Tiểu luận An sinh xã hội tại Việt Nam

Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên có thiên tai (bão tố, lũ lụt, ), hơn nữa, liên miên trải qua chiến tranh chống xâm lược, vì vậy một bộ phận không nhỏ người dân luôn sống trong tình trạng nghèo túng, khó khăn. Tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam sớm nảy nở và phát huy cao độ.Do đó từ khi thực hiện đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta càng quan tâm thực hiện các chính sách cứu trợ, bảo trợ xã hội đối với những người nghèo khó, tàn tật . Cụ thể :

• Chính sách cứu trợ đối với trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa: bao gồm trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất;

• Chính sách đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số: Thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, Thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo, quan tâm đến người lao động nghèo trong quá trình chuyển đổi DNNN thành công ti cổ phần, Thành lập Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu XĐGN, Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa;

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8573 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận An sinh xã hội tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng của doanh nghiệp khi gặp sự cố để họ yên tâm sản xuất kinh doanh. Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô. Bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển nhưng vẫn giữ vững ổn định xã hội trong từng thời kì cũng như trong xuốt quá trình. Với quyền lợi mà người lao động được hưởng khi tham gia BHXH, BHYT đã góp phần thu hút lực lượng lao động vào sản xuất. Việc được tham gia bảo hiểm khi đang làm việc và được hưởng lương hưu khiến ngừoi lao đông hứng khởi trong công việc, tâm lý ổn định hơn. BHXH là một công cụ quan trọng góp phần điều tiết thu nhập một cách công bằng và hợp lý giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Hệ thống trợ cấp Hệ thống này hoàn toàn dựa vào các chế độ phúc lợi từ ngân sách nhà nước. người nhận được các quyền lợi mà không cần phải đóng góp. Chính sách này giúp người co công với cách mạng, những người gặp khó khăn như người già neo đơn, bị thiệt hại do thiên tai lũ lụt … có thể cải thiện đời sống của mình, lạc quan tin tưởng vào tương lai. Qua đó, giúp giữ vững và ổn định chính trị xã hội. 1.4.2.3 Hệ thống các chương trình xã hội khác Đây cũng là kênh phân phối dựa vào ngân sách nhà nước, nó giúp phân phối lại thu nhập theo từng đối tượng. Chính sách này giúp có ý nghĩa ổn định kinh tế một cách bền vững khi cứu trợ và giúp người dân thoát nghèo. 2.Phân tích thực trạng ASXH ở Việt Nam 2.1 Thực trạng chung hiện nay Hiện nay, khả năng tạo việc làm của nền kinh tế còn thấp, tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên còn cao, tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế ( BHYT) bắt buộc của lao động làm việc ngoài nhà nước còn thấp, số lượng người được hưởng trợ cấp xã hội còn thấp… . Đây là một số đặc điểm chính trong thực trạng ASXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ASXH ở nước ta hiện nay vẫn có những thành tựu của nó. Nhìn vào thực trạng ASXH hiện nay ta phải tìm ra cách phát huy những thành tựu, mặt tốt của nó. Đồng thời khắc phục những bất cập, thiếu sót của ASXH hiện nay. Hệ thống các chính sách ASXH của Việt Nam hiện nay gồm nhiều vấn đề. Có thể chia thành 3 nhóm sau đây: 1/ Nhóm các chế độ về Bảo hiểm xã hội: gồm Bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện trên nguyên tắc đóng thị được hưởng và cùng chia sẽ rủi ro. Đối tượng tham gia là Lao động theo quy định, các mức đóng góp tạo thành quỹ chung. Các thành viên được nhận Bảo hiểm khi gặp sự cố. Mọi chi phí lấy từ nguồn quỹ chung. 