Thụ lý vụ án hành chính, thực trạng và giải pháp

Lời cảm ơn

Lời giới thiệu

Chương một: Những vấn đề lý luận chung về thụ lý vụ án hành chính .

1.1 Khái quát chung về thụ lý vụ án hành chính .

1.1.1 Khái niệm thụ lý vụ án hành chính .

1.1.2 Vị trí vai trò của thụ lý trong thủ tục tố tụng hành chính

1.2 Căn cứ thụ lý vụ án hành chính .

1.3 Thời điểm thụ lý vụ án hành chính .

Chương hai: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính .

1.1 Thụ lý vụ án hành chính theo pháp luật hiện hành .

1.2 Thực tiễn việc thụ lý vụ án hành chính những năm năm gần đây .

1.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thụ lý vụ án hành chính .

Chương ba: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính .

1.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính .

1.2 Mục tiêu và phương hướng .

1.3 Các giải pháp cụ thể

1.3.1 Công tác xây dựng pháp luật .

1.3.2 Công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật .

1.3.3 Kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ, Thẩm phán hành chính

1.3.4 Công tác tổng kết thực tiễn xét xử hành chính

1.3.5 Các biện pháp khác .

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo và chú thích .

 

doc67 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2915 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thụ lý vụ án hành chính, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì Toà án sẽ trả lại đơn kiện, không tiến hành thụ lý vụ án. (Thẩm quyền giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo được quy định tại Mục 21 Chương II từ Điều 19 đến Điều 29 Luật khiếu nại, tố cáo). Tuy nhiên, nếu so sánh điểm này với Pháp lệnh luật sư ngày 25 tháng 07 năm 2001 thì lại có sự khác biệt. Cụ thể: Có những trường hợp giai đoạn tiền tố tụng hành chính chỉ cần qua một lần khiếu nại theo thủ tục hành chính, nhưng cũng có trường hợp phải khiếu nại đến lần thứ hai theo thủ tục hành chính rồi mới có thể khởi kiện vụ việc ra Toà án. Ví dụ: Theo Khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh luật sư thì: “Cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chủ nhiệm Đoàn luật sư có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ nhiệm. Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư mà đã được Chủ nhiệm Đoàn luật sư hoặc Chủ tịch Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư giải quyết nhưng vẫn còn khiếu nại. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì người khiếu nại có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ tư pháp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của pháp luật.” 7. Sự việc đã dược giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Ví dụ: Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hay bản án sơ thẩm không bị kháng cáo… Bởi vì ở đây, sự việc đã được giải quyết . Nếu muốn xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì các đương sự có thể theo đuổi tiếp vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong trường hợp nhận thấy bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là không đúng, thì Thủ tướng Chính phủ có quyền yêu cầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao xem xét, giải quyết theo thẩm quyền và trả lời Thủ tướng Chính phủ trong thời hạn 30 ngày (Điều 8 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). 8. Việc được khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Thẩm quyền mà điều luật này đề cập tới là thẩm quyền theo loại việc. Thẩm quyền theo loại việc được quy định tại Điều 11 và Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Đương nhiên, một khi vụ việc không thuộc thẩm quyền thì Toà án không thể thụ lý để giải quyết. Tóm lại, khi thấy việc khởi kiện vụ án hành chính được thực hiện bởi đúng chủ thể, đúng thủ tục, trình tự, thời hạn pháp luật quy định, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án,… thì Toà án sẽ tiến hành thụ lý vụ án hành chính. Việc thụ lý đã đặt ra cho Toà án một trách nhiệm rất lớn và có nhiều ý nghĩa. Toà án sẽ không thụ lý vụ án và trả lại đơn kiện cho người khởi kiện nếu như họ thuộc vào một trong các trường hợp không thụ lý vụ án: Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng ... 1.3 THỜI ĐIỂM THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH . Trong thủ tục tố tụng hành chính, việc xác định thời điểm thụ lý vụ án hành chính cũng có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nó liên quan đến việc xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hành chính qua các giai đoạn tiếp theo của tố tụng hành chính. Vậy, ngày Toà án thụ lý vụ án hành chính được xác định là ngày nào ? Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định :…“Toà án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án thụ lý vụ án vào ngày nhận được đơn kiện”. Như vậy thì ngày thụ lý vụ án hành chính được xác định tuỳ thuộc vào trường hợp người khởi kiện có thuộc diện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hay không. Có thể nói, nộp tiền tạm ứng án phí không phải là điều kiện thuộc về nội dung vụ kiện nhưng cũng cần thiết để Toà án quyết định thụ lý vụ án hành chính hay không thụ lý vụ án hành chính. Khi nhận được đơn kiện, Toà án phải tiến hành xem xét theo quy định chung những căn cứ thụ lý, căn cứ không thụ lý vụ án hành chính để đi đến quyết định có thụ lý vụ án hành chính hay trả lại đơn kiện. CHƯƠNG HAI ***** THỰC TRẠNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. Xã hội hiện hữu như là một chỉnh thể bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, tất cả các lĩnh vực ấy đều đòi hỏi có sự điều chỉnh của pháp luật ở một chừng mực nhất định. Trong đó, thủ tục tố tụng hành chính đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vận hành của nền hành chính quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân. Tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hành chính, mọi chủ thể đều phải thực hiện theo đúng những trình tự thủ tục pháp luật quy định, từ bước khởi kiện, thụ lý- xét xử- cho đến thi hành án. Và mặc nhiên sẽ không có “đường tắt” khi các chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng này. Pháp luật về xét xử hành chính là một lĩnh vực pháp luật mới xuất hiện ở nước ta. Về mặt hình thức thể hiện cũng như nội dung của các văn bản tuy còn ở một mức độ khiêm tốn, song như chúng ta đã biết, nó đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hoạt động tố tụng hành chính . Ngày 21 tháng 5 năm 1996, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (gọi tắt là Pháp lệnh), Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1996. Để triển khai thực hiện Pháp lệnh, ngày 6 tháng 7 năm 1996 Toà án nhân dân tối cao ra Công văn số 39/ KHXX Hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh; Thanh tra nhà nước ra Thông tư số 1118/TTNN ngày 10/07/1996 Hướng dẫn một số vấn đề về khiếu nại hành chính; Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Toà án, trong đó có một phần quy định về án phí hành chính. Có thể nói, đây là một nỗ lực rất lớn của Toà án nhân dân tối cao và Thanh tra nhà nước… nhằm đưa Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính sớm đi vào cuộc sống. Song, cho tới khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính sửa đổi, bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 1998 được ban hành thì Pháp lệnh ngày 21/5/1996 và Công văn 39/KHXX là hai văn bản chủ yếu nhằm triển khai hoạt động tố tụng hành chính. Về mặt số lượng, cho tới nay các văn bản pháp luật về xét xử hành chính mới chỉ chưa đầy mười văn bản. Tất nhiên, chúng ta không thể chỉ đánh giá thực trạng pháp luật xét xử về hành chính thông qua số lượng các văn bản được ban hành để điều chỉnh hoạt động này, nhưng đây cũng là một vấn đề cần phải quan tâm trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính. Tiếp đó, ngày 01 tháng 01 năm 1999, Luật khiếu nại, tố cáo có hiệu lực; ngày 05 tháng 01 năm 1999, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng có hiệu lực thi hành. Như vậy, hệ thống văn bản pháp luật đóng vai trò là cơ sở pháp lý cho việc quản lý hành chính nhà nước nói chung và cho việc thụ lý vụ án hành chính nói riêng của Toà án. Căn cứ vào những quy định cụ thể của pháp luật mà các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, và nhiệm vụ chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra: “Khắc phục tình trạng trùng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm chễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của Toà hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính” [Tr 217- 2]. Tuy nhiên, một thực tế là, về mặt hình thức pháp lý, các văn bản pháp luật về xét xử hành chính hiện nay còn bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12 tháng 11 năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung ngày 27 tháng 12 năm 2002, chưa tạo ra một khung pháp luật đầy đủ nhằm giải quyết tốt các khiếu kiện hành chính của công dân, tổ chức thông qua hoạt động xét xử hành chính, ảnh hưởng trực tiếp tới việc cá nhân, tổ chức khi khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án, gây khó khăn cho Toà án trong việc thụ lý cũng như xét xử vụ án hành chính. Chủ yếu các văn bản trực tiếp hướng dẫn thi hành pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Toà án nhân dân tối cao ban hành đều tồn tại dưới dạng “Công văn”. Trong khi đó, theo tinh thần của Điều 1, Điều 17 và Điều 67 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành nhất thiết phải tồn tại dưới hình thức “Nghị quyết”. Do vậy, việc sử dụng thuật ngữ “Công văn” của Toà án nhân dân tối cao để hướng dẫn thi hành “Pháp lệnh” là không đúng về mặt hình thức văn bản. Về mặt nội dung, có thể nói ngay sau khi được thông qua, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh, ngày 25 tháng 12 năm 1998, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Về cơ bản, những tồn tại trong Pháp lệnh năm 1996 đã được Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung khắc phục, song những hạn chế cũng như sự bất cập, không hợp lý vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, luận văn chỉ xin được trình bày những bất cập trong lĩnh vực thụ lý vụ án hành chính: § Thứ nhất: Về đối tượng khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính. Vấn đề này hiện nay còn nhiều vướng mắc khi áp dụng để giải quyết các vụ án hành chính. Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh thì cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước,… nhưng phải là quyết định hành chính lần đầu và thuộc loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà hành chính. Nhưng, những loại quyết định nào được coi là quyết định hành chính lần đầu là một vấn đề còn vướng mắc, cần được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn giải thích. Bởi vì, trong thực tế có rất nhiều loại quyết định: có quyết định được cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành lần đầu tiên; có trường hợp quyết định hành chính đã được thay đổi bổ sung do có khiếu nại của đương sự; hoặc quyết định hành chính của cấp dưới đã bị cơ quan hành chính cấp trên huỷ bỏ, sau đó cơ quan cấp dưới lại ra quyết định khác. Có trường hợp khi giải quyết khiếu nại tiếp theo, cơ quan hành chính cấp trên đã ra quyết định có nội dung hoàn toàn mới, hoặc có một phần là mới thì quyết định của cấp trên có được coi là quyết định hành chính lần đầu không? Trong quá trình trao đổi, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Toà án nhân dân địa phương đối với từng vụ án cụ thể, Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn một số trường hợp được coi là quyết định hành chính lần đầu và nếu việc khởi kiện đúng theo quy định của pháp luật thì Toà án có thẩm quyền thụ lý để giải quyết. Những trường hợp sau đây được coi là quyết định hành chính lần đầu: + Sau khi một cơ quan hoặc một người có thẩm quyền đã ban hành một quyết định hành chính lần đầu, nhưng sau đó do tự kiểm tra hoặc do có khiếu nại, phát hiện có sai phạm, cơ quan hoặc người đó đã ra quyết định khác thay thế, thì quyết định sau vẫn được coi là quyết định hành chính lần đầu. + Sau khi một cơ quan hoặc hoặc một người có thẩm quyền đã ban hành một quyết định hành chính lần đầu và bị khiếu nại. Sau đó, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo đã ra quyết định huỷ quyết định hành chính lần đầu; giao về giải quyết lại và cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính lần đầu lại ra quyết định mới, thì quyết định mới này vẫn được coi là quyết định hành chính lần đầu. + Khi giải quyết việc khiếu nại tiếp theo đối với quyết định hành chính lần đầu, cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo đã ra một quyết định, trong đó có những phần quyết định hoàn toàn mới so với nội dung của quyết định hành chính lần đầu, làm phát sinh thêm quyền và nghĩa vụ của người phải chấp hành quyết định, thì phần quyết định mới của cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo trong trường hợp này được coi là quyết định hành chính lần đầu. + Khi giải quyết một vụ án hành chính, Toà án đã ra một bản án có hiệu lực, tuyên huỷ một quyết định hành chính bị khiếu kiện, vì lý do quyết định hành chính đó trái pháp luật, giao về để cơ quan hoặc người có thẩm quyền ra quyết định mới thay thế quyết định đã bị huỷ bỏ cho đúng pháp luật, thì quyết định mới này cũng được coi là quyết định hành chính lần đầu [Tr 4, 5- 13]. Tuy những cố gắng nêu trên của Toà án nhân dân tối cao ít nhiều khắc phục được những hạn chế của pháp luật tố tụng hành chính hiện hành, nhưng đó không phải là cách giải thích chính thức pháp luật tố tụng hành chính, do vậy cũng không đem lại tác dụng thiết thực cho việc xét xử hành chính của các cấp Toà án. Bên cạnh đó, theo Điều 2 và Điều 18 Pháp lệnh năm 1998 thì đối tượng khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là các quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức theo nghĩa xác định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 4 Pháp lệnh này. Nhưng thực tế xét xử hành chính của Toà án và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án lại chỉ ra rằng, có nhiều khiếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành chính không thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án mà thuộc thẩm quyền xét xử khác của Toà án; ngược lại, có một số khiếu kiện về quyết định, hành vi không phải là quyết định hành chính, hành vi hành chính thì lại thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án. Ví dụ: Theo Điểm a Khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh thì quyết định hành chính, hành vi hành chính của Toà án nhân dân các cấp, Viện Kiểm Sát nhân dân các cấp, văn phòng Chủ tịch nước, văn phòng Quốc Hội cũng là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Còn Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ là “cơ quan hành chính nhà nước” nhưng quyết định hành chính của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ lại không thuộc phạm vi xét xử của Toà hành chính. Hơn nữa, vấn đề Hội đồng Nhân dân có ban hành quyết định hành chính hay không và quyết định cá biệt của Hội đồng Nhân dân có thể bị khởi kiện ra Toà hay không là vấn đề còn nhiều điểm cần bàn mà Pháp lệnh chưa quy định. § Thứ hai: Về điều kiện thụ lý vụ án hành chính. Pháp lệnh 1998 thiếu quy định thống nhất về điều kiện khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án hành chính. Khi quy định về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính còn nhiều điểm bất hợp lý, ảnh hưởng tới quyền khởi kiện của công dân. Đơn cử trường hợp về trình tự khởi kiện vụ án hành chính. Tuy Pháp lệnh quy định thống nhất việc khiếu nại theo thủ tục hành chính là trình tự bắt buộc trước khi khởi kiện ra trước Toà án; song, việc khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính thì không cần phải chờ có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, còn việc khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì trong mọi trường hợp đều phải chờ đến khi có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, điều đó là không thống nhất. Bên cạnh đó, Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: “Toà án trả lại đơn kiện khi đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo”. Như vậy, muốn khởi kiện vụ án hành chính thì người khởi kiện không được tiếp tục khiếu nại người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Điều này rõ ràng không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của nước ta hiện nay, bởi vì trình độ pháp luật của công dân tương đối thấp, nên khi có quyền lợi ích bị xâm hại họ thường gửi đơn khiếu nại tới các cấp khác nhau. Do vậy, vô hình chung mất quyền khởi kiện ra Toà án. Thêm vào đó, xét cả về lý luận và thực tiễn, việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại ở những lần tiếp theo, thậm chí có cả quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, đều không đồng nghĩa với việc: giải quyết khiếu nại đã hoàn toàn đúng đắn. Ngay tại Điều 28 Luật khiếu nại tố cáo cũng đã xác lập một cơ chế xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật là giao cho Thủ tướng Chính Phủ có thẩm quyền phán quyết đối với các quyết định đó… Vậy, nếu xuất phát từ mục đích của việc thiết lập Toà hành chính là cơ chế tài phán độc lập với nền hành chính, thì tại sao không cho Toà hành chính phán quyết đối với các quyết định về điều kiện như đã nêu ở trên. Đồng thời, tại Điều 13 Pháp lệnh quy định: “Trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính không được giải quyết hoặc trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức đã được giải quyết lần đầu nhưng người khiếu nại không đồng ý, thì họ có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì phân biệt thẩm quyền như sau: a) Nếu chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền; b) Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình”. Quy định như vậy, một mặt vừa tạo điều kiện cho công dân có thể lựa chọn cơ quan giải quyết hợp lý, thuận tiện đối với nguyện vọng của mình, vừa tạo những khả năng để công dân lựa chọn tiếp theo [Trang 37- 15]. Tuy nhiên, trong trường hợp có nhiều người liên quan đến một quyết định hành chính hay hành vi hành chính thì họ chỉ có quyền khởi kiện khi đã thoả thuận và thống nhất tuyệt đối trong việc không khiếu nại những lần tiếp theo. Còn khi không thống nhất được, dù chỉ một người có khiếu nại ở những lần tiếp theo thì toàn bộ những người khác đương nhiên bị tước quyền khởi kiện, điều đó đang là một thực tế. Do vậy, nên chăng trong trường hợp này, pháp luật nên quy định: Việc khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc là khởi kiện ra Toà được quyết định thông qua việc biểu quyết theo đa số. Ngoài ra, cũng cần bàn thêm rằng, Pháp lệnh quy định như trên là chưa đủ để phân định thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Cụ thể: Một là: Chưa quy định trường hợp vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, vừa có quyết định khởi tố vụ án hành chính tại Toà án. Theo tinh thần trên, nên quy định việc thụ lý giải quyết khiếu kiện trong trường hợp này thuộc về người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Hai là: Chưa quy định trường hợp có nhiều người, trong đó có người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền và vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Theo tinh thần trên, thì cũng nên quy định việc giải quyết khiếu kiện trong trường hợp này thuộc về người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Ba là: Trường hợp nhiều người cùng khởi kiện một quyết định hành chính hay hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, nhưng việc khởi kiện lại xảy ra không cùng thời gian, vậy trong trường hợp này Toà án giải quyết như thế nào? Về điểm này cần có kiến nghị: Trong trường hợp có nhiều người cùng khởi kiện một quyết định hành chính tại Toà án có thẩm quyền, nhưng có người khởi kiện trước, có người khởi kiện sau (khởi kiện không cùng thời gian), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể tiến hành thụ lý để giải quyết từng vụ án riêng hoặc có thể nhập thành một vụ án để giải quyết. Về trường hợp Viện Kiểm Sát khởi tố vụ án hành chính, Pháp lệnh 1998 quy định một cách chung chung, thiếu tính cụ thể (như tại Điều 18- Pháp lệnh) gây khó khăn cho Viện Kiểm Sát khi khởi tố và Toà án khi thụ lý các vụ án này, trong khi lại quy định rất cụ thể, chi tiết về thủ tục khởi kiện của đương sự. § Thứ ba: Về phạm vi các việc thuộc thẩm quyền thụ lý và xét xử vụ án hành chính của Toà án theo Điều 11 Pháp lệnh 1998. Để xác định một vụ việc có thuộc thẩm quyền thụ lý và xét xử hành chính của Toà án hay không phải dựa