Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Nhật Bản và các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu

Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản theo em điều đầu tiên các doanh nghiệp Việt Nam cần làm đó là nâng cao chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng áp dụng quản lý chất lượng theo HACCP, GMP, SSOP và các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm khác. Có đáp ứng được những đòi hỏi về chất lượng thì sản phẩm mới có khả năng xuất khẩu sang Nhật Bản. Nâng cấp chất lượng nguyên liệu, giảm giá đầu vào bằng cách trang bị hệ thống bảo quản ngay trên tàu, xây dựng hệ thống chợ cá tại các cảng cá của các tỉnh trọng điểm, các trung tâm công nghiệp chế biến và tiêu thụ. Cần đặc biệt quan tâm tới việc nuôi trồng thuỷ sản tạo nguồn nguyên liệu chính cho chế biến vì những sản phẩm nuôi trồng thường cho chất lượng tốt và số lượng đồng đều hơn sản phẩm đánh bắt, việc bảo quản trước khi chế biến cũng thuận tiện hơn và giảm bớt rủi ro do vi sinh vật gây nên. Tăng cường đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá công nghệ chế biến và bảo quản thuỷ sản để đảm bảo chất lượng thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật. Các doanh nghiệp cần theo sát thị trường công nghệ để hiện đại hoá công nghệ chế biến, bảo quản thuỷ sản.

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1788 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Nhật Bản và các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật Bản đạt 372.639 tấn, giá trị 28,36 tỷ yên (237,35 triệu USD), giảm 6,5% khối lượng và 6,3% về giá trị so với năm 2004. Nhìn chung cả khối lượng và giá trị mặt hàng này đều lên xuống qua các năm theo xu hướng đồ thị hình sin. Ngoài các nhóm hàng thuỷ sản nhập khẩu nêu trên hàng năm Nhật Bản cũng nhập khẩu một lượng thuỷ sản đóng hộp không nhỏ. Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng trên dưới 25 nghìn tấn thuỷ sản đóng hộp. Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 13 tỷ yên, giảm 29% so với mức 18,3 tỷ yên năm 1997. Nguyên nhân của việc sụt giảm này là do nhập khẩu quá nhiều đồ hộp cá ngừ giá rẻ chủ yếu từ Thái Lan, Inđônêxia và một số nước khác. Nhật Bản nhập khẩu thuỷ sản từ 15 nước chính sau đây, trong đó Việt Nam là nước cung cấp đứng thứ 9 với thị phần chiếm 4,65%. Các nước xuất khẩu thuỷ sản chính cho thị trường Nhật Bản. Để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản các Doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này cũng cần tìm hiểu rõ hệ thống phân phối thuỷ sản tại Nhật Bản trong đó ít nhất 70% sản phẩm thuỷ sản được phân phối thông qua thị trường bán buôn nhưng hầu hết thuỷ sản đông lạnh nhập khẩu như cá ngừ, tôm, cá hồi đông lạnh được phân phối theo các kênh chuyên biệt. Có hai loại chợ buôn thuỷ sản được điều chỉnh bằng luật thị trường bán buôn thuỷ sản gồm chợ bán buôn trung ương (chợ phục vụ cho trên 20 vạn dân, do Tổng cục thuỷ sản quản lý và Chợ bán buôn địa phương (do tỉnh thành phố quản lý). Ngoài ra Nhật Bản còn có chợ cá quy mô nhỏ nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thuỷ sản. 2 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Hàng thuỷ sản là một trong ba sản phẩm truyền thống của Việt Nam (dầu thô, hàng dệt may, hàng thuỷ sản) xuất khẩu sang Nhật Bản. Đây là các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Chỉ riêng ba mặt hàng này thường xuyên chiếm trên 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. 