2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội: bao gồm các chế độ trợ cấp cho các đối tượng gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp phải rủi ro không may trong cuộc sống. Nguồn chi trả lấy từ Ngân sách nhà nước. 3/ Nhóm các chương trình xã hội khác: Chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình y tế, gồm các loại quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác. Sau đây là thực trạng của các vấn đề đó hiện nay: 1/ Nhóm các chế độ bảo hiểm xã hội: Mặc dù được tạo điểu kiện nhưng thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do công tác tổ chức thực hiện các chế độ của BHXH còn nhiều bất cập dẫn đến việc thực thi các qui định của Luật bảo hiểm còn nhiều hạn chế. Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành gồm 03 loại bảo hiểm, gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, và bảo hiểm thất nghiệp đã tạo cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ. Từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên 9,4 triệu người năm 2009, chiếm 18% tổng số lực lượng lao động. Nguồn thu quỹ BHXH bắt buộc tăng nhanh từ 6348 tỷ đồng vào năm 2001 lên 36,8 nghìn tỷ đồng năm 2009. Tổng chi BHXH bắt buộc cũng tăng nhanh, từ 1856 tỷ đồng năm 2001 lên 54,9 nghìn tỷ đồng năm 2009 ( trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là 26,8 nghìn tỷ). Sau một năm triển khai thực hiện BHXH tự nguyện, số người tham gia đạt gần 50000 người. Nguồn thu quỹ BHXH tự nguyện ước tính đạt 69,5 tỷ đồng và chi khoảng 10,9 tỷ đồng năm 2009. Năm 2009, có khoảng 9% dân số từ 50 tuổi trở lên sống bằng lương hưu. Công tác quản lý ngày càng đi vào nề nếp, công tác giám sát ngày càng tăng cường, mạng lưới thu chi ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận chưa tham gia BHXH bắt buộc, Nói về bảo hiểm thất nghiệp, luật chỉ cho phép đơn vị sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên mới được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều này làm hạn chế khả năng tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động làm cho doanh nghiệp nhỏ. Một bộ phận lớn người lao động không có khả năng tham gia BHXH tự nguyện do không có cơ hội được hưởng lương hưu khi đến tuổi về hưu vì điều kiện phải có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. 2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội: Cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị rủi ro trong cuộc sống gồm chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp: cách xác định tai nạn lao động như hiện nay là chưa rõ ràng. Có khả năng phát sinh tiêu cực trong thực hiện trợ cấp này. Trợ cấp ưu đãi người có công đã đạt hiệu quả tích cực. Đã chi trả chế độ trợ cấp 1 lần cho khoảng 3,5 triệu người hoạt động kháng chiến được nhà nước khen tặng Huy chương. Hoàn thành trợ cấp ưu đãi một lần cho khoảng 4 triệu người và khoảng 1,7 triệu thương binh, thân nhân liệt sỹ, lão thành cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng … tiếp tục hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng. Ngoài chế độ trợ cấp thường xuyên, người có công được ưu đãi nhiều mặt của đời sống xã hội. Một số chế độ ưu đãi được hướng dẫn và thực hiện như BHYT, giáo dục đào tạo và một phần của chế độ ưu đãi nhà, đất. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế như người nhận trợ cấp chậm được nhận tiền gây khó khăn cho cuộc sống của họ, các cán bộ xã phường có tình trạng tham nhũng của công, hoặc sử dụng sai mục đích. Đặc biệt, nghị định 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 67/2007NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội đã mở rộng đến các đối tượng tàn tật nặng không có khả năng lao động không chỉ ở các hộ nghèo. Theo ước tính số đối tượng bảo trợ xã hội năm 2010 sẽ tăng lên 1,6 triệu. Cuộc sống các đối tượng được cải thiện do mức chuẩn tính trợ cấp tăng. 3/ Nhóm các chương trình xã hội khác: Xóa đói giảm nghèo: Các chính sách, chương trình giảm nghèo trong thời gian qua đã đóng góp vai trò quan trọng trong bảo đảm ASXH cho người nghèo, hộ nghèo, địa bàn nghèo. Hệ thống chính sách giảm nghèo tương đối toàn diện , tập trung vào các vùng đặc thù, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, miền núi. Giảm nghèo được thực hiện đồng thời trên 3 phương diện: Tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề.. – Hỗ trợ chính sách phát triển thông qua các chính sách tín dụng ưu đãi.. – Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho xã đặc biệt khó khăn. Kết quả tỉ lệ nghèo đã giảm nhanh, từ 29% năm 2002 giảm xuống còn 15,9% năm 2006, và 11,3 % vào cuối năm 2009. Hộ nghèo được tăng cường tiếp cận chính sách. Trong 3 năm 2006-2008, gần 4,2 triệu hộ được vay vốn; gần 2,1 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn làm ăn, chuyển đổi kỷ thuật. 60 nghìn người nghèo được miễn giãm học phí nghề; mỗi năm hỗ trợ được 30nghìn người học nghề; khoảng 7,8 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho trường; 99,54% người nghèo được cấp BHYT năm 2008; 340 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở những địa bàn khó khăn đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, một số hộ nghèo vẫn không được hưởng các chính sách do bị hạn chế điều kiện tham gia.Các chính sách thiên về hỗ trợ bằng tiền và hiện vật hơn là tạo cơ hội việc làm cho người nghèo tự vương lên. Tuy đã có các chính sách miễn giảm học phí, tặng sách tập cho con em hộ nghèo, nhưng nhìn chung chi phí còn lại họ phải chịu còn cao vượt mức khả năng chi trả. Nên một bộ phận con em hộ nghèo vẫn chưa hoàn thành phổ cập giáo dục. Hỗ trợ y tế còn nhiều bất cập. Hệ thống dịch vụ xã hội: Về y tế: song song với phát triển dịch vụ khám chửa bệnh, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các vùng nghèo, đối vơi hộ nghèo ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức như việc thiết lập các tổ, đội y tế lưu động đi khám, chữa bệnh, thực hiện các hoạt động phòng bệnh theo định kỳ ở nông thôn, bản. Tuy vậy, Các trạm y tế ở các xã chất lượng còn thấp, mới có 46% xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ y bác sĩ còn thiếu, các trang thiết bị còn thô sơ, lạc hậu không đãm bảo chất lượng. Về giáo dục: các mô hình giao dục tập trung, trường bán trú dân nuôi, giáo dục từ xa, từng bước được mở rộng dưới nhiều hình thức với sự tham gia của nhiều đôi1 tượng xã hội. Tuy nhiên, phòng học cho học sinh các cấp nhất là ở vùng cao còn tạm bợ. Về điện sinh hoạt: Hệ thống điện ở vùng sâu, vùng xa từng bước được nâng cấp, đồng thời được mở rộng phạm vi bao phủ. Tuy nhiên, vẫn còn 30% số hộ gia đình người dân tộc vẫn chưa có điện so với 12% và 3% của người kinh và người Hoa. Về nước sạch và vệ sinh môi trường: Hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho người dân, nhất là người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa được cải thiện thông qua các chương trình nước sạch quốc gia, của UNICEF. Tuy nhiên, vẫn còn 45% hộ dân tộc thiểu số chưa có nước sinh hoạt. Đại bộ phận dân cư nông thôn vẫn còn phải sử dụng các nguồn nước không đảm bảo và sống trong điều kiện vệ sinh thấp kém. 2.2 Những việc đã làm được của ASXH Cho hộ nghèo vay vốn sản xuất, kinh doanh. Đã giúp nhìều hộ gia đình tự thoát nghèo và không bị tái nghèo. Xây dựng trường học, trường dạy nghề giúp tăng trình độ tri thức, nhận thức của người dân. Xây dựng nhiều bệnh viện, trạm xá kể cả ở những vùng nông thôn, núi,… Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, giảm khỏang cách giàu, nghèo trong nước. Hội chữ thập đỏ họat động khá mạnh, đi tới những vùng khó khăn hỗ trợ về nhiều mặt. Hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật, thành lập quỹ dành cho ngưởi tàn tật. Xây dựng những chương trình di dân, xóa đói giảm nghèo đã đáp ứng về phân bố nguồn nhân lực, ổn định đởi sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng Tái thành lập Tổng cục dạy nghề để tạo điều kiện nâng cao chất lượng việc làm của người lao động thông qua nâng cao chất lượng nguồn lao động. Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT. Hàng năm cứu trợ đồng bào miền trung gặp thiên tai ( bão tố, lũ lụt,..) Thành lập quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, … Đưa ra chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam, chính sách ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công Cách mạng. Chính sách đối với người cao tuổi, đối với bà mẹ và trẻ em. Các chính sách trợ cấp đối với hộ nghèo, ngưởi thất nghiệp,… 2.3 Những việc chưa làm được của ASXH Hệ thống ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau. Một số chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý. Chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Diện bao phủ của hệ thống còn chưa cao, tập trung vào các thành phố lớn và các tỉnh đồng bằng nơi có hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở rộng đối với những đối tượng nông thôn, miền núi vùng khó khăn. Chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế Năng lực tổ chức và quản lý còn hạn chế đối với các loại hình ASXH. Nguồn lực đầu tư cho ASXH của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của ASXH. Hệ thống an sinh xã hội không tác động ngang nhau lên toàn bộ dân số + Người giàu hưởng nhiều, người nghèo hưởng ít. + Các hộ trong nhóm thu nhập cao nhất - nhóm 20% giàu nhất nhận được khoảng gần 40% lợi ích an sinh xã hội. Trong khi đó, nhóm nghèo nhất chỉ nhận chưa tới 7%. + Người sống ở đô thị có cơ hội hưởng nhiều chính sách an sinh xã hội hơn người sống ở nông thôn. + Người dân tộc Kinh, Hoa hưởng lợi nhiều hơn dân tộc thiểu số. + Sống ở miền Bắc hưởng nhiều an sinh xã hội hơn miền Nam. 2.4 Các vấn đề tiêu cực trong ASXH tại Việt Nam. Tuy nhà nước đã có rất nhiều chủ trương, chính sách trong công tác ASXH. Nhưng nhìn chung muốn chúng trở nên hoàn thiện, phát huy được còn phụ thuộc rất nhiều vào công tác lãnh đạo từ Trung ương xuống địa phương. Thành thật mà nói, công tác kiểm tra, giám sát của chúng ta còn yếu.Trong quá trình thực hiện đã xảy ra nhiều tiêu cực làm hạn chế những hiệu quả của việc thực hiện ASXH nước ta, hoặc có tác động ngược lại gây bức xúc, bất bình trong dư luận. Sau đây là một số trong rất nhiều vấn đề tiêu cực mà nhóm đưa ra để phần nào thấy được những bất cập trong việc thực hiện ASXH ở nước ta. Và những suy nghĩ của nhóm chúng tôi xoay quanh vấn đề này Một trong những vấn đề đáng quan tâm là bảo hiểm xã hội. Đối với mọi người trong xã hội mà nói, thì những rủi ro thường xuyên đối mặt là: Tai nạn, ốm đau, thất nghiệp, hoặc đơn thuần là già yếu hết khả năng lao động... Và điều mà họ gặp phải khi các vấn đề trên phát sinh là hạn chế hoặc không có tiền chi phí cho cuộc sống. Đây chính là mục tiêu chính của bảo hiểm xã hội, nhưng trong quá trinh thực hiện thì còn nhiều vấn đề nan giải. Một số bệnh nhân đã không ngần ngại lạm dụng khám chữa bệnh để lấy thuốc bằng cách khám nhiều lần, khám nhiều chuyên khoa, khám bất cứ khi nào...rảnh. Những bệnh nhân tham lam đó không phải chỉ là những người bệnh nghèo khổ muốn kiếm thêm chút tiền mà chính là những y bác sĩ nhà nước tại cơ quan y tế tham gia bảo hiểm y tế (BHYT). Nhiều hình thức lạm dụng và gian lận đã xảy ra như kê nhiều chỉ định cận lâm sàng, kỹ thuật cao để mau thu hồi vốn đầu tư thiết bị cận lâm sàng hoặc để kiếm lời nhiều hơn khi hợp tác với đơn vị thứ ba. Có không ít đơn vị y tế kê khống số lượng, giả mạo chữ ký bệnh nhân để nhận nhiều tiến chi trả BHYT. Có nơi báo cáo quyết toán chỉ căn cứ vào chỉ định của bác sĩ chứ không kiểm tra chỉ định đó có được thực hiện hay không. Việc kiểm tra đối chiếu quyết toán hoàn toàn dựa