vào các quy định của pháp luật trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước tương ứng mà Điều 11 kể trên đã xác định. Mặc dù Điều 11 đã liệt kê những vấn đề rất quan trọng, nhưng thực ra không thể liệt kê tất cả các vấn đề khác liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức mà các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính có thể xâm phạm. Vì vậy, sẽ rất khó cho Toà án khi xác định căn cứ thụ lý vụ án hành chính (về những vấn đề đó). Chẳng hạn: Cơ quan giao thông công chính đào một số đường ống trên giao lộ, gây tai nạn giao thông cho công dân đi đường. Căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự thì công dân có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Song, trường hợp họ khởi kiện ra Toà hành chính với yêu cầu cơ quan hữu quan phải bồi thường thiệt hại về hành vi hành chính nêu trên thì Toà án giải quyết như thế nào? Đây là một án lệ khá phổ biến ở các nước có nền tư pháp hành chính phát triển [Tr 518- 16]. Bên cạnh đó, các lĩnh vực khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án lại thường không có quy định cụ thể, thích ứng trong pháp luật hành chính. Ví dụ như tranh chấp hành chính về trưng dụng, trưng mua được quy định xét xử ở Toà án khi có khiếu kiện, song, pháp luật quy định về chúng còn chưa đầy đủ, tản mạn. Mặt khác, quy định mở về thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án theo Khoản 10 Điều 11 kể trên (“Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật”) lại thiếu cụ thể, tạo ra sự tuỳ tiện trong việc bổ sung thẩm quyền xét xử hành chính cho Toà án. Đây cũng là nguyên nhân tạo ra sự không thống nhất về đối tượng khởi kiện và điều kiện thụ lý các vụ án hành chính. § Thứ tư: Về thẩm quyền thụ lý vụ án hành chính của các Toà án. Việc xác định thẩm quyền thụ lý vụ án hành chính của Toà án theo Điều 12 Pháp lệnh 1998 được xác định tuỳ thuộc vào vị trí của người bị kiện và nguyên tắc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ, trên cơ sở có tính đến khả năng xét xử thiếu khách quan của Toà án cấp Huyện. Tuy nhiên, Điểm d Khoản 2 Điều 12 kể trên cũng không xác định đầy đủ thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án cấp Tỉnh đối với khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Mặt khác, việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính theo lãnh thổ mới chỉ dựa vào các dấu hiệu nơi cư trú của người khởi kiện hay người bị kiện mà chưa dự liệu theo dấu hiệu nơi có bất động sản liên quan đến khiếu kiện và theo sự lựa chọn của người khởi kiện. Chẳng hạn: Trường hợp có nhiều người khởi kiện về quyết định, hành vi hành chính của cơ quan, tổ chức ở trung ương, mà họ lại có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở ở những địa phương khác nhau; hoặc là trường hợp người khởi kiện cùng lúc khiếu kiện đối với nhiều quyết định, hành vi của nhiều cơ quan, tổ chức ở các địa phương với nhau. Điều đó ít nhiều ảnh hưởng tới hoạt động thụ lý vụ án hành chính của Toà án, cần phải được sửa đổi bổ sung trong nay mai. Ngoài những hạn chế nêu trên thì còn một số hạn chế khác cũng ảnh hưởng tới hoạt động thụ lý vụ án hành chính của Toà án. Tuy các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính không nhiều nhưng bản thân các văn bản này cũng bộc lộ nhiều điểm mâu thuẫn, không thống nhất với nhau, gây ra không ít trở ngại cho việc thụ lý, đồng thời làm giảm hiệu quả của hoạt động xét xử về hành chính của Toà án, hạn chế vai trò của Toà án trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, của nhà nước và của các tổ chức khác trong xã hội. Ngày 20 tháng 07 năm 1996 Thanh tra nhà nước ban hành Thông tư số 1118/ TT-TTNN về việc “Hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay”. Tại Điểm 6, mục I Thông tư nói trên có hướng dẫn: “Các vụ việc khiếu nại hành chính đã được giải quyết hết thẩm quyền và theo trình tự hành chính được quy định tại Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 hoặc các văn bản pháp luật hiện hành, nếu công dân vẫn không đồng ý với quyết đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0053.doc
Tài liệu liên quan