Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai

Mục lục

Lời nói đầu

Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân

I. Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu . 1

1. Khái niệm 1

2. Bản chất. 1

II. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 2

1. Sơ lược tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua. 2

2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. 4

2.1 Xuất khẩu là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế 4

2.2 Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn, nguồn ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán 5

2.3 Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho người lao động 6

2.4 Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta 6

3. Một số hình thức xuất khẩu ở nước ta hiện nay 7

Chương 2 : Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt may Bình An

I. Giới thiệu khái quát về Công ty dệt may Bình An 9

1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty dệt may Bình An 9

2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty dệt may Bình An 10

3. Cơ cấu tổ chức hoạt động của Công ty dệt May Bình An. 11

4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh. 12

4.1 Đặc điểm sản phẩm dịch vụ 12

4.2 Phương thức sản xuất kinh doanh 13

II. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty

1. Tình hình xuất khẩu của Công ty trong thời gian qua. 15

Phân tích tình hình xuất khẩu theo thị trường xuất khẩu. 15

Phân tích tình hình xuất khẩu theo mặt hàng. 20

Phân tích tình hình xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu. 22

Phẩn tích tình hình kim ngạch xuất khẩu qua các năm. 23

2. Chính sách giá xuất khẩu của Công ty. 24

3. Kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu của Công ty. 25

III. Đánh giá hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt may Bình An

1. Những thành tựu Công ty đã đạt được. 26

2. Những khó khăn tồn tại. 27

2.1 Công tác marketing chưa hoàn thiện 27

2.2 Vốn kinh doanh thiếu và chưa được sử dụng hiệu quả 28

2.3 Giá xuất khẩu thiếu tính cạnh tranh 28

2.4 Vấn đề thương hiệu của Công ty chưa được coi trọng 29

2.5 Đội ngũ cán bộ thiếu kinh nghiệm chuyên môn 29

3. Nguyên nhân của các tồn tại. 30

Chương III : Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt May Bình An trong thời gian tới

I. Định hướng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015 31

II. Phương hướng phát triển của Công ty dệt may Bình An thời gian tới. 32

III. Một số giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt Bình An 33

1. Tổ chức tốt công tác điều tra nghiên cứu thị trường. 34

2. Hoàn thiện kênh phân phối xuất khẩu trên thị trường truyền thống, mở rộng xuất khẩu sang thị trường mới và củng cố vững chắc thị trường nội địa. 34

3. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. 37

4. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ công nhân tay nghề cao, tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý. 37

IV. Một số kiến nghị. 39

1. Kiến nghị với Nhà nước. 39

2. Kiến nghị với Công ty. 40

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

 

 

 

 

 

 

 

 