vào báo cáo của bệnh viện đưa lên chứ không căn cứ vào thực tế. Điều đó tạo kẻ hở cho một số bác sĩ lợi dụng nhiệm vụ tham gia khám BHYT để giả mạo hồ sơ bệnh nhân BHYT rút tiền hàng chục tỷ đồng. Hay như việc chậm chi trả bảo hiểm cho bệnh nhân, hoặc người khám bảo hiểm thì phải chờ lâu hơn người khám không bảo hiểm. Không nói đâu xa, những người già ốm đau, sinh viên, học sinh...mặc dù đến trước nhưng vẫn phải ngồi chờ hàng giờ để được khám bệnh. Như, Tất cả sinh viên các trường Đại Học, Cao Đẳng đều mua BHYT và BHTN đây là các bảo hiểm bắt buộc theo qui định mới của chính phủ. Tuy nhiên, nhìn chung không phải chỉ có riêng bản thân tôi chán nản với BHYT.Chúng tôi tin tưởng vào chính sách của nhà nước.Nhưng chúng tôi lại rất ít khi dùng đến nó, không phải chúng tôi không bị bệnh mà là chúng tôi chấp nhận khám không cần Bảo hiểm. Vì sao? Một câu hỏi mà ai cũng rõ. Vì hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều bệnh viện khám bệnh, khi bệnh nhân khám theo BHYT thì thái độ của các cán bộ, y bác sĩ là không tốt. Đôi khi bệnh nhân phải chờ rất lâu mới tới lượt, khám qua loa, sự thờ ơ với nỗi đau của bệnh nhân khiến tôi nãn lòng. Điển hình: Nhiều sản phụ khó sanh, nhưng vẫn không được mỗ. Bác sĩ nói để sanh tự nhiên cho tốt, nên cứ nằm chờ. Biết là sanh tự nhiên là tốt nhưng thử hỏi làm sao sanh được khi đứa trẻ năng 4,2 kg. Khi họ đau nằm chờ cũng không có người quan tâm, hỏi han. Chỉ mỗ khi người me ngất đi. Đứa trẻ ra đời nhưng thân thể tím tái, phải nằm lồng ấp, phải thở ôxi, được chuẩn đoán là bị ngạt, và cũng có những đứa trẻ bị chết . Sau khi sanh, người nhà đều biếu “phong bì” cho bác sĩ, y tá, hộ lý để họ quan tâm chăm sóc hơn. Thái độ của họ cũng thay đổi theo, từ sự lạnh nhạt, thờ ơ trở nên quan tâm,chăm sóc. Thử hỏi, sao chúng ta có thể trách người dân đã tiếp tay cho tệ nạn, khi sinh mạng người thân họ đang nằm trong tay người khác. Bên cạnh đó, một số  doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động để tư lợi. Trong đó có những doanh nghiệp lớn, có “tên tuổi”  nợ đọng  tiền bảo hiểm xã hội lên đến hàng tỷ đồng. Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng cao là do nhiều doanh nghiệp đã đến kỳ quyết toán nhưng không chịu dồn tiền trả nợ bảo hiểm xã hội cho người lao động, tháng sau chồng lên tháng trước. Nhưng thực chất là người sử dụng lao động luôn tìm cách đối phó, trốn tránh hoặc chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động. Người nghèo là đối tượng dễ tổn thương cần được chính quyền vá toàn xã hội quan tâm. Và thực tế là đã có những khoản trợ cấp, những quỹ ủng hộ cho người nghèo và những đối tượng khó khăn khác. Nhưng thực tế đã không ít cán bộ, tổ chức lợi dụng chức quyền chiếm đoạt phần trợ cấp, hỗ trợ đó. Tình trạng cán bộ cơ sở ăn chặn, địa phương khấu trừ, đưa ra những chiêu bớt xén tiền Chính phủ hỗ trợ người nghèo ăn tết, trong đó có nơi trừ vào các quỹ, có nơi trừ vào tiền điện... không còn xa lạ gì. Tết Nguyên đán 2009, Ở các xã Đức Tùng, Đức Yên (Đức Thọ, Hà Tĩnh), xã và xóm giữ lại tiền mà không cấp đủ cho hộ nghèo. Thậm chí tại xã Thạch Tiến (Thạch Hà), tiền hỗ trợ được cấp “nhầm” cho người... không nghèo để mua điện thoại di động, trong khi một số hộ thực sự nghèo lại không được đồng nào. Một số xã như Hương Bình, Hòa Hải, Phú Gia (Hương Khê) thì mỗi hộ nghèo chỉ được cấp từ 100.000 đồng - 110.000 đồng/khẩu; số tiền còn lại trưởng xóm tự quyết chia đều cho những hộ khác từ 47.000 - 50.000 đồng/khẩu, kể cả hộ giàu. Tại xã Thanh Khê (Thanh Chương, Nghệ An)  nhiều hộ dân cho biết, sau khi có thông báo nhận tiền của Chính phủ hỗ trợ người nghèo ăn tết nhưng khi nhận bị cán bộ xóm trừ vào tiền đóng góp quỹ khuyến học của địa phương. Nói về tiền trợ cấp, cũng có nhiều điều cần bàn. “Chuyện lạ ở xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai: Bà Nguyễn