Tác động của thuế giá trị gia tăng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

Theo quy định của luật thuế GTGT và các văn bản dưới luật đối với thuế GTGT đầu vào của TSCĐ được khấu trừ như đối với vật tư hàng hoá khác. Nếu số thuế đầu vào của TSCĐ lớn được khấu trừ dần trong 3 tháng mà số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết thì doanh nghiệp lập thủ tục yêu cầu cơ quan thuế hoàn thuế. Giải pháp xử lý này đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT đối với hoạt động đầu tư, tiết kiệm chi phí quản lý, không phải theo dõi khấu trừ thuế, đồng thời giảm gánh nặng cho NSNN không phải hoàn thuế này. Nếu doanh nghiệp đầu tư TSCĐ với giá trị lớn sẽ gặp khó khăn rất lớn vì phải đi vay để nộp thuế GTGT đầu vào và trả lãi vay. Như vậy chi phí của doanh nghiệp tăng, hiệu quả kinh doanh giảm. Để giảm bớt khó khăn doanh nghiệp xin đề nghị:

v Xét hoàn thuế theo từng tháng đối với số thuế GTGT được hoàn lớn (từ 200 triệu đồng trở lên) và xét hoàn thuế hàng quý có số thuế GTGT được hoàn nhỏ (dưới 200 triệu đồng)

v Để đơn giản trong thủ tục hoàn thuế, tạo điều kiện cho các cơ sở xin hoàn thuế giảm bớt khó khăn về vốn, đề nghị cơ quan thuế làm thủ tục hoàn thuế theo số liệu của cơ sở xin hoàn thuế. Các cơ quan thuế chỉ kiểm tra định kỳ hoặc khi thấy nghi vấn. Khi kiểm tra, nếu phát hiện số liệu hoàn thuế không chính xác, cơ quan thuế xử phạt nặng hoặc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ doanh nghiệp.

 

doc40 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của thuế giá trị gia tăng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u cầu đối với mỗi nước là phải cải cách cơ chế chính sách của mình. Trong đó cải cách thuế được xem là một nội dung có tầm quan trọng hàng đầu nhằm có thể phát huy tác dụng công cụ thuế điều tiết vĩ mô nền kinh tế phù hợp thông lệ trong khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong tình hình Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN và từng bước hội nhập AFTA, APEC. Biện pháp hữu hiệu là phải cải cách thuế theo xu hướng chung: Hạ thuế suất đi đôi với mở rộng diện tính thu thuế, hạn chế đối tượng miễn giảm thuế, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, vừa tạo điều kiện động viên được sự đóng góp đại đa số tầng lớp nhân dân. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, thuế cũ không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi. Nhiều nước trong khu vực và thế giới đã áp dụng thuế GTGT để khắc phục sự trùng lắp của thuế doanh thu và tăng doanh thu cho NSNN như: Thuỵ Điển áp dụng từ 1/1/1989, Inđônêxia áp dụng tháng 4/1985, Đài Loan áp dụng tháng 4/1996, Philippin áp dụng tháng 1/1998, Nhật Bản áp dụng tháng 4/1989, Thái Lan áp dụng tháng 1/1995… Để có hệ thống chính sách phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động, phát triển với thực tế của nền kinh tế là điều cần thiết và cấp bách. Quán triệt tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách, đổi mới nền kinh tế đã chú trọng đến đổi mới hệ thống thuế bao gồm cả chính sách và bộ máy hành thu để bảo đảm hệ thống pháp luật thuế luôn phù hợp và thực thi có hiệu quả. Tiếp theo cải cách thuế bước I (1990-1996) Quốc hội, Chính phủ đã tiến hành ngay cải cách thuế bước II nhằm khắc phục những bất cập, đưa hệ thống thuế bắt kịp với thực tế phát triển của nền kinh tế nước