trước hết đối với từng tỉnh, từng huyện, cũng như từng doanh nghiệp nông nghiệp phải nắm chắc nguồn nhân lực và nhu cầu lao động. Dân số là cơ sở của nguồn nhân lực. Vì vậy, kế hoạch hoá nguồn nhân lực phải gắn liền với kế hoạch hoá dân số. - Thực hiện biện pháp kết hợp chặt chẽ giữa thâm canh, khai hoang và tăng vụ phát triển chăn nuôi và đẩy mạnh công tác trồng rừng và tu bổ rừng có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. Để thực hiện con đường thâm canh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0231.doc
Tài liệu liên quan