Thị Xuân đã chết, nhưng danh sách nhận tiền trợ cấp vẫn còn đến quý III/2006 Không ít người chết đã 2 - 3 năm, nhưng hàng tháng, họ vẫn đều đặn có tên trong danh sách nhận tiền trợ cấp thường xuyên. Thậm chí, những người đã chết này còn ký tên, hoặc điểm chỉ vân tay trên danh sách nhận tiền. Như bà Lại Thị Vui cũng đã chết, nhưng tiền trợ cấp vẫn còn đến quý III/2006. Qua điều tra, một nguồn tin khác cho chúng tôi biết, ông Phạm Tiến Hưng - cán bộ phụ trách chi trả tiền xã hội, thuộc UBND xã Gia Tân 1 - cũng xà xẻo, bớt xén tiền trợ cấp của 20 người đang còn sống. Thí dụ: Quý III năm 2006, thay vì bà Phạm Thị Liễu được hưởng 590.000 đồng, thì ông Hưng chỉ đưa bà Liễu 500.000 đồng. Tỉnh Hà Tĩnh sai phạm liên quan đến vụ việc sử dụng tiền cứu trợ lũ quét năm 2002 tại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Tháng 9/2002, huyện Hương Sơn xảy ra trận lũ quét lịch sử, gây thiệt hại nặng về người và tài sản. Ước tính thiệt hại vật chất hơn 200 tỷ đồng. Ngoài lương thực, Hương Sơn được trợ cấp, tiền tiếp nhận quản lý, sử dụng là 24,4 tỷ đồng. Tổng số tiền hỗ trợ nhân dân là 5,3 tỷ đồng được giao cho hai phòng chức năng là LĐ-TBXH và Kế hoạch-tài chính trực tiếp cấp phát cho các xã. Tuy nhiên, hai phòng này chuyển cho các xã chỉ vỏn vẹn gần 1,6 tỷ đồng. Số còn lại,được chi tuỳ tiện vào những mục đích không có trong danh mục cứu trợ. Trong gần 1,6 tỷ đồng mà hai phòng chức năng của UBND huyện phân bổ cho các xã cũng phát sinh những vấn đề nghiêm trọng.Thị trấn Phố Châu và 4 xã lân cận được "chia" 688 triệu đồng, nhưng theo danh sách, nhân dân tại các địa phương này chỉ nhận được gần 200 triệu đồng, số tiền còn lại, chính quyền các xã lại tiếp tục chi sai nguyên tắc. Không dừng lại ở đó, hơn hai tỷ đồng trong số 3,8 tỷ còn lại được Phòng LĐ-TBXH chia cho cơ sở theo kiểu "ai quý thì được nhiều", tất cả đều được giao theo kiểm “trao tay” mà không có bất cứ một loại chứng từ nào. Tham nhũng không phải chỉ là vấn nạn của riêng quốc gia nào, mà nó có trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, nhà nước ta cần phải quản láy chặt chẻ hơn nguồn quỹ ASXH, nguồn quỹ này để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là người nghèo khổ. Dù các chinh sách là toán diện,qui mô… nhưng nếu quản lý không tốt thì tiền cứu trợ sẽ không đến được tay người cần nó, mà chỉ chui vào túi những kẻ tham lam. Như vậy, dù cho có nhiều chính sách tới đâu người đáng được hưởng vẫn không được hưởng, còn ngân sách nhà nước thì lại cạn đi. 3. Các chính sách và vai trò của chính phủ trong thực hiện ASXH để đảm bảo công bằng xã hội. 3.1 Các chính sách của chính phủ trong việc thực hiện ASXH để đảm bảo công bằng xã hội : 3.1.1 Cứu trợ xã hội : Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên có thiên tai (bão tố, lũ lụt, …), hơn nữa, liên miên trải qua chiến tranh chống xâm lược, vì vậy một bộ phận không nhỏ người dân luôn sống trong tình trạng nghèo túng, khó khăn. Tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam sớm nảy nở và phát huy cao độ.Do đó từ khi thực hiện đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta càng quan tâm thực hiện các chính sách cứu trợ, bảo trợ xã hội đối với những người nghèo khó, tàn tật . Cụ thể : • Chính sách cứu trợ đối với trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa: bao gồm trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất; • Chính sách đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số: Thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, Thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo, quan tâm đến người lao động nghèo trong quá trình chuyển đổi DNNN thành công ti cổ phần, Thành lập Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu XĐGN, Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; • Chính sách đối với người tàn tật: Ban hành pháp lệnh người