ta. Khâu đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế bước II là việc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 (từ 2/4-10/5/1997) đã thông qua hai luật thuế cơ bản đại diện cho hai loại thuế, đó là luật thuế GTGT (đại diện cho loại thuế gián thu), thuế thu nhập doanh nghiệp (đại diện cho loại thuế trực thu). Hai luật thuế này được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu và thuế lợi tức. Thuế GTGT triển khai thực hiện ở trên 120 nước trên thế giới và đã được đánh giá là tiên tiến, khoa học và công bằng, có nhiều ưu điểm và khắc phục được những tồn tại của thuế doanh thu. II. Kinh nghiệm thực hiện thuế GTGT ở một số nước 1. Thuế GTGT áp dụng ở một số nước trên thế giới 1.1. Trung quốc - Thuế GTGT của Trung Quốc được bắt đầu áp dụng từ năm 1984. Tuy nhiên do những quy định về thuế GTGT năm 1984 được coi là phức tạp, không công bằng và rất khó áp dụng vì nó chủ yếu chỉ được áp dụng ở cơ sở sản xuất nên đến năm 1994, luật thuế GTGT mới được ban hành thay cho thuế GTGT năm 1984. - Về cơ bản thuế GTGT năm 1994 của Trung Quốc là một loại thuế đánh trên diện rộng từ khâu sản xuất đến khâu bán lẻ. - Thuế GTGT của Trung Quốc có 2 điểm khác biệt quan trọng so với thuế GTGT ở các nước Châu á khác: Thứ nhất, tài sản cố định bị đánh thuế GTGT song lại không được khấu trừ thuế đầu vào. Thứ hai, hầu hết các dịch vụ đều không chịu thuế GTGT (thay vào đó các dịch vụ này chịu thuế kinh doanh). Một số nhận xét và bài học về việc thực hiện thuế GTGT của Trung Quốc - Về đối tượng nộp thuế: Có 2 loại đối tượng nộp thuế : Đối tượng nộp thuế thông thường (chiếm 20) và đối tượng nộp thuế nhỏ (chiếm 80%) căn cứ vào doanh số bán hàng và điều kiện hạch toán của từng đối tượng. Tiêu chí để trở thành đối tượng nhỏ như sau: Đối với các đối tượng kinh doanh dịch vụ: Các cơ sở có doanh số chịu thuế GTGT hàng năm dưới 1 triệu NDT. Đối với đối tượng kinh doanh hàng hoá có doanh số chịu thuế hàng năm dưới 1,8 triệu NDT. Những cá nhân, đơn vị sản xuất, doanh nghiệp không thường xuyên tiến hành các hoạt động chịu thuế, không kể có doanh số là bao nhiêu cũng được coi là đối tượng nộp thuế nhỏ. Trong số các đối tượng nộp thuế thì có tới 80% là đối tượng nộp thuế nhỏ và 20% là đối tượng nộp thuế thông thường. Khi đối tượng nộp thuế nhỏ có chế độ hạch toán lành mạnh và khả năng hạch toán chính xác thuế đầu ra, thuế đầu vào, số thuế phải nộp hoàn toàn tuân thủ theo các chế độ kế toán và những yêu câù của cơ quan thuế thì có thể trở thành đối tượng nộp thuế thông thường nếu được cơ quan thuế có thẩm quyền chấp thuận. - Căn cứ và phương pháp tính thuế. Tương ứng với hai nhóm đối tượng nộp thuế, có hai phương pháp tính thuế khác nhau: Các đối tượng nộp thuế nhỏ được áp dụng thuế doanh thu với một mức thuế suất thống nhất là 6% trên doanh thu, không được phép miễn giảm và khấu trừ thuế. Từ năm 1998, mức thuế này giảm xuống còn 4%. Các đối tượng nộp thuế thông thường được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế. Số thuế phải nộp sẽ là số chênh lệch giữa số thuế đầu ra sau khi đã khấu trừ thuế đầu vào cho giai đoạn đó. Nếu như số thuế đầu ra ít hơn hay không đủ để bù đắp thuế đầu vào thì số thuế đầu vào vượt trội đó được chuyển sang các giai đoạn tiếp theo để bù đắp. Đối tượng nộp thuế thông thường mua nông sản miễn thuế, phế liệu và dịch vụ vận chuyển, không