Tiểu luận Bàn về vấn đề đô la hoá

MỤC MỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

I. Tổng quan về đô la hoá 2

1. Khái niệm về đô la hoá 2

a. Khái niệm 2

b. Phân loại 2

2. Nguồn gốc của đô la hoá 3

3. Những tác động của đô la hoá 4

a. Những tác động tích cực 4

b. Những tác động tiêu cực 6

II. Đô la hoá ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp 7

1. Tình trạng đô la hoá trên thế giới 7

2. Thực trạng đô la hoá ở Việt Nam 8

a. Giai đoạn trước khi mở cửa (1988) 8

b. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực (1988 – 1997) 9

c. Giai đoạn từ khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đến nay 9

3. Một số giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá ở Việt Nam 10

a. Ngân hàng Nhà nước 11

b. Bộ Tài chính 13

c. Bộ Thương mại 14

d. Bộ Kế hoạch và Đầu tư 14

e. Bộ Công an 14

KẾT LUẬN 15

TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3465 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bàn về vấn đề đô la hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a hóa, người ta chỉ nghĩ đến một đồng tiền duy nhất đó là Đô la Mỹ (USD). Mặc dù hiệp ước Bretton Wood đã phá sản nhưng từ lâu USD đã trở thành phương tiện thanh toán quốc tế mà không có đồng tiền nào có thể thay thế được. Mặt khác, Mỹ luôn lợi dụng sự lớn mạnh của nền kinh tế đã gây sức ép với nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó hệ thống tiền tệ vốn chưa “hoàn thiện”, và còn rất “nhạy cảm” ở các nước đang phát triển. Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. b. Phân loại: Căn cứ vào phạm vi: Tùy theo mức độ sử dụng rộng rãi đồng USD trong nền kinh tế và thái độ của quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay không thừa nhận đồng Đô la mà Đô la hóa được chia làm 3 mức độ: Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau: Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài. Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước. Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiên lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. Đô la hoá chính thức xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vài trò thứ cấp và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp. Căn cứ vào hình thức: Đô la hóa được thể hiện dưới 3 hình thức sau: `Đô la hóa thay thế tài sản: Thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2). Theo IMF, khi tỷ lệ này trên 30% thì nền kinh tế đó được cho là có tình trạng đô la hóa cao, tạo ra các lệch lạc trong điều hành tài chính tiền tệ vĩ mô. Nhìn chung đối với các nền kinh tế chuyển đổi, tỷ lệ đô la hóa hiện nay bình quân là 29%. Đô la hóa phương tiện thanh toán: Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. Các giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá nhất là đối với những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam. Đô la hóa định giá, niêm yết giá: Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng ngoại tệ. 2. Nguồn gốc của đô la hoá: Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển. Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm công cụ dự trữ khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là: Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị. Chức năng làm phương tiện cất trữ. Chức năng làm phương tiện thanh toán. Thứ hai, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao. Thứ ba, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của tiền tệ thế giới. Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thụy Sỹ, euro của EU… nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là đô la hoá. Thứ tư, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng tiền tệ. 3. Những tác động của đô la hoá: Tình trạng đô la hoá nền kinh tế có những tác động tích cực và có cả những tác động tiêu cực. a. Những tác động tích cực: Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân bằng và các điều kiện vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức. Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng đo la, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. Đô la hóa cũng là một trong những giải pháp giúp giảm lạm phát, từ đó có thể giảm lạm phát, từ đó có thể giảm lãi suất thực nền kinh tế và kích thích đầu tư, và do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đôla hóa cũng được cho là có tác dụng thúc đẩy phát triển ngành Ngân hàng và nâng cao vai trò của nó trong nền kinh tế, phản ánh dưới góc độ tỷ trọng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng trong GDP (thuật ngữ chuyên môn gọi là “độ sâu tài chính”) tăng lên khi có đôla hóa. Điều này có được là do người gửi tiền thay vì chuyển tài sản của mình bằng ngoại tệ ra nước ngoài trong bối cảnh rủi ro lạm phát cao nay được phép, và có thể yên tâm, gửi tài sản (bằng ngoại tệ) của mình vào hệ thống ngân hàng trong nước và hưởng lãi tính theo ngoại tệ mà không phải bận tâm đến lạm phát của bản tệ. Nói cách khác, đôla hóa giúp cung cấp “dinh dưỡng” nuôi sống hệ thống ngân hàng trong nước. Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với một khối lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luông ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được: chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống, thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). b. Những tác động tiêu cực: Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương không phát huy được hiệu quả, bị mất tính độc lập và chịu nhiều ảnh hưởng từ diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, cụ thể: Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương không phát huy được hiệu quả, bị mất tính độc lập và chịu nhiều ảnh hưởng từ diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, cụ thể: Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến viêc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời. Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân co xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm chi cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi cố ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, các chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một số nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chức không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với các nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ đóng cửa khi chức năng nười cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất. II. Đô la hoá ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp: 1. Tình trạng đô la hoá trên thế giới: Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30% bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijiam, Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea – Bissau, Laos, Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay. 35 nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4% bao gồm các nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Hondurá, Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia. Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55% đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới. Những nước đã tiến hành đô la hoá: Panama: là nước đầu tiên tiến hành đô la hoá toàn phần. Từ năm 1904, sau khi tách ra khỏi Colombia, Panama đã dùng đồng xanh. Việc này ảnh hưởng rất tốt đến nền kinh tế của Panama. Trong suốt những năm 1990 lạm phát hầu như không vượt quá 1% một năm. Nhưng đông thời đô la hoá vẫn không giúp Panama được hoàn toàn độc lập với trợ giúp các tổ chức bên ngoài. Từ năm 1973, Panama tiếp nhận hơn 15 chương trình của Quỹ tiền tệ quốc tế và đô la hoá cũng không ngăn được việc Panama mất khả năng trả nợ nước ngoài vào giữa những năm 1980. Ecuador: bắt đầu chuyển đổi vào đầu năm 2000. Đô la hoá là phương cách cuối cùng của Ecuador khi nước này cố vượt qua một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, với một hệ thống ngân hàng suy sụp, đồng nội tệ mất giá và sự chống đối của người dân bản xứ. Khi Tổng thống Ecuador thông cáo ý định đô la hoá vào tháng 1 năm 2000, quá trình này đã bắt đầu được tiến hành, đất nước đã đang dẫn đến một cuộc đảo chính và tổng thống đã phải từ chức. Trước khi đổi hệ thống tiền sang đô la, Ecuador đã thử tiến hành nhiều biện pháp hối đoái khác nhau. Tất cả các biện pháp đều không có hiệu quả và đến nay quyết định đô la hoá vẫn được coi là hợp lý đối với Ecuador. El Salvador: Cuối tháng 11 năm 2000, nghị viện El Salvador thông qua luật thực hiện đô la hoá toàn phần trong cả nước. Bắt đầu từ mùng 1 tháng 1 năm 2001 các máy đếm tiền tự động đầu được nạp chương trình để phát ra đồng đô la và tất cả các khoản ngân hàng đều chuyển sang đô la. Sự thay đổi này không hẳn do nguyên nhân khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Trên thực tế, lạm phát ở El Salvador thấp, chỉ khoảng 1,3% trong vòng 1 thập kỷ trước. Đô la hoá thật ra là để thu hút đầu tư nước ngoài vào El Salvador. Vài năm trước đây, Mỹ thông báo là đô la sẽ được coi là đồng tiền chính thức của Đông Timor, nước vừa tuyên bố độc lập khỏi Indonesia. Tháng 12 năm 2000, Guatemala thông qua luật cho phép được sử dụng đô la rộng rãi, tuy không tuyên bố hẳn là sẽ đô la hoá toàn phần. Một loạt các nước khác cũng đã cân nhắc về quyết định đô la hoá: Costa Rica, Honduras, Nicaragua. 