2.1 Cơ cấu sản phẩm việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản Các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản thường được chế biến dưới dạng đông lạnh, ướp đông, tươi, tẩm ướp gia vị, và một số loại ở dạng đồ hộp. Trong số các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản, các mặt hàng tôm các loại, cá ngừ các dạng, nhuyễn thể đông lạnh luôn là ba mặt hàng chính chiếm tỷ trọng lớn (trên 75% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản). Tỷ trọng của từng nhóm mặt hàng này qua từng năm chỉ tăng giảm nhỏ, dao động từ 1-2%. Có thể nói, cơ cấu xuất khẩu của các nhóm mặt hàng này là ổn định trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản. Đây cũng là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu mạnh nhất. Trong đó, nhóm mặt hàng tôm chiếm tỷ trọng cao nhất với tỷ trọng trên 60%. Cỏc mặt hàng TS của VN xuất khẩu sang Nhật Bản, 1997-2005 Đơn vị: 1000 USD 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tụm ĐL 221.390 215.261 240.133 291.035 289.606 345.394 388.541 521.427 517.831 Cỏ ĐL (trừ cỏ ngừ) 35.083 24.610 19.868 26.348 25.330 33.575 43.288 50.527 53.621 Mực ĐL 45.786 45.350 39.453 41.958 46.368 46.438 35.534 46.173 50.573 Bạch tuộc ĐL 22.246 12.151 15.996 12.046 14.667 18.228 20.421 29.295 27.247 Mực khụ 21.922 17.121 14.997 15.369 13.198 17.326 10.766 20.255 17.225 Cỏ khụ 3.993 3.304 2.415 2.537 2.304 3.526 1.609 4.315 7.537 Ruốc khụ 2.684 3.253 2.853 2.893 2.520 2.389 2.005 2.582 1.865 Cỏ ngừ ĐL 2.614 8.345 9.685 11.700 21.258 21.737 10.778 8.630 13.027 Mặt hàng khỏc 27.058 28.142 37.673 65.587 50.650 48.846 69.896 88.991 111.842 Tổng cộng 382.776 357.537 383.073 469.473 465.901 537.459 582.838 772.195 785.876 Nguồn : Trung tõm Tin học - Bộ Thuỷ sản Tôm xuất khẩu của Việt Nam là mặt hàng rất được ưa chuộng tại thị trường Nhật chiếm 67,% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản. Trong mấy năm gần đây (2001-2004), nhập khẩu tôm của Nhật Bản từ Việt Nam có xu hướng tăng. Năm 2004, nhập khẩu tôm đông lạnh của Nhật Bản từ Việt Nam đạt khối lượng 62.451 tấn, giá trị trên 521,42 triệu USD, tăng 22% về khối lượng, 34,2% về giá trị so với năm 2003 và tăng 26,9% về khối lượng, 50,9% về giá trị so với năm 2002. Nhưng năm 2005 đạt 61.963 tấn, giá trị 517,83 triệu USD, giảm nhẹ khoảng 0,8% về khối lượng và 0,7% về giá trị so với năm 2004. Tuy nhiên trong những năm qua tôm xuất khẩu của Việt Nam chỉ đứng ở vị trí thứ tư và phải cạnh tranh với hàng thuỷ sản có nguồn gốc từ ấn độ, Inđônêxia, Thái Lan. Công nghệ chế biến thuỷ sản của các nước này phát triển hơn nhiều so với Việt Nam, đặc biệt là Thái Lan với hệ thống quản lý chất lượng khắt khe nên chất lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu thuỷ sản của Thái Lan thường rất cao. Cá ngừ là mặt hàng lớn thứ 2 trong tổng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản. Năm 2004, cá ngừ của Việt Nam sang thị trường này chiếm 19% tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam, đạt giá trị 13,02 triệu USD, đứng thứ sau Mỹ (37%) trong danh sách thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam. Xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản chỉ chiếm được một lượng nhỏ trong tổng cá ngừ nhập khẩu của thịt trường Nhật Bản (2.819,9 tấn), (trong đó chiếm 3,5% tổng nhập khẩu cá ngừ mắt to tươi của Nhật Bản và 4,8% tổng nhập khẩu cá ngừ vây vàng tươi của Nhật Bản.) Mặt hàng cá ngừ của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản luôn phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Ngoài ra, việc nhập khẩu cá ngừ còn chịu ảnh hưởng của các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm, như quy định về hàm lượng thuỷ ngân trong cá ngừ nhập khẩu. Nhóm mặt hàng nhuyễn thể gồm: bạch tuộc, mực ống, mực nang. Trên thị trường Nhật Bản, bạch tuộc của Việt Nam phải cạnh tranh với bạch tuộc có nguồn gốc từ Tây Phi nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào và giá xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản ngày càng giảm. Đối với sản phẩm mực nang hiện nay Việt Nam là nước đứng thứ hai về cung cấp mực nang cho Nhật Bản sau Thái Lan. Nhìn chung hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản thường có giá cả thấp hơn một số nước, chất lượng đã có thể cạnh tranh được song cần nâng cao khâu bảo quản sau khai 2.2 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Nhật Bản Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy trong vòng 10 năm từ năm 1997–2007, thuỷ sản Việt Nam đã có bước tiến dài trong việc thâm nhập thị trường Nhật Bản. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường này chỉ đạt 382.776.000 USD sau mười năm kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên gần 2 lần (754.000.000 USD năm 2007). Kim ngạch thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản tăng dần đều từ năm 1997 đến năm 2004 và đạt mức cao nhất vào năm 2006 với 844.000.000 USD. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản là biểu đồ tăng trưởng hình sin với một năm tăng và năm tiếp sau giảm về khối lượng kim ngạch xuất khẩu. Điều này chứng tỏ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản vẫn còn thiếu ổn định và có nhiều điểm yếu tiềm ẩn. Năm 2006 Nhật Bản chính thức áp dụng Luật thực phẩm sửa đổi, trong đó có những quy định chặt chẽ hơn về dư lượng hoá chất, kháng sinh trong thực phẩm nhập khẩu. Chinh việc áp dụng luật này đã bộc lộ rõ những điểm yếu còn tồn tại của chất lượng sản phẩm thuỷ sản Việt Nam với việc hàng loạt các lô hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản bị phát hiện có chứa dư lượng thuốc kháng sinh. Trong năm này hàng loạt các lô hàng thuỷ sản của Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản bị phát hiện nhiễm chất Chlorampheningcol và đặc biệt một số lô nhiễm AOZ. Bên phía Nhật Bản đã nhiều lần cảnh báo phía doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng tình trạng trên vẫn còn tái diễn nhiều lần tại nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật Bản. Đến tháng 12 năm 2006, Nhật Bản chính thức áp dụng lệnh kiểm tra100% đối với các sản phẩm tôm tự nhiên (kể cả sơ chế) có xuất xứ từ Việt Nam. Như vậy, mặt hàng tôm của Việt Nam, không phân biệt tôm nuôi hay tôm tự nhiên đều bị Nhật áp dụng lệnh kiểm tra 100%. Lệnh kiểm tra này đã trực tiếp làm tăng chi phí xuất khẩu các sản phẩm tôm của Việt Nam và gián tiếp làm giảm kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản từ 844 triệu USD năm 2006 xuống còn 754 triệu USD năm 2007. Tuy nhiên những số liệu này cũng phản ánh rõ những yếu kém còn tồn tại trong ngành chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đó là chất lượng vệ sinh an toàn còn thấp không đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường Nhật Bản. 3. thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp khi xuất khẩu vào thị trường Nhật bản 3.1 Thuận lợi Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản với bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông, lạch, vùng đặc quyền kinh tế biển khoảng hơn 1 triệu km2 với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo, vùng, vịnh, đầm phá và nhiều ngư trường.Ngoài ra Việt Nam còn có thêm 1,4 triệu héc-ta diện tích đánh bắt nội đồng gồm sông ngòi, hồ đầm và ruộng cá có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản. 600.000 hec-ta tập trung ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 80.000 hecta còn lại nằm ở vùng Đồng bằng Sông Hồng phía Bắc và vùng Duyên Hải. Theo số liệu của ngành thuỷ sản, trên hai phần Việt Nam có khoảng 2.000 loài cá biển trong có xấp xỉ 130 loại có giá trị thương mại. Lượng cá biển ước tính khoảng 4,2 triệu tấn và tổng tài nguyên có thể phục hồi ước tính khoảng 1,73 triệu tấn. Bên cạnh đó nhiệt độ các vùng biển của Viêt Nam tương đối ấm và ổn định quanh năm đã điều kiện lý tưởng cho sự sinh trưởng của các loài thuỷ sản. Thêm vào đó hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc cho phép nuôi tôm, cá và các loại thuỷ sản khác đã tạo cho ngành thuỷ sản Việt Nam có một nguồn nguyên liệu thuỷ sản dồi dào, đa dạng, tạo ra nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Bên cạnh nguồn tài nguyên dồi dào trong những năm gần đầyngành thuỷ sản Việt Nam cũng đã phát triển mạnh và đồng bộ. Tổng giá trị đánh bắt gia tăng ổn định trong 10 năm qua do năng suất và số lượng tàu thuyền đánh bắt tăng lên. Các nà nghiên cứu do Viện nghiên cứu thuỷ sản tiến hành ước tính trữ lượng xa bờ của cả nước là 1.93 triệu tấn trong đó 770.000 tấn có