được cung cấp hoá đơn GTGT đặc biệt sẽ được khâú trừ theo tỷ lệ là 10% theo giá thực mua. Với việc chỉ quy định một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ, còn những đối tượng có doanh số chưa đạt tới ngưỡng tối thiểu chịu thuế GTGT thì áp dụng thuế doanh thu đơn giản đã tạo thuận lợi cho công tác quản lý thuế. Thuế GTGT của Trung Quốc được áp dụng cả đối với hàng chịu thuế TTĐB, do đó rất dễ dàng trong quản lý. Đối với hàng nhập khẩu, thuế GTGT đánh trên cả thuế hải quan và thuế tiêu dùng (nếu có). - Đối với hàng xuất khẩu. Theo quy định thuế GTGT năm 1994, những hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất 0% và được hoàn lại số thuế GTGT đã nộp ở khâu đầu vào. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, việc hoàn thuế đã phát sinh một số vấn đề phức tạp như: Số lượng thuế phải hoàn trả tăng lên nhanh chóng, tốc độ hoàn thuế tăng nhanh hơn cả tốc độ thu thuế và lượng xuất khẩu, tình trạng gian lận trong việc nhận các khoản hoàn thuế dẫn đến thất thu nghiêm trọng cho Ngân sách, gây cản trở cho công tác hoàn thuế kịp thời đối với những doanh nghiệp làm ăn hợp pháp. Để giải quyết những khó khăn nêu trên, Hội đồng Nhà nước đã quyết định giảm tỷ lệ hoàn thuế từ 1/7/1995 căn cứ vào gánh nặng thực tế mà các doanh nghiệp xuất khẩu phải gánh chịu, đồng thời củng cố công tác hành chính về việc hoàn thuế khi xuất khẩu. Các tỷ lệ hoàn thuế cụ thể được quy định như sau: 3% đối với nông sản và than. 10% cho các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hay chế biến từ nguyên vật liệu nông nghiệp và các sản phẩm khác chịu thuế suất thuế GTGT 13%. 14% cho các hàng hóa chịu thuế suất thuế GTGT 17%. Đến 1/1/1996, mức hoàn thuế này được giảm xuống còn 9%. Việc giảm tỷ lệ hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu đã có tác dụng giảm bớt sự căng thẳng đối với NSNN.Đồng thời do chú trọng tới việc đảm bảo tốc độ cũng như độ chính xác trong quá trình hoàn thuế cho nên quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn được đảm bảo, hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh. 1.2. Inđônêxia Luật thuế GTGT của inđônêxia được ban hành tháng 4/1985 và được áp dụng thành 3 giai đoạn: Giai đoạn I (từ năm 1985-1989): Trong giai đoạn này thuế GTGT chỉ được áp dụng cho những hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu với 1 mức thuế suất là 10%. Khác với luật thuế GTGT của Việt nam, theo luật thuế GTGT của Inđônêxia, những mặt hàng đã chiụ thuế TTĐB vẫn phải chịu thuế GTGT. Giai đoạn II (từ năm 1989-1994): Từ 1/4/1989, thuế GTGT được mở rộng tới người bán buôn và áp dụng đối với 21 loại dịch vụ. Về nguyên tắc, tất cả dịch vụ đều là đối tượng chịu thuế, song Inđônêxia cũng quy định một số trường hợp được miễn: dịch vụ y tế, ngân hàng, giáo dục và khách sạn (vì đã có một loại thuế địa phương đánh vào khách sạn). Giai đoạn III: Bắt đầu từ tháng 1/1995 thuế GTGT tiếp tục mở rộng đối tượng nộp thuế tới người bán lẻ. Tuy nhiên, những người bán lẻ có doanh thu dưới một ngưỡng nhất định không thuộc diện chịu thuế GTGT. Theo đánh giá của Bộ Tài Chính Inđônêxia, việc áp dụng thuế GTGT theo từng giai đoạn như trên là một trong những yếu tố dẫn đến thành công của thuế GTGT ở nước này. Một số kinh nghiệm cụ thể được rút ra từ thực tế Inđônêxia: - Về ảnh hưởng của thuế GTGT tới số thu ngân sách và giá cả: Khi áp dụng