2. Thực trạng đô la hoá ở Việt Nam: a. Giai đoạn trước khi mở cửa (1988): Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Vì vậy, mức độ đô la hoá là không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ. b. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực (1988 – 1997):   Nhìn chung mức độ đô la hoá có xu hướng giảm mạnh. Năm 1991, tỷ lệ đô la hoá (FCD/M2) lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ hợp pháp và bất hợp pháp tương đối nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng (kể cả đối với các giao dịch nhỏ) trong dân cư khá phổ biến. Nguyên nhân do ảnh hưởng của lạm phát phi mã giai đoạn trước (đến năm 1991 lạm phát vẫn còn tới 67,5 %). Người dân ưa thích sử dụng ngoại tệ còn do lợi ích thực tế của việc sử dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ thống thanh toán lại kém phát triển. Đến giai đoạn 1993 -1996, khi lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá  biến động ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ đô la hoá giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 còn 22,9%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất tiện khi sử dụng VND vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, các hoạt động ngoại hối trái phép tồn tại chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Nguyên nhân là thiếu chế tài, thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý. Cho đến nay, vấn đề này vẫn là một tồn tại chưa được khắc phục. c. Giai đoạn từ khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đến nay: Nguồn: VNEconomy. Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001 đã tăng cao trở lại đến 30%. Nguyên nhân là trong suốt một thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn hơn các ngoại tệ khác. Mặt khác, các chính sách mới ban hành đã tạo sự tin tưởng của người dân, thu hút được một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào hệ thống ngân hàng. Tâm lý đô la hoá trong giai đoạn này cũng một phần do tác động của khủng hoảng và kỳ vọng của thị trường vào sự phá giá của VND. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, năm 2002 là 26,1%, đến năm 2003 còn 21,3%.Tuy nhiên đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất USD trên thế giới tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm thì tỷ lệ FCD/M2 đang có biểu hiện gia tăng trở lại, đạt gần 23.2%. Đến năm 2005 tỷ lệ FCD/M2 giảm nhẹ, đạt 22,3%. Cho đến nay thì tỷ lệ đô la hoá của Việt Nam luôn ở mức trên 20%. Mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%. 3. Một số giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá ở Việt Nam: Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam.Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch… không thể một sớm , một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng trung ương trong vấn đề đô la hoá là rất rõ ràng: xoá bỏ đô la hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả.Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường ngoại tệ và hoạt động knih doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hoá ỏ những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính – kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hoá. Để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đô la hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây: a. Ngân hàng Nhà nước: Chính sách tiền tệ: thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010 Chính sách tiền tệ phải đảm bảo ổn định tương đối giá trị của đồng tiền, lấy kiểm soát lạm phát làm mục tiêu. Xây dựng hệ thống lãi suất chủ đạo của NHNN để định hướng lãi suất thị trường. Chú trọng đến việc phối hợp giữa chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá để đảm bảo cân bằng lợi tức giữa việc nắm giữ VND và ngoại tệ. Chính sách tỷ giá: thực hiện từ năm 2007 Tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, tương đối ổn định theo một “Rổ tiền tệ”,  hướng vào mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh 5 bước để tăng thêm tính linh hoạt của tỷ giá: (i) Tự do hoá việc chuyển đổi giữa các ngoại tệ mạnh; (ii)  Tự do hoá các điểm kỳ hạn; (iii) Cho phép áp dụng nghiệp vụ quyền chọn giữa VND với ngoại tệ; (iv) Nới rộng dần biên độ tỷ giá giao ngay; (v) Tự do hoá mức phí trong nghiệp vụ quyền chọn giữa VND và ngoại tệ. Phát triển mạnh các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường ngoại hối phù hợp với thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân được tham gia thị trường ngoại tệ một cách công khai, dễ dàng nhằm thực hiện mục tiêu là dịch vụ hoá cao độ các nghiệp vụ hối đoái, bình thường hoá vai trò và ảnh hưởng của ngoại tệ. Đổi mới về chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá nhiều hơn Giao dịch vãng lai: Thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai theo Điều khoản VIII Điều lệ IMF: Xoá bỏ hạn mức tuyệt đối trên một số khoản chuyển tiền vãng lai của cá nhân ra nước ngoài . Xoá bỏ hạn mức tuyệt đối đối với việc thoái hối của người không cư trú . Xoá bỏ giấy phép mua, chuyển, mang ngoại tệ của cá nhân ra nước ngoài với các mục đích học tập, du lịch, chữa bệnh... Xoá bỏ giấy phép chuyển ngoại tệ tiền mặt ra nước ngoài của tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện cho VND tham gia quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu . Giảm dần hạn chế mang VND ra, vào lãnh thổ. Đảm bảo đáp ứng ngoại tệ đầy đủ cho các giao dịch được phép. Giao dịch vốn: Xoá bỏ quy định doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến trước của Ngân hàng Nhà nước. Nghiên cứu khả năng cho doanh nghiệp Việt Nam là người cư trú vay nước ngoài bằng VND. Cho phép cá nhân là người cư trú được vay trả nợ nước ngoài. Xoá bỏ hạn chế về ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài. Đảm bảo đáp ứng ngoại tệ đầy đủ cho các giao dịch được phép. Nâng dần tỷ lệ được phép huy động VND của ngân hàng nước ngoài áp dụng chung tương tự với cam kết của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Đa dạng hoá các hình thức vay nước ngoài. Xem xét cho các doanh nghiệp được phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài khi đủ điều kiện. Các biện pháp quản lý việc sử dụng ngoại tệ trong nước: Tăng cường thể chế pháp lý bằng cách luật hoá các quy định về quản lý ngoại hối. Xoá bỏ giấy phép hoạt động kiều hối và giấy phép lập bàn thu đổi ngoại tệ, chuyển sang kinh doanh có điều kiện. Xoá bỏ chế độ thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam của các đối tượng. Thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ, chỉ cho vay phục vụ xuất khẩu. Tiếp tục thu hút ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng. Áp dụng các giải pháp kinh tế để chuyển dần quan hệ huy động - cho vay trong nước bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng sang quan hệ mua - bán ngoại tệ. Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hạ thấp dần tỷ lệ FCD/M2. Tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước: Hạn chế sử dụng dự trữ ngoại hối cho các nhu cầu chi của ngân sách nhà nước. Phấn đấu tăng dự trữ lên trên 18 - 20 tuần nhập khẩu. Các giải pháp bổ sung để tăng cường sự thuận lợi khi sử dụng VND: Phối hợp với các cơ quan quản lý thực hiện nguyên tắc mọi giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam đều sử dụng VND, kể cả cửa hàng miễn thuế, trao giải thưởng, các khoản thuế, phí và lệ phí, thu của các cơ quan ngoại giao và các người không cư trú khác. Tăng cường các dịch vụ, tiện ích ngân hàng sử dụng VND, đặc biệt là hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Nghiên cứu việc đổi mới mệnh giá của VND theo hướng tạo thuận tiện trong sử dụng. b. Bộ Tài chính: Áp dụng các giải pháp để phát triển thị trường vốn bằng đồng Việt Nam. Tính toán lượng ngoại tệ cần giữ lại cho Quỹ ngoại tệ tập trung để chi tiêu phù hợp với Luật Ngân sách và xác định các nguyên tắc cơ bản trong việc bán ngoại tệ cho NHNN (Dự trữ ngoại hối Nhà nước). c. Bộ Thương mại: Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện cho VND tham gia quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu. Giảm và tiến tới xoá bỏ danh mục ưu tiên bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu trên cơ sở đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp. d. Bộ Kế hoạch và Đầu tư : Cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND tham gia góp vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam để người nước ngoài chấp nhận VND trong thanh toán. Giảm và tiến tới xoá bỏ các quy định về cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI. e. Bộ Công an: chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, cơ quan quản lý thị trường, Ủy ban nhân dân các cấp để: Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về chính sách quản lý ngoại hối như ni

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26095.doc
Tài liệu liên quan