thể khai thác được. Điều này cho thấy phát triển đánh bắt xa bờ có một tiềm năng to lớn để gia tăng sản lượng đánh bắt. Tuy nhiên sản lượng từng đơn vị khai thác đã giảm xuống đáng kể và có xu hướng chuyển sang các loại cá nhỏ hơn. Tuy nhiên các chuyên gia hảI sản dự báo nguồn hải sản sẽ không vượt quá 1,5 – 1,6 triệu tấn/năm. Do đó ngành nuôi trồng thuỷ sản sẽ còn tiếp tục phát triển nữa. Một thuận lợi khác của ngành thuỷ sản Việt nam là ngành chế biến xuất khẩu phát triển rất nhanh. Hiện nay Việt Nam đã tiếp cận với trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến của khu vực và thế giới trong một số lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đảm bảo chất lượng và có tính cạnh tranh, tạo dựng được uy tín trên thị trường thế giới. Hiện nay cả nước có gần 500 nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Chất lượng sản phẩm thuỷ sản không ngừng được nâng lên do các cơ sở chế biến ngày càng hiện đại, công nghiệp tiên tiến, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản của tư nhân phát triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên dưới 100 triệu USD một năm. Nhật Bản là thị trường có truyền thống nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua. So với thị trường Mỹ và EU thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã thiết lập được mối quan hệ với nhiều bạn hàng Nhật Bản. Trong những năm qua, các doanh nghiệp xuất khẩu của ta sang thị trường Nhật Bản không ngừng đẩy mạnh nghiên cứu thị trường và tìm kiếm bạn hàng với phương châm: coi thị hiếu là yếu tố quan trọng hàng đầu, chủ động tiếp cận thị trường để nắm bắt sự thay đổi về nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng, để sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 3.2 khó khăn Một khó khăn lớn nhất hiện nay doanh nghiệpViệt Nam gặp phải khi xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nhật Bản đó là vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm 2006 và năm 2007 là hai năm mà vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm được các cấp các ngành quan tâm đặc biệt do số lượng các vụ hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản bị nhiễm dư lượng kháng sinh cấm tăng đột biến. Và hậu quả của tình trạng trên là việc Nhật Bản áp dụng quyết định kiểm tra 100% dư lượng chất chloramphenicol và chất AOZ đối với mặt hàng tôm (bao gồm cả tôm nuôi và tôm tự nhiên) và mực của Việt Nam xuất sang Nhật. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín hàng thuỷ sản Việt Nam, có thể ảnh hưởng xấu đến kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản và các thị trường khác. Mặc dù Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia chế biến và xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới nhưng trong khi cả nước hiện có 470 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản thì có đến 154 doanh nghiệp tức gần 33% số doanh nghiệp không chịu nâng cấp cơ sở sản xuất vệ sinh kém, thiếu đội ngũ và thiết bị kiểm tra vệ sinh an toàn cho sản phẩm của nhà máy mình. Bên cạnh đó nguồn nguyên liệu đầu vào của ngành thuỷ sản không đảm bảo được chất lượng do trong nhiều năm qua nông dân và ngư dân nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản của Việt Nam đã sử dụng nhiều các thuốc thú y và các loại hoá chất xử lý ao nuôi, hoá chất bảo quản thuỷ sản đánh bắt cũng như hoá chất trị bệnh cho tôm. Bên cạnh đó các thức ăn và các thuốc thú y sử dụng trong nuôi tôm cũng làm nhiễm chất AOZ vào các sản phẩm thủy sản và việc sử dụng Chloramphenicol trong việc bảo quản tại các cơ sở thu mua, sơ chế đã làm nhiễm chất này vào các lô hàng mực và tôm. Những nguyên nhân này đã đặt ra yêu cầu cấp bách cho các cấp các ngành có liên quan đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản và các doanh nghiệp đó là phải kiểm soát được chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào để chế biến sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Khó khăn thứ hai của thuỷ sản Việt Nam là sự mất cân đối cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Trong nhiều năm qua 90% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là dạng sản phẩm thuỷ sản tươi, ướp đông lạnh, (riêng giáp xác nhuyễn thể 80-85%). Sự mất cân đối về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu một mặt thể hiện lợi thế so sánh của mặt hàng thuỷ sản Việt Nam mặt khác lại thể hiện sự yếu kém của ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản nước nhà nhưng đây lại cũng là tiềm năng để Việt Nam đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian tới. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian tới sẽ có sự phù hợp tương đối với cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản thế giới: tăng hơn nữa tỉ trọng xuất khẩu đồ hộp thuỷ sản (phát trỉên các mặt hàng mới như đồ hộp cá ngừ hay tôm đồ hộp). Tăng tỷ trọng cá và tỷ trọng thuỷ sản sống trong cơ cấu hàng thuỷ sản tươi, ướp đông và đông lạnh và giảm tỷ trọng hàng đông lạnh sơ chế. Chuyển hướng cơ cấu sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vì hai lẽ cơ bản: khối lượng xuất khẩu tăng và giá xuất khẩu tăng, như vậy sẽ có khả năng tăng lớn kim ngạch xuất khẩu. Như vậy vào đầu thế kỷ 21 ngoài việc phấn đấu để nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu trong trong cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu (các dạng đồ hộp tôm, sasimi, cá ngừ), đưa tỷ lệ này lên 25-30% từ 12-13% như hiện nay, ngoài ra các doanh nghiệp cũng thể gia tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản bằng cách xuất khẩu các thuỷ sản cao cấp ở dạng sống. Khó khăn thứ ba là khả năng cạnh tranh của các mặt hàng thuỷ sản và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Nhật Bản vẫn còn thấp. Khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam xét trên các khía cạnh về giá cả, chất lượng, mẫu mã sản phẩm vẫn còn yếu. Giá thành các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam còn cao do năng suất lao động, thiết bị công nghệ, chất lượng nguyên liệu đầu vào còn thấp làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó chất lượng hàng thuỷ sản Việt nam vẫn thấp hơn so với hàng hoá của các nước khác trong khu vực như Trung Quốc, Hồng Kông, và ngay cả các nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Phillipines. Nguyên nhân của tình trạng này là do mặt bằng về khoa học công nghệ của Việt Nam còn thấp ảnh hưởng đến phương thức chế biến, chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay công nghệ đánh bắt của Việt Nam còn lạc hậu so với thế giới đặc biệt là công nghệ chế biến ngay sau khi đánh bắt vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường Nhật Bản. Mặt khác người Nhật Bản lại tiêu dùng rất nhiều thuỷ sản sống, do đó công nghệ chế biến của Việt Nam cần được đầu tư nâng cấp để đáp ứng cho nhu cầu thị trường Nhật Bản nói riêng và nhu cầu của thế giới. Mẫu mã hàng của doanh nghiệp Việt Nam còn chưa thực sự bắt nhịp với thị trường. Bao bì hàng xuất khẩu trong thời gian qua đã làm mất đi tính cạnh tranh của một sản phẩm, đặc biệt không làm tăng được giá trị của sản phẩm xuất khẩu. Thêm vào đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu cả về năng lực thể chế và năng lực chuyên môn.. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và chuyên môn hạn chế, năng lực kém, hiệu quả và sức cạnh tranh kém, chưa có chiến lược phát triển kinh doanh bền vững, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Phần lớn các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn, mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về thị trường tiêu thụ sản phẩm.... nên hoạt động khó khăn ngay cả ở thị trường nội địa chứ chưa nói tới xuất khẩu. Khó khăn thứ tư của ngành chế biến thuỷ sản Việt Nam đó là thiếu nguồn nguyên liệu. Trong nhiều năm nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam đã bị khai thác cạn kiệt, chi phí đánh bắt tăng cao, hiệu quả khai thác giảm, thị trường đầu ra nguyên liệu khai thác có dấu hiệu chưa lành mạnh.. Do đó, dự báo trong nhiều năm sản lượng khai thác vẫn không tăng. Trong khi đó, năng lực bảo quản nguyên liệu khai thác còn kém, làm cho tỉ lệ nguyên liệu thất thoát sau thu hoạch cao, hoạt động dịch vụ ở các cảng cá chưa đáp ứng yêu cầu bảo đảm chất lượng và tổ chức thị trường nguyên liệu lành mạnh. Hoạt động nuôi trồng còn phân tán, nhỏ lẻ sản xuất chưa theo kế hoạch chung. Cở sở hạ tầng vùng nuôi đang trong giai đoạn quy hoạch đầu tư, nhiều vùng nuôi phát triển tự phát chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, quản lý vùng nuôi chưa được quan tâm đúng mức. Các khu quy hoạch đủ tiêu chuẩn còn phải mất nhiều năm nữa mới có khả năng đưa vào hoạt động ổn định. Với những khó khăn nêu trên vấn đề thiếu nguồn nguyên liệu trong chế biến thuỷ sản sẽ còn diễn ra trong nhiều năm tới và đòi hỏi có giải pháp đồng bộ để giải quyết tình trạng trên. Khó khăn thứ năm các doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật Bản gặp phải đó là khó tiếp cận với hệ thống kênh phân phối hàng hoá trên thị trường Nhật Bản. Thuỷ sản Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại Nhật Bản, các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp việc tiếp cận còn rất hạn chế và chưa có hệ thống. Nguyên nhân của tình trạng trên cũng một phần do hệ thống phân phối sản phẩm thuỷ sản ở Nhật phức tạp và việc lựa chọn nhà phân phối kỹ lưỡng của Nhật Bản. Những yếu tố này cũng tạo ra rào cản lớn đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam muốn xâm nhập thị trường này. Khó khăn thứ sáu doanh nghiệp gặp phải đó là hoạt động xúc tiến thương mại (đặc biệt là chính sách xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia) triển khai còn chậm và lúng túng, hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng nhìn chung vẫn thấp. Hơn nữa, môi trường xã hội và các thể chế hỗ trợ xuất khẩu chậm được cải thiện và chưa đáp ứng được những thay đổi trong tình hình mới. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ (được hiểu là toàn bộ các biện pháp, chính sách có tác động trực tiếp hay gián tiếp khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ cho doanh nghiệp) có ý nghĩa quan trọng đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước. Thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp chính sách khuyến khích xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, công tác hỗ trợ, xúc tiến thương mại của Việt Nam chưa được tiến hành mạnh mẽ và hiệu quả. Các hoạt động cung cấp thông tin, trợ giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm tại thị trường Nhật Bản, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ các đoàn doanh nghiệp Việt Nam khảo sát thị trường Nhật Bản và ngược lại là sự đón tiếp các doanh nghiệp Nhật bản đến Việt Nam...chưa đáp ứng được so với yêu cầu của các doanh nghiệp. Các hoạt động quảng bá thương hiệu Việt Nam của Chính phủ và của bản thân các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Khó khăn thứ bảy là công tác nghiên cứu thị trường Nhật Bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô còn yếu và chưa đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xuất khẩu sang Nhật Bản. Thị trường của Nhật Bản đòi hỏi rất khắt khe về nhiều mặt như chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, thủ tục xuất khẩu, hình thức xuất khẩu. Những vấn đề này quá phức tạp và thường tạo ra những cản trở đối với các doanh nghiệp trong quá trình tìm hiểu và tiếp cận với thị trường Nhật Bản. Mặt khác, nhà nước lại chưa có những biện pháp hỗ trợ thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa vả nhỏ trong quá trình tìm hiểu thông tin thị trương. Điều này đã làm hạn chế khả năng cạnh tranh tiếp cận, chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là tự tìm hiểu về thị trường nên dẫn đến thường phiến diện và không hiệu quả. Khó khăn thứ tám doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản là hiện nay Việt Nam và Nhật Bản chưa ký hiệp định thương mại song phương. Hai nước mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi công hàm và thoả thuận cho nhau hưởng quy chế MFN về thuế suất. Trong khi đó Nhật Bản lại chủ động thúc đẩy đàm phán và ký kết FTA với các nước, đặc biệt là với một loạt các nước ASEAN khác như Thái Lan, Indonexia, Phillipines. Trong điều kiện như vậy, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ ở vào thế bất lợi so với hàng hoá của các nước có FTA với Nhật. Hơn nữa, giữa ta và Nhật cũng chưa đạt được thoả thuận về kiểm dịch hàng nông sản và thuỷ sản, nên vẫn có nguy cơ phía Nhật bản sẽ dựng lên các rào cản kỹ thuật mới để hạn chế nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam. Khó khăn cuối cùng đặt ra không chỉ cho doanh nghiệp mà còn là khó khăn đối với ngành khai thác chế biến thuỷ sản và Việt Nam nói chung đó chính là tình trạng khai thác thuỷ sản không mang tính bền vững. Tình trạng phát triển tự phát nuôi trồng ở một số nơi do qui hoạch tổng thể phát triển ngành chưa được phê duyệt, qui hoạch cụ thể vùng nuôi ở một số địa phương chưa được xây dựng đã dẫn đến những tổn thất lớn trong nuôi trồng thuỷ sản và tàn phá môi trường sinh thái. Không những vậy sự phát triển nhanh chóng của ngành thuỷ sản đã và đang đặt ra những vấn đề môi trường bức xúc trước mắt và lâu dài như suy thoái rừng ngập mặn, mất cân bằng sinh thái, nguy cơ ô nhiễm môi trường và sự phát triển của dịch bệnh. Việc nuôi trồng khai thác thuỷ sản không có quy hoạch cụ thể đã làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn từ 252.500 ha năm 1993 xuống còn 110.00 ha năm 2000. Như vậy trong các thập kỷ 80 và 90 Việt Nam bị mất 142.500 ha rừng ngập mặn. Diện tích rừng bị mất trong thời kỳ này bị quy kết chủ yếu do phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài diện tích rừng bị suy giảm một cách nghiêm trọng việc nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt nuôi trồng tôm sử dụng các hoá chất, chất diệp tạp đã phá huỷ môi trường sống của các loài khác. Các hiện tượng như ô nhiễm môi trường đã xuất hiện trên nhiều khu đầm phá nuôi thâm canh vì người nuôi ngày càng sử dụng nhiều thức ăn, chế phẩm, thuốc và hoá chất. Những hậu quả của việc khai thác nuôi trồng thuỷ sản thiếu bền vững trong nhiều năm qua đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn của các cấp các ngành cũng như sự phối kết hợp của các doanh nghiệp với địa phương và người nuôi khai thác thuỷ sản để đảm bảo tương lai lâu dài cho ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam. dự báo Theo dự báo của các nhà nghiên cứu trong thời gian tới nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản sẽ ngày một cao hơn và nuôi trồng thuỷ sản sẽ là nguồn cung cấp chính để đáp ứng nhu cầu này. Theo dự báo của Trung tâm thuỷ sản thế giới, đến năm 2020, các nước đang phát triển sẽ chiếm tới 77% tổng tiêu thụ thuỷ sản toàn cầu và 79% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới. Như vậy là từ năm 1997 đến năm 2020, tiêu thụ thuỷ sản ở các nước đang phát triển sẽ tăng từ 62.7 triệu tấn lên 98,6 triệu tấn (57%), trong khi các nước phát triển sẽ chỉ tăng 4%, từ 28,1 triệu tấn lên 29.2 triệu tấn. Dự báo đến năm 2015 nhu cầu sẽ đạt 180 triệu tấn tăng gấp 1.4 lần so với 130 triệu tấn vào những năm 1999-2001. Giá thuỷ sản dự báo sẽ tăng 3% vào năm 2010 và 3.2% vào năm 2015. Dự báo thương mại thuỷ sản thương mai thế giới giai đoạn 2006 – 2010 sẽ tăng khoảng 2.5%/ năm. Hàng đông lạnh có xu hướng giảm dần nhưng vẫn đóng vai trò chủ đạo, các mặt hàng tươi sống ngày càng được chú ý tới. Thuỷ sản đóng hộp, thuỷ sản ăn liền cũng giảm nhẹ. Trong số các mặt hàng thuỷ sản, các mặt hàng cá hồi, cá ngừ, cá biển, tôm vẫn đóng vai trò chính. Dự báo trong giai đoạn 5 năm tới, 3 nhóm hàng này sẽ tăng ở mức 3,8%. Tôm cũng sẽ tăng nhưng chỉ ở mức 2,5% trong giai đoạn này và thấp hơn nữa ở giai đoạn sau. Cá rô phi sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường nhờ giá bán ổn định, thịt cá rô phi có hươ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20788.doc
Tài liệu liên quan