thuế GTGT, giá cả ở Inđônêxia vẫn ở mức ổn định, không tăng; Trong khi đó số thu ngân sách lại tăng lên. Năm 1989, sau 5 năm áp dụng thuế GTGT, số thu từ thuế GTGT đã tăng từ 1% lên 3,5% GDP. - Thuế GTGT của Inđônêxia chỉ có 2 mức thuế suất là 0% và 10%, điều này làm cho luật thuế GTGT của Inđônêxia rất đơn giản, thuận lợi cho công tác quản lý thuế. - Theo đánh giá của Bộ Tài Chính Inđônêxia, việc áp dụng thuế GTGT thành từng giai đoạn là một yếu tố đảm bảo sự thành công của thuế GTGT ở nước này. - Do quy định mặt hàng chịu thuế TTĐB vẫn phải chịu thuế GTGT nên Inđônêxia hầu như không gặp phải khó khăn gì trong việc xử lý đối với các loại hàng hoá này. - Quy trình hoàn thuế của Inđônêxia rất rõ ràng và có những chỉ dẫn cụ thể nên cán bộ thuế hầu như không có cơ hội để trì hoãn hoặc cản trở quá trình hoàn thuế. - Công tác tuyên truyền cho đối tượng nộp thuế cần hết sức coi trọng. Ban đầu, Inđônêxia gặp phải rất nhiều phản ứng từ những đối tượng nộp thuế do họ không biết phải làm gì để được nộp thu. Chỉ khi cơ quan thuế cung cấp những hướng dẫn cụ thể, rõ ràng đối với từng trường hợp cụ thể thì những phản ứng này mới lắng xuống. - Tình trạng gian lận GTGT được thực hiện dưới nhiều hình thức, phổ biến nhất là việc sử dụng hoá đơn giả ở khâu đầu vào nhằm tăng số thuế được khấu trừ. Cũng có một số trường hợp gian lận được đưa ra toà án, song vẫn không ngăn chặn được hiện tượng này. 1.3. Singapore Với nhận thức là việc đánh thuế đối với hàng nhập khẩu không mang tính chất là một loại thuế đánh trên GTGT nên ở Singapore không dùng tên thuế GTGT như ở các nước mà gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ. Thuế hàng hoá và dịch vụ (GST) ở Singapore được áp dụng vào ngày 1/4/1994. Sự ban hành GST là một phần trong kế hoạch đổi mới toàn bộ hệ thống thuế của chính phủ Singapore. Điều này cho thấy sự thay đổi quan trọng trong chính sách quản lý tài chính từ việc chú trọng các loại thuế trực tiếp đánh trên thu nhập tới các loại thuế gián tiếp đánh vào tiêu dùng. Song song với việc ban hành GST, thuế suất thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản được giảm xuống, từ đó duy trì được tính cạnh tranh quốc tê của hệ thống thuế của Singapore . Để giảm tối đa chi phí tuân thủ và chi phí hành chính liên quan tới việc áp dụng GST cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế, đảm bảo cho hệ thống GST hoạt động có hiệu quả, GST của Singapore được xây dựng rất đơn giản: - Thuế đánh vào tiêu dùng trong nước, sử dụng phương pháp khấu trừ trên cơ sở hoá đơn và áp dụng một mức thuế suất thống nhất là 3%. - Giảm tối đa các loại hàng hoá và dịch vụ được hưởng thuế suất 0%, chỉ có xuất khẩu và một số ít dịch vụ quốc tế đặc biệt mới được hưởng thuế suất 0%. - Giảm tối đa việc miễn giảm thuế cho các loại hàng hoá và dịch vụ. - Singapore cũng quy định ngưỡng đăng ký thuế: Các doanh nghiệp có cung cấp chịu thuế hàng năm lớn hơn 1 triệu đôla Singapore đều phải đăng ký GST. Theo quy định này, chỉ có khoảng 20% tổng số doanh nghiệp (35.000 doanh nghiệp) phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế . - Khác với một số nước thực hiện miễn thuế GTGT hoặc áp dụng thuế suất 0% đối với lương thực, thực phẩm, y tế và các nhu yếu phẩm khác nhằm giúp đỡ các hộ có thu nhập thấp, Singapore cho rằng những ưu đãi như vậy có lợi cho các hộ có thu nhập cao hơn các hộ có thu nhập thấp. Chính vì vậy, hệ thống GST của singapore bao phủ hầu hết các loại hàng hoá và dịch vụ. Về giá cả: Theo kinh nghiệm của các nước, khi áp dụng GST thường chỉ gây tăng giá một lần. Lường trước sự tăng giá đó và để hạn chế đến mức thấp nhất sự lợi dụng của các nhà buôn có thể dẫn đến lạm phát, Chính phủ Singapore đã tiến hành: - Làm việc với các nhóm tiêu dùng và người bán lẻ để phổ biến với các nhà buôn và dân chúng về GST và ảnh hưởng của nó tới giá cả hàng hoá và dịch vụ. - Theo dõi chặt chẽ mọi sự tăng giá và tiến hành điều tra mọi khiếu nại về các hiện tượng gian lận của các nhà buôn. - Khuyến khích các nhà buôn không tăng giá bằng toàn bộ mức thuế GST, mà rút bớt một phần vào giá thành bù đắp bằng sự tiết kiệm tăng lên từ việc giảm thuế thu nhập công ty khi GST được thực thi. 2. Vận dụng kinh nghiệm vào Việt Nam - Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT phải có một thời gian áp dụng thử thuế GTGT sau đó mới áp dụng rộng rãi cho mọi ngành nghề. - Không áp dụng một mức thuế suất duy nhất cho tất cả các ngành nghề để khuyến khích một số ngành nghề sản xuất phát triển cũng như hạn chế những ngành nghề không cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. - Dần dần đưa việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán đi vào nề nếp, đi đến việc chấm dứt không có hóa đơn. - Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu của chính sách thuế mới cũng như yêu cầu về mặt nghiệp vụ để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp dân cư, thúc đẩy tinh thần tự nguyện, tự giác chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật. Hoà nhập chính sách thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phần II: Tác động của thuế GTGT tới hoạt động của các doanh nghiệp Tình hình thực tế áp dụng thuế GTGT ở các doanh nghiệp Việt nam. Thuế GTGT ở Việt nam được tiến hành thí điểm từ tháng 9/1993. Qua một thời gian thực hiện, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt nam và chọn lọc những bài học thành công, thất bại ở một số nước, dự thảo luật được xây dựng từ đầu năm 1995, được Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 11 thông qua vào giữa tháng 5/1997 đã bắt đầu áp dụng chính thức trên diện rộng từ 1/1/1999. 1. Công tác tổ chức thực hiện. Thực hiện nghị quyết của Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ hai, thông qua ngày 23/12/1992 giao cho Chính phủ thực hiện thí điểm việc áp dụng thuế GTGT để rút kinh nghiệm xây dựng dự án luật thuế này, Bộ Tài Chính đã được Chính phủ giao cho triển khai thực hiện thí điểm thuế GTGT. 1.1 Tình hình thực hiện thí điểm. Trước khi áp dụng luật thuế GTGT (1/1/1999), Bộ Tài Chính đã cùng các doanh nghiệp tiến hành hai đợt tính thử thuế GTGT ở các doanh nghiệp lớn. Đợt 1 được tiến hành vào tháng 1/1998, tuy nhiên các số liệu tính toán trong đợt này chưa phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cách tính, phương pháp xác định thuế đầu vào, thuế đầu ra, giá bán chưa có thuế .. ở một số doanh nghiệp còn chưa chính xác cho nên khó có thể đánh gía đúng những tác động của 2 luật thuế tới doanh nghiệp. Chính vì vậy, tháng 8/1998, đợt tính thử lần 2 được tiến hành với sự tham gia của các chuyên gia Bộ Tài Chính nhằm đánh giá chính xác tình hình tài chính của các tổng công ty khi thực hiện luật thuế GTGT. Theo hướng dẫn của Bộ Tài Chính, các doanh nghiệp đã tiến hành tính thử số thuế GTGT phải nộp so với thuế doanh thu và dự đoán những tác động của nó tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình. Có hai xu hướng đánh giá trái ngược nhau: Những doanh nghiệp có số thuế GTGT phải nộp thấp hơn so với thuế doanh thu: Trong nhóm này chỉ bao gồm một số ngành đang áp dụng thuế doanh thu với thuế suất cao như điện (8%),xi măng (10%), da giày (6%), một số sản phẩm công nghiệp thực phẩm (6%), xổ số kiến thiết (20% - 30%)... và các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Những doanh nghiệp này khi áp dụng thuế GTGT với thuế suất không cao hơn nhiều so với thuế doanh thu, đồng thời phần thuế đã nộp ở đầu vào khấu trừ lớn; Những doanh nghiệp xuất khẩu không phải nộp thuế đầu ra, đồng thời lại được hoàn thuế đầu vào ,do vậy số thuế GTGT phải nộp giảm nhiều so với thuế doanh thu. Bảng số 1: Một số tổng công ty có số thuế GTGT phải nộp giảm so với thuế doanh thu. (đơn vị : triệu đồng) Đơn vị. Thuế doanh thu. Thuế GTGT Thuế GTGT giảm so với thuế doanh thu Phải nộp Được hoàn TCT lương thực miền nam TCT da giầy TCT khoáng sản. TCT xi măng TCT bưu chính viễn thông 0 0 0 4.903 501.981 188.600 162.290 2.260 7.300 143.872 31.626 2.708 16.018 136.758 982.721 (Nguồn: Bộ tài chính) - Những doanh nghiệp gặp khó khăn: Nhóm này bao gồm các doanh nghiệp hiện đang nộp thuế doanh thu với thuế suất thấp hoặc sản xuất, kinh doanh những mặt hàng có chi phí vật tư ít, giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn. Ví dụ + Sản phẩm cơ khí thuế suất thuế doanh thu hiện nay là 1% - 2%, khi áp dụng thuế GTGT với thuế suất 10% thì số thuế GTGT phải nộp tăng gấp 3 lần so với thuế doanh thu hiện hành. + Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, khách sạn, việc áp dụng thuế GTGT với thuế suất 20% - mức thuế cao nhất trong biểu thuế GTGT thay cho thuế doanh thu 10% cũng được kiến nghị là quá cao. Kết quả tính thử số thuế phải nộp trong 6 tháng đầu năm theo luật thuế GTGT so với số thuế doanh thu hiện nay đang nộp ở 40 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, khách sạn cho thấy, đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành, số thuế phải nộp tăng gấp 2 lần, còn đối với doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, mức tăng từ 1,6 đến 1,8 lần. + Đối với ngành điện tử, tin học: Hiện nay mức thuế doanh thu của ngành điện tử ở mức 4% và tin học là 1%. Khi áp dụng thuế GTGT thuế suất là 10%. Theo tính toán của tổng công ty điện tử - tin học, số thuế GTGT phải nộp sẽ tăng lên 2 lần so với số thuế doanh thu nếu như mọi điều kiện khác không thay đổi. Theo số liệu tính thử cho năm 1999, số thuế GTGT mà tổng công ty này phải nộp là 32,4 tỷ đồng, so với thuế doanh thu là 17,2 tỷ. Bảng số 2: Một số tổng công ty có số thuế GTGT phải nộp tăng so với thuế doanh thu. (đơn vị: nghìn đồng) Tên đơn vị Thuế doanh thu Thuế GTGT Chênh lệch TCT vật tư nông nghiệp TCT xăng dầu Liên hiệp đường sắt Việt nam TCT tàu thuỷ TCT hàng hải TCT hàng không 6.342 508.176 46.756 13.110 76.000 120.000 79.456 1.156.188 70.787 28.604 85.000 158.000 73.114 648.012 24.031 15.530 9.000 38.000 (Nguồn: Bộ tài chính) Việc chuyển từ thuế doanh thu với 11 mức thuế suất (từ 0% tới 30%) sang thuế GTGT với 4 mức thuế suất (0%, 5%, 10%, 20%) tất yếu dẫn đến tình trạng có mặt hàng chịu thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu, có mặt hàng được hưởng thuế suất thấp hơn, do đó số thuế doanh nghiệp phải nộp cũng thay đổi. Nhiều trường hợp được nộp thuế thấp hơn rất phấn khởi trong việc thực hiện luật thuế mới. Ngược lại có không ít ngành phải nộp thuế cao hơn so với thuế doanh thu đang rất băn khoăn lo lắng, đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay đã phải đương đầu với bao thách thức, khó khăn như ngành cơ khí, kinh doanh khách sạn, du lịch, ăn uống, bảo hiểm, tư vấn vì được khấu trừ thuế đầu vào không đáng kể. 1.2 Tổ chức thực hiện. ã Tổ chức bộ máy chỉ đạo triển khai thực hiện. Chấp hành chỉ thị số 44 CT/TW ngày 04/11/1998 của Bộ Chính Trị và Nghị quyết số 18/1998/QH ngày 25/11/1998 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 208/1998/QĐ-Ttg ngày 26/10/1998 về việc thành lập ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ do một phó thủ tướng chính phủ làm trưởng ban. Thành viên gồm lãnh đạo các bộ: Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban vật giá Chính phủ, Tổng cục hải quan, Tổng cục thuế. Bộ phận thường trực của ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ được đặt tại Bộ Tài Chính. Tiếp theo Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 41/CT-Ttg ngày 7/12/1999 về việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới. Căn cứ vào chỉ thị số 41/CT-Ttg của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương đã thành lập ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới do một đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh làm trưởng ban, thành viên là lãnh đạo các sở, ngành có liên quan. Các ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới đều có chương trình hành động, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận để chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai thực hiện các luật thuế mới; chỉ đạo việc quản lý thị trường, giá cả, xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới. ã Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Sau khi Quốc hội thông qua các luật thuế mới, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, các ban soạn thảo đã tích cực chuẩn bị các văn bản hướng dẫn thi hành các luật thuế mới và các luật có liên quan như: Luật ngân sách, Luật khuyến khích đầu tư trong nước ... Đến ngày 31/12/1998 đã có trên 70 văn bản mang tính pháp quy về cơ bản đã đủ để hướng dẫn thi hành các luật thuế mới; Các văn bản hướng dẫn đã bảo đảm đúng luật, phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. ã Tổ chức công tác hướng dẫn, tuyên truyền. Đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn về mục đích, ý nghĩa, nội dung, tác dụng và quy trình nghiệp vụ quản lý thuế cho cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành, địa phương, cho cán bộ ngành tài chính và ngành thuế, cho các doanh nghiệp quốc doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và ngoài quốc doanh; Việc tuyên truyền về thuế đã được tiến hành thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức: Trên các phương tiện thông tin đại chúng (đài báo trung ương; đài báo địa phương; hệ thống thông tin phường, xã ..), in sách, phát hành tờ rơi, xây dựng phim truyện, hội thảo. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương đã có văn bản hướng dẫn thực hiện chỉ thị số 44 CT/TW của Bộ Chính Trị, tổ chức tập huấn về thuế cho các tổng biên tập báo, cho ban tuyên huấn của các bộ, địa phương để phục vụ cho công tác tuyên truyền, phối hợp với Bộ Tài Chính soạn thảo thông tin vắn tắt về thuế để làm tài liệu sinh hoạt trong các chi bộ Đảng. ã Tổ chức bộ máy, nghiệp vụ quản lý thuế. Cấp mã số cho đối tượng nộp thuế: Việc cấp mã số cho đối tượng nộp thuế nhằm mục đích quản lý số lượng đối tượng nộp thuế và là khâu đầu trong công tác đưa tin học vào quản lý thuế. Đến hết quý I/1999 đã cấp mã số thuế cho 985.194 cơ sở kinh doanh, trong đó có 485.517 cơ sở kinh doanh được phép thành lập và có đăng ký kinh doanh, số còn lại chưa có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn cấp mã số để quản lý thu thuế. Về hoá đơn, chứng từ : Hoá đơn, chứng từ là căn cứ pháp lý để thực hiện việc tính thuế, kê khai thuế, nhất là trong việc tính thuế GTGT. Bộ Tài Chính đã in và cung cấp đủ hoá đơn cho các địa phương, các cơ sở kinh doanh. Đến hết tháng 3 năm 1999 số lượng hoá đơn đã phát hành là 636.315 quyển (trong đó có 434.400 quyển hoá đơn GTGT, 201.915 quyển hoá đơn thông thường) và cho gần 700 cơ sở kinh doanh tự in và sử dụng hoá đơn GTGT. So với năm 1998, việc sử dụng hoá đơn cuả các doanh nghiệp tăng lên nhiều. Về công tác tin học phục vụ cho công tác quản lý thuế: Việc đưa tin học vào công tác quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế. Ngay từ khi các luật thuế mới mới được thông qua, ngành thuế đã tiến hành xây dựng chương trình quản lý thuế bằng máy vi tính và mua sắm, lắp đặt máy vi tính.đến ngày 17/1/1999, các cục thuế đã được trang bị đủ máy tính cần thiết phục vụ cho đối tượng nộp thuế, nhập tờ khai, kiểm tra tờ khai, in thông báo thuế, lưu trữ dữ liệu về thuế. Ngành thuế cũng đã tổ chức lại bộ máy quản lý thuế ở cục thuế, chi cục thuế để phù hợp với nghiệp vụ, kỹ thuật quản lý các loại thuế mới. Đã thành lập phòng thuế quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ ở các cục Các chi cục thuế chỉ quản lý các hộ kinh doanh cá thể nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Việc thay đổi tổ chức bộ máy quản lý thuế nêu trên đã giúp cho ngành thuế nắm chắc trên 90% số thu ở cục thuế đồng thời tạo điều kiện từng bước đưa công tác tin học vào quản lý thuế. Ngoài ra ngành thuế còn xây dựng quy trình quản lý các loại thuế mới, quy trình quản lý thuế đối với cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh. Ngành hải quan cũng đã xây dựng quy trình tự kê khai, tự tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu. Nhìn chung, do có sự chỉ đạo sát sao của TW Đảng, Bộ chính trị, uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã cùng với các bộ, các ngành, các địa phương chuẩn bị thực hiện các luật thuế mới tương đối cụ thể, đồng bộ từ khâu chuẩn bị tổ chức bộ máy chỉ đạo, xây dựng văn bản, hướng dẫn, tuyên truyền về thuế đến khâu tổ chức quản lý thuế. 2. Kết quả sau bốn năm thực hiện luật thuế GTGT Sau hơn hai năm thực hiện luật thuế GTGT về cơ bản đã đạt được các yêu cầu đề ra. Luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, sản xuất, kinh doanh giữ được ổn định, bước đầu đã phát huy được tác dụng. Những nét chung trong hai năm đầu thực hiện 2.1. Khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản, giảm khoảng 10% so với trước đây, toàn bộ thuế GTGT của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0065.doc