docx46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yếu sản xuất cho nhu cầu xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Hiện nay tiêu thụ khăn tắm trong nước có nhu cầu tăng lên. - Bộ khăn dùng cho khách sạn bao gồm: khăn tắm, khăn mặt, khăn tay, thảm chùi chân, và áo choàng tắm. - Các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũi giầy phục vụ cho các cơ sở may xuất khẩu như giầy Ngọc Hà, may X40.. Với sản phẩm màn tuyn: Công ty sản xuất 100% sợi PETEX đảm bảo cho màn tuyn có độ bền cao chống được oxy hoá gây màn vàng. Loại sản phẩm này mới được đưa vào sản xuất trong Công ty hơn 10 năm, nên khối lượng sản xuất ra chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn. 4.2 Phương thức sản xuất kinh doanh của Công ty dệt Minh Khai Với chức năng nhiệm vụ là một doanh nghiệp nhà nước sản xuất các sản phẩm khăn tay phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu ra nước ngoài và nhu cầu trong nước. Công ty dệt Minh Khai đã có phương thức sản xuất kinh doanh riêng rất hiệu quả. Hình thức chủ yếu của Công ty là hợp đồng xuất khẩu trực tiếp. Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên giành được quyền xuất khẩu trực tiếp. Với hình thức này, Công ty trực tiếp tiếp xúc với khách hàng là các Công ty thương mại nước ngoài, khi có những thoả thuận trao đổi đi đến thống nhất về mẫu mã, số lượng sản phẩm, hai bên sẽ chính thức kí kết hợp đồng. Phần lớn mặt hàng khăn bông xuất khẩu của Công ty áp dụng phương thức này. Các mặt hàng khăn bông không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu được tiêu thụ tại thị trường nội địa chiếm 10% nhưng kích thước, mầu sắc và mẫu mã sản phẩm không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Công ty chỉ có một vài sản phẩm sản xuất theo thiết kế phục vụ trong nước. Việc tiêu thụ chủ yếu thông qua các trung gian thương nghiệp như: các Công ty thương mại trong và ngoài nước, các trung tâm thương mại, các siêu thị ở Hà nội và tư thương. Từ đó sản phẩm của Công ty được bán cho những người mua bán và bán lẻ tới tay người tiêu dùng. Bên cạnh đó, còn có hình thức xuất khẩu uỷ thác. Công ty xuất khẩu sản phẩm thông qua Công ty trung gian trong nước như: Tổng Công ty dệt may Vịêt Nam (Vinatex), Công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ (Artexpor). Công ty cũng kí hợp đồng với các siêu thị ở Hà nội cung cấp các sản phẩm khăn bông để bán tại các siêu thị này với phương thức giao hàng trước thanh toán tiền khi giao lô hàng sau. Mặt khác, Công ty cũng nhận sợi, hoá chất, thuốc nhuộm của khách hàng để tiến hành sản xuất sản phẩm cho khách hàng qua các hợp đồng gia công. Loại hợp đồng này đối với Công ty không nhiều, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng nhận gia công, đơn giá gia công, thời hạn giao hàng, định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Ngoài ra Công ty còn thực hiện hợp đồng nhận vốn ứng trước II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY 1. Tình hình xuất khẩu của Công ty trong thời gian qua Đối với Công ty dệt Minh Khai, hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động quan trọng nhất của Công ty. Doanh thu xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn, từ 80-85% tổng doanh thu hàng năm. Để có thấy rõ tình hình xuất khẩu của Công ty chúng ta phải đi vào phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty trong những năm qua theo các tiêu thức sau: 1.1. Phân tích tình hình xuất khẩu theo thị trường xuất khẩu Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì thị trường là vấn đề quan tâm hàng đầu của Công ty. Thị trường có ý nghĩa quyết định tới sự sống còn của Công ty vì thị trường liên quan tới các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh xuất khẩu cũng như các hoạt động khác. Vì vậy, Công ty phải biết lựa chọn, đánh giá và phân tích những thị trường có triển vọng nhất để xây dựng chiến lược cạnh tranh phù hợp. Bảng 2: Giá trị kim ngạch xuất khẩu theo thị trường giai đoạn 1998-2002 Đơn vị: 1000 USD TTXK Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 GT % GT % GT % GT % GT % Nhật Bản 3.010 91,74 3.587 88,6 3.373,2 90 4.240 91,38 4.038 93,58 EU 118 3,61 302,1 7,46 206,14 5,5 250 5,39 220 5 Châu Á 152 4,65 160,9 3,94 168,66 4,5 150 3,23 57 1,42 Tổng KN 3.280 100 4.050 100 3.748 100 4.640 100 4.315 100 (Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường) * Thị trường Nhật Bản Thị trường Nhật Bản là thị trường truyền thống của Công ty và cũng là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Công ty đã thiết lập và duy trì mối quan hệ làm ăn với các khách hàng Nhật Bản trong một thời gian dài, từ năm 1983 cho tới nay. Nhật Bản đã trở thành bạn hàng truyền thống của Công ty. Công ty xuất khẩu sang Nhật Bản những sản phẩm khăn bông bao gồm khăn ăn, khăn mặt, khăn tắm, khăn Jacquard, áo choàng tắm các loại phong phú về kiểu dáng và mẫu mã. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này luôn chiếm một tỷ trọng cao nhất khoảng 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty hàng năm (xem bảng 2). Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang Nhật Bản đạt 3,01 triệu USD chiếm tỷ trọng 91,74% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng lên 3.587.000 USD tức là chiếm 88,6% và sang đến năm 2001 con số này đã tăng lên 4.240.000 USD đạt tỷ trọng 91,38%. Tuy nhiên, mức tăng kim ngạch xuất khẩu của Công ty trên thị trường Nhật Bản không đều và không ổn định. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì hiện này Công ty đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia… Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 2002 giảm xuống còn 4.038.000 USD tức là chỉ bằng 95% so với năm 2001 (4.240.000USD). Nguyên nhân là do có sự cạnh tranh về giá giữa các Công ty xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam, các Công ty này liên tục tự giảm giá để cạnh tranh, giành quyền được ký hợp đồng xuất khẩu, nên giá xuất khẩu của Công ty giảm. Mặt khác các đối tác phía Nhật Bản khi sang đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu thường đưa ra mức giá giao dịch rất rẻ là mức giá mà Trung Quốc xuất khẩu vào Nhật Bản để gây sức ép buộc Công ty phải giảm giá theo họ. Hơn nữa, chính phủ Nhật Bản hiện nay đang có ý định hạn chế nhập khẩu mặt hàng dệt nên Bộ Thương Mại Việt Nam đã yêu cầu các Công ty Việt Nam xuất khẩu sản phẩm dệt vào thị trường Nhật Bản phải hạn chế số lượng xuất khẩu để phía Nhật Bản không áp dụng biện pháp tự vệ tức là hạn chế nhập khẩu nữa. Qua phân tích tình hình xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản của Công ty, chúng ta có thể thấy trở ngại lớn nhất của Công ty đối với việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đó là vấn đề khả năng cạnh tranh của Công ty. Các sản phẩm khăn bông của Trung Quốc mặc dù có chất lượng không cao hơn so với chất lượng sản phẩm cuả Công ty nhưng lại có lợi thế là giá cả xuất khẩu rẻ hơn. Trong khi đó để sản xuất khăn bông xuất khẩu, Công ty phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài, hơn nữa phải đầu tư nhiều để đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất nên chi phí giá thành sản xuất sản phẩm mới đội lên cao, làm cho sản phẩm của Công ty có giá bán cao. Đặc biệt là Trung Quốc vừa mới gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO nên thuế xuất khẩu các sản phẩm của Trung Quốc cũng được giảm nhiều. Đây là một bất lợi lớn đối với toàn ngành dệt may Việt Nam cũng như đối với Công ty, buộc Công ty phải có biện pháp đối phó với vấn đề này. Một vấn đề nan giải đối với Công ty và cũng là bài toán khó đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đó là vấn đề thương hiệu. Trong tương lai Công ty nhất định phải giải quyết được vấn đề này để nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty sang thị trường Nhật Bản. * Thị trường EU Quan hệ thương mại Việt Nam EU đang ngày càng phát triển và có triển vọng tốt đẹp. Hiện nay EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Từ những năm 1980 Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước thành viên EU như Đức, Pháp, Anh... xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt phát triển mạnh từ khi có hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam EU. Đối với Công ty dệt Minh Khai, thị trường EU chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường của Công ty. Theo đánh giá của Công ty phần tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU chỉ đạt khoảng 3-5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Công ty xuất khẩu sang thị trường EU các mặt hàng khăn tắm, khăn mặt, khăn ăn, thảm chùi chân, áo choàng tắm và một số loại khăn Jacquard. Qua bảng 2, ta thấy kim ngạch xuất khẩu vào EU của Công ty không ổn định mức tăng trưởng hàng năm không đều, biến đông tăng giảm khác nhau. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu vào EU của Công ty đạt 118.402USD. Tuy đây là con số còn khá khiêm tốn song cũng đã nói lên thành công bước đầu của Công ty trong quá trình thâm nhập vào EU. Vì EU là thị trường khá mới mẻ đối với Công ty nên hiểu biết về thị trường này còn nhiều hạn chế. Thông tin mà Công ty có được về thị trường EU chủ yếu là từ các ấn phẩm tạp chí của bộ thương mại và các Công ty của các thương nhân Việt kiều sống ở các nước EU. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng lên 302.100USD. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, cho thấy Công ty hoàn toàn có khả năng thâm nhập vào thị trường EU. Tuy nhiên sang những năm tiếp theo thì kim ngạch xuất khẩu vào EU của Công ty lại bị giảm xuống. Năm 2000 giá trị kim ngạch xuất khẩu sang EU là 206.140USD năm 2001 có tăng lên đôi chút, đạt 250.000USD và trong năm 2002 vừa qua kim ngạch xuất khẩu lại giảm xuống chỉ đạt ở mức 220.000USD. Nguyên nhân của sự giảm sút trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang EU là do: Năm 2000 đồng EURO của Châu Âu bị sụt giảm giá trên 20% so với đồng USD. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu nói chung và hàng dệt may nói riêng của Việt Nam trên thị trường này.Vì thế số lượng sản phẩm xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai cũng bị giảm xuống. Sau khủng hoảng khu vực các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn như Indonesia, Thái lan, Ấn Độ,...đã phục hồi, cùng với Trung Quốc bắt đầu các chương trình phát triển mới mạnh mẽ hơn trước đây bằng việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị, khuyến khích đầu tư, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nên đã nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm của họ. Trong khi đó Việt Nam, sau cuộc khủng hoảng thì giá nhân công Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt may xuất khẩu lại trở nên cao hơn so với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Do đó giá hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực khoảng 10-15% và cao hơn giá hàng Trung Quốc 20%. Hơn nữa, năng suất lao động công nhân Việt Nam còn thấp chỉ bằng 50-70% so với các nước trong khu vực. Với khả năng xuất khẩu hàng dệt may như vậy Việt Nam không thể tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt với các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trên thị trường EU. Việt Nam mới thâm nhập vào thị trường EU nên hiểu biết về thị trường của Công ty còn quá ít ỏi, thiếu thông tin về thị trường giá cả, thị hiếu và mặt hàng được ưa chuộng, kinh nghiệm thương trường còn thiếu. Công ty thực hiện xuất khẩu sản phẩm sang thị trường EU chủ yếu thông qua một số các Công ty thương mại trung gian trong nước như Tổng công ty dệt may Việt Nam Vinatex, Tổng công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Artexport và các công ty của thương nhân Việt kiều. Không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên Công ty thiếu sự hiểu biết về nhu cầu và sở thích thực sự của người tiêu dùng trong cộng đồng các nước EU. Tuy nhiên Công ty cũng có lợi thế về chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Nếu thị trường Nhật Bản đã chấp nhận sản phẩm của Công ty có nghĩa là đã tạo nên uy tín và hình ảnh cho sản phẩm của Công ty đối với các doanh nhân trên thị trường quốc tế. Do đó khả năng thâm nhập vào một thị trường có đòi hỏi chất lượng cao như EU là hoàn toàn có thể được hiện thực hoá. * Thị trường Châu Á Bên cạnh hai thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất là Nhật Bản và EU, Công ty dệt Minh Khai còn thực hiện xuất khẩu sang một số nước Châu Á như Đài Loan, Hông Kông, Hàn Quốc. Nói chung tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường các nước này là rất thấp vì đây là những khách hàng không thường xuyên của Công ty. Các nước này cũng là các quốc gia sản xuất và xuất khẩu khăn bông nên Công ty chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường này các loại sản phẩm áo choàng tắm, ga trải giường, ngoài ra còn có một số loại khăn ăn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty vào thị trường Châu Á còn quá nhỏ bé chưa xứng đáng với tiềm năng tiêu dùng của thị trường đông dân này. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu của Công ty vào thị trường này là 152.700 USD đạt tỷ trọng 4,65%. Năm 1999 đạt 160.900 USD chiếm 3,94% tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo đà tăng trưởng này, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang các nước này đạt 168.660 USD. Trong hai năm trở lại đây con số này lại tụt giảm. Năm 2001, mức xuất khẩu chỉ đạt 150.000 USD và sang đến năm 2002 thì giảm xuống chỉ còn 57.000 USD. Kết quả này cho thấy mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Công ty trên thị trường Châu Á là không ổn định và có xu hướng giảm xuống. Công ty chưa chú trọng tới việc xây dựng, củng cố và phát triển vị thế của mình và chỉ có quan hệ làm ăn nhỏ lẻ với các khách hàng Châu Á. Tuy nhiên, lợi thế của Công ty trên thị trường này là sản phẩm áo choàng tắm. Đây là sản phẩm cao cấp, tuy mới được sản xuất ra trong những năm gần đây nhưng đã có được chất lượng tốt và kiểu dáng mẫu mã đẹp hợp thời trang nên rất được người tiêu dùng ưa chuộng. 1.2. Phân tích tình hình xuất khẩu theo mặt hàng Từ khi nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý theo cơ chế thị trường, trong những năm qua mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn song Công ty vẫn đứng vững được trên thị trường, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng tốt, màu sắc đẹp, độ bền cao. Mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty gồm có: khăn ăn, khăn mặt, khăn tay, áo choàng tắm và một số sản phẩm khác như: thảm chùi chân, ga trải giường, khăn bếp... Ngay từ khi chuyển đổi sang kinh doanh xuất khẩu là chính, Công ty dệt Minh Khai cũng xác định sản phẩm chính xuất khẩu của mình là khăn bông dệt các loại. Hàng năm việc xuất khẩu sản phẩm này luôn mang lại cho Công ty nguồn lợi nhuận xuất khẩu cao do doanh thu xuất khẩu lớn. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu khăn bông đạt 3.037.000 USD. Năm 2000 do có khó khăn về thị trường và tỷ giá hối đoái không ổn định nên kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2.626.000 USD. Trong 2 năm vừa qua giá trị xuất khẩu tăng lên với kim ngạch xuất khẩu năm 2001 là 3.312.960 USD và năm 2002 đạt 3.020.500 USD. Bảng 3 : Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng Đơn vị:1000 USD SPXK Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 GT % GT % GT % GT % 1. Khăn bông 3.037,5 75 2.623,6 70 3.312,96 71 3.020,5 70 2. Áo choàng tắm 405 10 374,8 10 412,96 8,9 517,8 12 3. Màn tuyn 607,5 15 749,6 20 914,05 20 776,7 18 Tổng 4.050 100 3.748 100 4.640 100 4.315 100 (Nguồn: Phòng Kế hoạch Thị trường) Sở dĩ nhóm sản phẩm này có giá trị xuất khẩu cao là do có sự đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc phong phú như vàng, trắng, xanh hồng...Một số loại sản phẩm còn được trang trí in hình các con giống, hoa văn rất bắt mắt do đó rất hấp dẫn và được người tiêu dùng ưa chuộng. Hơn nữa, sản phẩm khăn bông lại có chất lượng tốt, khăn dày dặn, thấm nước, độ mềm mại cao, tạo sự thoải mái khi sử dụng nên khả năng xuất khẩu các sản phẩm này là rất cao và tốc độ tiêu thụ cao. Sản phẩm áo choàng tắm là sản phẩm mới của Công ty trong những năm gần đây. Tuy mới được đưa vào sản xuất chưa lâu song giá trị kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng áo choàng tắm cũng đã có một vị trí đáng kể khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Đây là loại sản phẩm cao cấp tuy có giá thành cao nhưng chất lượng tốt nên sản phẩm rất được các khách hàng Nhật Bản, Châu Á ưa chuộng. Năm 1999 giá trị xuất khẩu áo choàng tắm đạt 405.000 USD chiếm 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong các năm tiếp theo tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này cũng chỉ dừng lại ở mức 10%. Đó là vì hiện nay Công ty mới chỉ sản xuất được 12 loại áo choàng tắm, kiểu dáng và mẫu mã còn thiếu đa dạng. Hơn nữa sản phẩm lại có giá bán cao phục vụ cho nhóm người tiêu dùng có thu nhập cao là chủ yếu nên chưa mở rộng được thị trường tiêu thụ.Vì vậy trong thời gian tới Công ty cần có hướng mở rộng thị trường xuất khẩu cho sản phẩm này. Đối với mặt hàng xuất khẩu là màn tuyn, đây là mặt hàng mà Công ty chủ yếu tiêu thụ ở trong nước, ít xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Sản phẩm này xuất khẩu chủ yếu thông qua Đan Mạch rồi mới đưa sang thị trường Châu Phi. Việc thực hiện xuất khẩu mặt hàng này của Công ty là thực hiện theo chương trình phòng chống sốt rét của Liên Hợp Quốc nên kim ngạch xuất khẩu không cao. Giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này chỉ chiếm khoảng 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty trong những năm tới Công ty cần có biện pháp để thúc đẩy việc xuất khẩu mặt hàng này như đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, ký kết nhiều hợp đồng xuất khẩu. 1.3. Phân tích hoạt động xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu Công ty dệt Minh Khai tiến hành xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài theo hai phương thức: - Xuất khẩu trực tiếp cho các siêu thị và các công ty thương mại tại Nhật Bản. - Xuất khẩu gián tiếp thông qua các công ty thương mại trung gian trong và ngoài nước. Đối với hình thức xuất khẩu trược tiếp, Công ty áp dụng chủ yếu cho thị trường Nhật Bản. Công ty tiến hành xuất khẩu trực tiếp dựa trên cơ sở của phòng kế hoạch thị trường. Hiện nay Công ty vẫn chưa có chi nhánh xuất khẩu đặt tại thị trường truyền thống này để làm công tác thăm dò nghiên cứu thị trường và bán hàng do khả năng tài chính còn hạn chế. Trong những năm qua, Công ty dệt Minh Khai đã chủ yếu thực hiện xuất khẩu trực tiếp, tỷ trọng xuất khẩu theo phương thức này luôn đạt ở mức cao, trên 95% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu trực tiếp qua các năm đều tăng, đặc biệt là năm 2001 đạt 4.565.000USD. Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu Đơn vị: 1000USD PTXK Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 GT % GT % GT % GT % GT % XK trực tiếp 3.150 96 3.928,5 97 3.673 98 4.565,7 98,4 4.284,8 99,3 XK gián tiếp 131 4 121,5 3 74 2 74,3 1,6 30,2 0,7 Tổng KNXK 3.281 100 4.050 100 3.748 100 4.640 100 4.315 100 (Nguồn: Phòng Kế hoạch thị trường) Công ty đã tạo được mối thiện cảm cũng như tạo dựng được hình ảnh và uy tín với các khách hàng Nhật Bản nên rất được khách hàng tin tưởng, hàng năm luôn ký kết hợp đồng với số lượng lớn. Đối với những thị trường khác, Công ty chủ yếu sử dụng hình thức xuất khẩu gián tiếp. Điều đó giúp Công ty có thể tiếp cận và thâm nhập vào các thị trường này thông qua các nhà nhập khẩu trung gian hoặc các công ty thương mại trung gian. Khác với hình thức xuất khẩu trực tiếp, kim ngạch xuất khẩu gián tiếp năm sau lại giảm so với năm 1998. Nguyên nhân là do Công ty chưa chiếm lĩnh được các thị trường này. 1.4. Phân tích tình hình kim ngạch xuất khẩu qua các năm. Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1998-2002 Đơn vị: USD Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng KNXK 3.281.900 4.050.000 3.478.000 4.640.000 4.315.000 (Nguồn: Phòng Kế hoạch thị trường) Qua bảng trên ta có thể thấy KNXK của Công ty tăng không đều. Năm 1998 giá trị KNXK của Công ty đạt 3.281.900 USD, và tăng lên 4.050.000 USD vào 1999. Đây là một nỗ lực rất lớn của Công ty. Do năm 1998 tình hình suy thoái kinh tế khu vực nền kinh tế Nhật Bản không những bị ảnh hưởng mà còn chịu sự tác động mạnh mẽ làm cho nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng suy thoái. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của Công ty. Qua năm 2000 giá trị KNXK đã giảm xuống còn 3.748.000 USD. Các năm 2001, 2002 giá trị KNXK có tăng nhưng tốc độ tăng không cao thậm chí năm 2002 đã giảm từ 4.640.000 xuống còn 4.315.000 USD. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự cạnh trang gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may là Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia… Đây là một bất lợi lớn đối với Công ty, buộc Công ty phải có biện pháp đối phó với vấn đề này. Nhưng nhìn chung Công ty có thể thấy năng lực sản xuất của Công ty là tiềm tàng. Chất lượng, mẫu mã sản phẩm của Công ty vẫn được khách hàng Nhật Bản rất ưa chuộng. Đó là cơ hội giúp Công ty phát triển sản xuất, là một trong những điều kiện thuận lợi để Công ty đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng trong những năm tiếp theo. 2. Chính sách giá xuất khẩu của Công ty Giá cả có ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường xuất khẩu. Hiện nay chính sách giá xuất khẩu mà Công ty dệt Minh Khai đang áp dụng là chính sách giá thống nhất trên mọi thị trường. Mặt khác Công ty xuất khẩu theo điều kiện FOB, chi phí cho sản phẩm xuất khẩu chủ yếu thay đổi theo khối lượng lô hàng xuất nên Công ty dệt Minh khai đã quyết định phải áp dụng chính sách giá này. Hơn nữa, khi áp dụng chính sách giá này, Công ty sẽ không phải tính toán nhiều lần điều đó tiết kiệm được thời gian và chi phí. Nhưng giá cả sản phẩm xuất khẩu của Công ty trở nên kém linh hoạt so với biến động giá cả trên thị trường. Trong xu thế tự do cạnh tranh như ngày nay thì vấn đề thị trường là yếu tố sống còn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Việc áp dụng các chính sách giá này trở nên không thích hợp với các điều kiện thị trường và cạnh tranh trên mỗi một thị trường quốc gia do đó làm cản trở việc xuất khẩu sản phẩm của Công ty và không tối đa hóa được lợi nhuận cho Công ty. Hiện nay mức giá xuất khẩu mà Công ty đang áp dụng cao hơn giá nội địa. Hơn nữa sản phẩm khăn bông tuy là sản phẩm thiết yếu nhưng lại khó xác định được khối lượng nhu cầu. Vì thế Công ty khó xác định được khối lượng sản phẩm sẽ bán ra. Như vậy khó xác định được lợi nhuận và khả năng rủi ro cao và khó có thể cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh trong nước và nước ngoài đặc biệt là với Trung Quốc. 3. Kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu của Công ty Công ty dệt Minh Khai chủ yếu thực hiện xuất khẩu sản phẩm khăn bông sang thị trường Nhật Bản. Kênh phân phối xuất khẩu trên thị trường Nhật Bản của Công ty được xây dựng như sau: Công ty dệt Minh Khai Nhà nhập khẩu Người bán lẻ Người tiêu dùng cuối cùng Kênh phân phối xuất khẩu trên thị trường xuất khẩu Nhật Bản còn quá đơn giản mới chỉ có hai thành viên. Thành viên thứ nhất trong kênh phân phối là các nhà nhập khẩu Nhật Bản bao gồm các Công ty thương mại ASAHI, ITOCHO, VINASEIKO, HOUEI, DAIEI, FUKIEN...đây là những nhà phân phối sản phẩm chính của Công ty. Sản phẩm khăn bông của Công ty tuy đã có những nhãn hiệu riêng nhưng để có thể tiêu thụ được trên thị trường Nhật Bản thì buộc phải sử dụng thương hiệu của các nhà phân phối này thì mới có thể đến tay người tiêu dùng. Thành viên thứ hai trong kênh phân phối là các nhà bán lẻ. Trên thị trường Nhật Bản đó là các siêu thị, các khách sạn, nhà hàng. Với kênh phân phối này trong những năm qua Công ty dệt Minh khai đã từng bước xâm nhập và chiếm lĩnh được thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên đây cũng là một yếu điểm của Công ty vì Công ty không trực tiếp nhận được thông tin từ người tiêu dùng cuối cùng. Trong những năm tới Công ty cần có biện pháp mở rộng kênh phân phối của mình để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu của Công ty hơn nữa. III. Đánh giá hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai 1. Những thành tựu mà Công ty đạt được Thứ nhất, chất lượng sản phẩm của Công ty luôn được khách hàng thừa nhận là sản phẩm có chất lượng tốt. Đây là một lợi thế có ảnh hưởng quan trọng tới khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường xuất khẩu. Công ty dệt Minh Khai với mục tiêu kinh doanh là coi trọng chữ tín và luôn đặt vấn đề chữ tín lên hàng đầu, đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng Nhật cả về chất lượng sản phẩm lẫn mẫu mã, giá và luôn đảm bảo giao hàng đúng hạn như trong hợp đồng quy định. Điều đó đã tạo nên danh tiếng và uy tín cho Công ty. Đồng thời ban lãnh đạo Công ty đã áp dụng thành công hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000 được tổ chức GLOBAL của Anh cấp chứng chỉ hệ thống đạt tiêu chuẩn ISO quốc tế vào năm 2001.Từ đó đã phát huy tác dụng rất tích cực làm cho năng suất và chất lượng tăng lên. Mặt khác đó còn là kết quả của sự đoàn kết, tinh thần trách nhiệm cao của các cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. Thứ hai, Công ty có nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất khá ổn định. Để đáp ứng cho nhu cầu của sản xuất và yêu cầu của khách hàng Công ty dệt Minh Khai trong những năm qua luôn phải nhập khẩu các nguyên liệu sợi bông, sợi polieste cùng các loại hoá chất, thuốc nhuộm...và nhập khẩu với khối lượng lớn từ các nước Ấn độ, Pakixtan, Indonesia, Nhật Bản...Trong quá trình mua hàng Công ty đã xây dựng được mối quan hệ thân thiện với các nhà cung ứng đâù vào nước ngoài này. Công ty đã tranh thủ được sự giúp đỡ của các bạn hàng, ký kết hợp đồng mua hàng với các điều khoản ưu đãi. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Công ty có thể chủ động trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhanh chóng kịp thời các đơn đặt hàng của các thị trường xuất khẩu. 2. Những khó khăn tồn tại Bên cạnh những thuận lợi tạo điều kiện cho Công ty

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxMột số giải pháp nhằm thúc đẩy việc xuất khẩu tại Công ty dệt may Bình An.docx
Tài liệu liên quan