tàn tật, Khuyến khích thành lập và hỗ trợ Hội bảo trợ người tàn tật (Hội người mù,…); • Chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam: Thành lập quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, … • Chính sách cứu trợ xã hội đối với công chức nhà nuớc, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang qua hình thức trợ cấp khó khăn đột xuất và thường xuyên. Ngoài ra nhà nước đã mở rộng cơ chế để tạo sự trợ giúp từ cộng đồng ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của quiõ xã hội, quiõ từ thiện, phát động phong trào tình nguyện . Đặc biệt trong thời gian gần đây, nguồn nhân tài vật lực đóng góp cho cứu trợ xã hội không chỉ được đóng góp từ trong nước mà còn đến từ kiều bào Việt Nam ở nước ngoài và cả kiều bào nước ngoài. 3.1.2 Chăm sóc y tế . Ở nước ta, việc chăm sóc y tế được thực hiện theo cách khác nhau qua ba giai đoạn: Giai đoạn từ năm 1961 đến 1992: Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH năm 1961 coi việc chăm sóc y tế cùng với chế độ trợ cấp ốm đau là một chế độ quan trọng hàng đầu của BHXH. Cụ thể như sau: Đảm bảo chăm sóc y tế cho công nhân, viên chức nhà nước; Đảm bảo cho cả trường hợp ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, mang thai và sinh đẻ; Thực hiện chăm sóc y tế miễn phí tức toàn bộ do nhà nước đài thọ (cung cấp dịch vụ khám, điều trị, tiền thuốc men, bồi dưỡng, phí tổn tàu xe đi lại khám – chữa bệnh, …). Tuy nhiên, có sự phân biệt nơi khám và điều trị theo nhóm mức lương, nhóm cán bộ, công nhân, nhân viên. Giai đoạn từ năm 1992 đến 2002: Ngày 15/08/1992, Nghị định 299/ HĐBT ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế và chính thức tách Bảo hiểm y tế ra hệ thống BHXH đặt dưới sự quản lý của Bộ Y tế. Hệ thống cơ quan bảo hiểm y tế được thành lập từ trung ương đến địa phương. Các nét chính của chế độ chăm sóc y tế giai đoạn này là : Đảm bảo chăm sóc y tế theo chế độ bắt buộc không chỉ đối với công nhân, viên chức nhà nước mà còn mở rộng ra đối với mọi người lao động ăn lương; Đảm bảo chăm sóc y tế trong trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm y tế bị ốm đau, thai sản, không đảm bảo chăm sóc y tế trong trường hợp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp (Điều này là điểm khác so với giai đoạn trước và khác với Công ước 102) , không đảm bảo chăm sóc y tế đối với những bệnh xã hội , bệnh tật bẩm sinh, điều dưỡng, an dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng, tạo hình thẩm mỹ, làm chân giả – tay giả – mắt giả, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, dịch vụ bảo vệ sức khỏe đặc biệt, dịch vụ y tế tự chọn, khám chữa bệnh ở nước ngoài, tai nạn chiến tranh, thiên tai; Nguồn tài chính đảm bảo cho chăm sóc y tế được huy động từ người lao động (1% tiền lương) và người sử dụng lao động (2% quiõ lương) không có sự hỗ trợ của nhà nước. Mặc dù cơ quan bảo hiểm y tế trực thuộc Bộ Y tế nhưng việc chăm sóc y tế vẫn theo mô hình gián tiếp qua việc ký hợp đồng khám chữa bệnh giữa Bảo hiểm y tế và cơ sở y tế. Giai đoạn hiện nay: Bắt đầu thực hiện chủ trương chuyển Bảo hiểm y tế sang quản lý chung với BHXH vì các lý do sau: Đối tượng quản lý của BHXH và Bảo hiểm y tế là tương đồng (loại áp dụng chế độ bắt buộc), việc sát nhập làm cho việc quản lý thuận lợi hơn, vừa tiết kiệm, vừa đảm bảo phục vụ tốt hơn cho người được bảo hiểm; Dù trước đây, Bảo hiểm y tế trực thuộc Bộ Y tế nhưng việc chăm sóc y tế vẫn là theo mô hình gián tiếp. Về lâu dài, dù muốn chắc chắn nước ta cũng chưa có thể áp dụng mô hình trực tiếp chăm sóc y tế, nên việc chuyển về BHXH một mặt, vẫn giữ nguyên mô hình gián tiếp; mặt khác, vai trò, trách nhiệm một người quản lý quiõ tiền sẽ dễ phát huy hơn tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTài chính công- An sinh xã hội tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan