Tiểu luận Bancassurance và hoạt động bancassurance tại Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Danh mục các hình 4

Danh mục các từ viết tắt 4

LỜI NÓI ĐẦU 5

1. TỔNG QUAN VỀ BANCASSURANCE 5

1.1 Khái niệm 5

1.2 Lợi ích của các bên tham gia 6

1.2.1 Đối với ngân hàng 6

1.2.2 Đối với công ty bảo hiểm 8

1.2.3 Đối với khách hàng 9

1.3 Các mô hình Bancassurance 10

1.3.1 Mô hình liên kết phân phối 10

1.3.2 Mô hính chiến lược 13

1.3.3 Mô hình liên doanh 14

1.3.4 Tập đoàn tài chính 18

1.4 Đánh giá tình hình và xu hướng phát triển thị trường Bancassurance trên Thế giới và Việt Nam hiện nay 21

1.4.1 Tình hình thị trường Bancassurance trên Thế giới và Việt Nam hiện nay 21

1.4.2 Xu hướng phát triển thị trường Bancassurance: 23

2. PHÂN TÍCH SWOT HOẠT ĐỘNG BANCASSURANCE TẠI VIỆT NAM 24

2.1 Cơ hội và thách thức 24

2.2 Điểm mạnh và điểm yếu 27

2.2.1 Điểm mạnh 27

2.2.2 Điểm yếu: 28

3. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN BANCASSURANCE TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 30

3.1 Về nhận thức 31

3.2 Môi trường pháp lí 32

3. 3 Hình thức và phương pháp 33

3.4 Trình độ, năng lực 34

4. TỔNG HỢP 34

Danh mục tài liệu tham khảo 38

 

PHỤ LỤC 1 39

 

 

 

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5591 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bancassurance và hoạt động bancassurance tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của BIC là Liên doanh Bảo hiểm Việt-Úc (liên doanh giữa BIDV và công ty bảo hiểm quốc tế QBE của Úc) hoạt động tại thị trường Việt Nam từ năm 1999, nhưng cho đến khi BIC ra đời thì hoạt động Bancassurance của BIDV và BIC mới có bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong một năm tổng doanh thu của BIC tăng hơn gấp 3, từ xấp xỉ 50 tỷ đồng lên vượt mức 160 tỷ đồng. Đến năm 2009, doanh thu qua kênh Bancassurance đã chiếm 9. 6% trong tổng doanh thu bảo hiểm gốc của BIC, và đến năm 2010, doanh thu của BIC qua Bancassurance đã đạt 62 tỷ đồng, tăng trưởng 66% so với năm 2009. Với các sản phẩm Bancassurance có thể kể đến như sau: BIC – Bình An: sản phẩm bảo hiểm được tặng dành cho các khách hàng vay vốn bằng hình thức tín chấp tại Ngân hàng BIDV. Công ty BIC sẽ thay khách hàng trả toàn bộ khoản nợ còn lại tại NH khi có những rủi ro không lường trước được. BIC- Visa Gold: là sản phẩm kết hợp giữa thẻ Visa Gold của BIDV và sản phẩm bảo hiểm chủ thẻ tín dụng của BIC, bảo đảm cho tính mạng và sức khỏe khách hàng 24/24 giờ trên phạm vi toàn cầu và mức chi trả tối đa lên tới 50 triệu đồng. BIC- An sinh Toàn diện: là sản phẩm bảo hiểm con người được tích hợp sản phẩm huy động tiền gửi tiết kiệm của BIDV. Khi khách hàng tham gia gửi tiền tích lũy định kỳ tại BIDV sẽ được tặng bảo hiểm BIC- An sinh Toàn diện. Khi khách hàng chẳng may gặp rủi ro tai nạn không lường trước được, BIC sẽ thay mặt chủ tài khoản tiếp tục gửi tiền theo cam kết trong suốt thời gian còn lại. Bảo hiểm ngân hàng nông nghiệp (ABIC) Hơn 1 năm rưỡi sau khi BIC được thành lập, ngày 8/8/2007 đến lượt công ty Bảo hiểm ngân hàng nông nghiệp(ABIC) ra đời với vốn đầu tư hoàn toàn từ ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thông Agribank. Mô hình mới mà ABIC triển khai đã cho kết quả cực kì khả quan. Tỷ trọng doanh thu Bancassurance tại ABIC chiếm 27. 5% năm 2008, 49% năm 2009, 56, 6% năm 2010 và năm 2011 dự kiến 65%, tương đương với những nước có Bancassurance phát triển. Tổng kết 3 năm triển khai mô hình, doanh thu từ Bancassurance đã chạm mốc 217. 5 tỷ đồng. BIDV và Agribank đang phát triển theo đúng định hướng trở thành tập đoàn tài chính ngân hàng hùng mạnh tại Việt Nam. Trong khi đó trên thế giới, việc ngân hàng thành lập, mua lại công ty bảo hiểm và cùng thuộc một tập đoàn tài chính đã trở nên khá phổ biến như BB&T Corporation, Central Bank and Trust corporation, Bank of America, Citi group…tại Mỹ. Trong số đó, City Group hoạt động cực kì hiệu quả trong mảng bancassurane. Năm 2005, City group đứng đầu trong số các ngân hàng triển khai sản phẩm bảo hiểm tại Mỹ, đạt mức doanh số 3312 triệu USD và chiếm đến 7. 1% tổng doanh thu mà các ngân hàng tại Mỹ đạt được nhờ sản phẩm bảo hiểm(nguồn từ American Bankers Insurance Association)Doanh thu có được từ Bancassurance của Citigroup năm đó chiếm 32% doanh thu từ hoạt động ngân hàng. Đến tháng 1 năm 2008, doanh thu này đã vượt lên con số 1969 triệu USD và Citygroup càng khẳng định vị trí của mình trong hoạt động Bancassurance tại Mỹ (nguồn từ www. Bancassuranceworld. com) 1.4 Đánh giá tình hình và xu hướng phát triển thị trường Bancassurance trên Thế giới và Việt Nam hiện nay 1.4.1 Tình hình thị trường Bancassurance trên Thế giới và Việt Nam hiện nay Trên Thế giới: Từ những năm 70 của thế kỷ XX, Bancassurance đã ra đời tại châu Âu và nhanh chóng phát triển mạnh mẽ. Đến nay, doanh thu phí bảo hiểm qua kênh liên kết với ngân hàng tại nhiều quốc gia châu Âu chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng doanh thu phí bảo hiểm như Ý (70%), Pháp (60%), Tây Ban Nha (72%), Đức (23%)… Bancassurance đã và đang phát triển nhanh chóng tại châu Á. Chỉ với khoảng thời gian ngắn, Bancassurance đã sớm đuổi kịp kênh phân phối truyền thống qua đại lý tại nhiều quốc gia châu Á và trở thành kênh phân phối chính cho các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Rất nhiều các cơ quan quản lý ở châu Á tiếp tục thực hiện những thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng kênh phân phối Bancassurance. Động lực chính dẫn tới những thay đổi này là hiệu quả về mặt chi phí của Bancassurance so với kênh phân phối qua đại lý. Bancassurance đã thể hiện mức tăng trưởng đầy hứa hẹn tại khu vực châu Á và xu hướng này vẫn sẽ tiếp tục được kỳ vọng. Theo báo cáo của LIMRA (phát hành tháng 12/2009), thị phần bacassurance đang tăng trưởng nhanh tại các nước châu Á và chiếm một vai trò quan trọng trong thị trường bảo hiểm. Tại Việt Nam: Bancassurance xuất hiện từ khá sớm, từ năm 1995 dưới hình thức khuyến mãi sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ cho khách hàng. Nhưng thực tế thì phải tới năm 2001 mới chính thức ra mắt với cột mốc đánh dấu khi AIA Việt Nam ký thỏa thuận hợp tác với Ngân hàng HSBC. Các công ty bảo hiểm đã nhận ra việc phân phối sản phẩm qua ngân hàng là một hướng mới đầy triển vọng phát triển. Một số mô hình Bancassurance đã được xây dựng và nhân rộng trên thị trường Việt Nam đó là : mô hình ngân hàng ký các thỏa thuận phân phối sản phẩm với các doanh nghiệp bảo hiểm, mô hình liên doanh thành lập công ty bảo hiểm mới và mô hình tập đoàn dịch vụ tài chính. Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có một số doanh nghiệp triển khai thác khá thành công kênh phân phối này. Tính đến hết năm 2010, công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC) đã đặt quan hệ hợp tác với 22 ngân hàng/chi nhánh ngân hàng ngoài BIDV, dẫn đầu thị trường về mạng lưới ngân hàng liên kết. Tuy nhiên Bancassurance vẫn là một kênh phân phối có thể nói khá mới đối với thị trường Việt Nam. Đến nay, sau 10 năm triển khai hoạt động Bancassurance ở Việt Nam, tỷ lệ phí bảo hiểm khai thác qua kênh phân phối Bancassurance toàn thị trường Việt Nam vẫn chưa tới 5%. Trong khi đó ở các nước trên thế giới, thậm chí tại một số nước mới triển khai hoạt động Bancassurance chưa lâu, Bancassurance cũng đã chiếm tỷ lệ trên dưới 50% tổng doanh thu phí bảo hiểm. Ngay tại thị trường châu Á, thị phần Bacassurance đang tăng trưởng nhanh và chiếm một vai trò quan trọng trong thị trường bảo hiểm. Có thể kể đến một số nước có doanh thu phí bảo hiểm từ Bancassurance chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng doanh thu phí bảo hiểm như Malaysia 49%(2007) , Hong Kong 40%(2008), Hàn Quốc(31%). . . Điều đó cho thấy thị trường Bancassurance ở Việt Nam còn nhiều hạn chế nhất định, nền tảng công nghệ hiện đại vẫn chưa được cập nhât, và chưa có nhiều sản phẩm chuyên biệt đặc thù dành cho kênh phân phối Bancassurance. 1.4.2 Xu hướng phát triển thị trường Bancassurance: Bài nghiên cứu “Bancassurance: a winning formula” tháng 9/2010 của Ernst & Young UK cho thấy mô hình hiện nay là ngân hàng tự lập công ty bảo hiểm (manufacturer) và liên doanh (joint venture), với chi phí thấp tập trung vào việc tạo ra lợi nhuận biên cao. Các nhà bán bảo hiểm qua ngân hàng có xu hướng gia tăng việc dịch chuyển từ cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nhất định, nhưng họ không muốn mất doanh thu và tiềm năng lợi nhuận. Điều này dẫn đến mối quan tâm lớn hơn đến mô hình liên doanh và gia tăng tái bảo hiểm như là một yếu tố của cơ sở hạ tầng cho nhà bán bảo hiểm qua ngân hàng và là một thành phần của bất kỳ thỏa thuận liên doanh nào. Lợi ích của việc giảm đáng kể rủi ro, trong khi duy trì mức lợi nhận tiềm năng lớn hơn, đưa nhiều nhà bán bảo hiểm qua ngân hàng xem xét mối liên hệ giữa liên doanh và tái bảo hiểm, một lựa chọn không điển hình đã được sử dụng trong quá khứ. Kết quả ở châu Âu chỉ ra sự ưa thích mô hình liên doanh hơn của các ngân hàng, bảo hiểm là một sản phẩm đặc biệt và phức tạp, lợi ích ngắn hạn và kết quả nhanh chóng có lợi hơn bởi việc tránh trách nhiệm vốn dài hạn của phương pháp tự cung cấp sản phẩm. Ở châu Á, hợp tác phân phối rất phổ biến, nhưng có sự gia tăng của các ngân hàng lớn vào mô hình liên kết và tự sở hữu. Ví dụ như tại Ở Singapore, vai trò của bảo hiểm ngân hàng tăng lên từng ngày và thay đổi các mô hình phân phối truyền thống. Số lượng các công ty giao dịch truyền thống giảm dần trong nhiều năm: 12000 trong năm 2004 so với 20000 năm 1998. Lý do? Điều kiện khó khăn trong việc xin được giấy phép, giảm tiền hoa hồng cho giao dịch và trên hết là sự lớn mạnh về vai trò của bảo hiểm ngân hàng. Theo Life Insurance Association of Singapore, trong năm 2004 bảo hiểm ngân hàng đóng góp 30% cho các hợp đồng mới. Hay như ở Nhật, thị trường được mở từng phần cho các ngân hàng Nhật vào tháng 4 năm 2001: sức ép mạnh mẽ từ các công ty bảo hiểm địa phương chống lại việc mở rộng tự do, mà việc này chắc chắn đe dọa đến thị phần của họ. Tuy nhiên, bất chấp sự miễn cưỡng, những người có quyền lực trong ngành tài chính (the Financial Services Agency, FSA, và Financial System Council) từng bước loại bỏ những quy định dẫn đến việc xóa bỏ thành công hàng rào ngăn cách giữa ngân hàng và các công ty bảo hiểm: Kể từ 1998, các cty bảo hiểm đã có thể tạo ra các công ty con thuộc lĩnh vực ngân hàng; Kể từ 2000, các công ty bảo hiểm nhân thọ đã có thể bán các gói sản phẩm phi nhân thọ và ngược lại; Kể từ 2001, các ngân hàng đã được phép bán các gói sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, hệ thống mới, được dự trù để giới thiệu vào mùa xuân 2005, cho phép các ngân hàng được bán những gói bảo hiểm mới, bị trì hoãn về sau. FSA và Life Isurance Association of Japan thảo luận với nhau để tìm những điểm mới mới để thống nhất việc bãi bỏ dần dần những quy định, ban đầu được dự trù cho mùa hè 2007. Mục tiêu cuối cùng là để cho các gói sản phẩm bảo hiểm có thể được bán thông qua mạng lưới ngân hàng. Các định chế tài chính của Nhật (The Japanese financial authorities) lo ngại việc nới lỏng các quy định quá nhanh đối với bảo hiểm ngân hàng có thể vô tình làm cho các ngân hàng có nhiều quyền hành có thể dẫn đến sự lạm dụng đại loại như ép mua. Xấp xỉ 400,000 nhân viên ngân hàng được cấp phép để bán các hợp đồng bảo hiểm. Về khoản này thì các công ty bảo hiểm nước ngoài được ưu ái hơn, dẫn đến giảm giá và tạo nên nhiều chủng loại (wider range) sản phẩm đến khách hàng. 2. PHÂN TÍCH SWOT HOẠT ĐỘNG BANCASSURANCE TẠI VIỆT NAM 2.1 Cơ hội và thách thức CÁC NHÂN TỐ CƠ HỘI THÁCH THỨC a) Môi trường chính trị - pháp luật: + Nền chính trị khá ổn định + Chưa có khung pháp lý rõ ràng đối với các hình thức liên kết giữa ngân hàng và bảo hiểm + Tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển, điển hình đó là ngân hàng và các công ty bảo hiểm + Rủi ro chính sách từ các quy định có thể thay đổi các dự định Bancassurance b) Môi trường kinh tế: + 6 tháng đầu năm 2011,GDP ước tính tăng 5.57%, thu nhập bình quân đầu người là 1.168 USD/người, đời sống của người dân được cải thiện ,từ đó nhu cầu về bảo hiểm cũng ngày càng gia tăng. + Lạm phát cao, CPI 6 tháng đầu năm 2011 tăng 16,03% so với cùng kỳ năm 2010 và so với tháng 12 tăng 13,29% + Chính phủ thắt chặt tiền tệ khiến lãi suất ở mức khá cao + Đời sống của người dân được cải thiện ,từ đó nhu cầu về bảo hiểm cũng ngày càng gia tăng. + Rủi ro tín dụng gia tăng, tăng nhu cầu mua bảo hiểm cho những món vay + Rủi ro đầu tư của quốc gia cao có thể làm nản lòng các bên tham gia nước ngoài c)Kỹ thuật- công nghệ: + Thực tế ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong ngành bảo hiểm-ngân hàng còn thấp. + Mua sắm qua mạng đã và đang rất phổ biến ở Việt Nam + Thuận tiện trong việc phân phối các kênh Bancasurance + Đòi hỏi một nền tảng công nghệ hiện đại d)Xã hội- văn hóa: + Dân số trẻ, với 52 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm khoảng 60% dân số. Đời sống vật chất, tinh thần, trình độ dân trí trung bình toàn xã hội không ngừng được cải thiện + Tâp quán bảo hiểm ở nước ta vẫn còn khá mới mẻ + Lực lượng lao động dồi dào + Thị trường tiềm năng + Gây dựng lòng tin về các sản phẩm bảo hiểm ở khách hàng e)Môi trường tự nhiên: + Địa lý : nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, về địa lý thì nước ta giáp với biển Đông với đường bờ biển dài 3.260km + Tình hình thiên tai, dịch bệnh ở nước ta vẫn rất hay xảy ra, vì vậy rủi ro về tín mạng hoặc thiệt hại về tài sản là tất yếu xảy ra. + Phát triển bảo hiểm hàng hải thông qua ngân hàng + tạo điều kiện phát triển bảo hiểm nhân thọ lẫn phi nhân thọ f) Môi trường quốc tế : + Hội nhập quốc tế ,gia nhập WTO +Việc các ngân hàng nuớc ngoài thành lập ngân hàng 100% vốn nuớc ngoài tại Việt Nam và triển khai kế hoạch mở rộng kinh doanh + Có điều kiện tiếp cận với các công nghệ hiện đại, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế + Khu vực ngân hàng sẽ phát triển với tốc độ nhanh chóng trong thời gian từ 2011 - 2015 + Cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đòi hỏi các sản phẩm liên kết phải đa dạng, chất lượng 2.2 Điểm mạnh và điểm yếu 2.2.1 Điểm mạnh Các ngân hàng hiện nay có thị phần rộng khắp, mạng lưới giao dịch lớn,ngày càng có nhiều ngân hàng uy tín và chất lượng, đều có một vị thế tốt trong nền kinh tế => điều đó thúc đẩy sư hợp tác giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm,tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm liên kết và thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Thị trường bảo hiểm nước ta là một thị trường còn nhiều tiềm năng với tốc độ tăng trưởng khá cao do nhu cầu chưa được khai thác hiệu quả, tiền nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn. Thêm vào đó, người VN có truyền thống lo xa, tiết kiệm, hy sinh vì con cháu… nên khả năng phát triển Bancassurance tại Việt Nam là rất lớn. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, và ngân hàng ,công ty bảo hiểm cũng không ngoại lệ. Bancassurance là một sự lựa chọn tốt nhất cho các ngân hàng và công ty bảo hiểm nhằm phát triển thị phần, tăng trưởng doanh thu và cải tiến trong công nghệ và quản lý kinh doanh. Hiện nay, môi trường cạnh tranh ở Việt Nam không cao, ít sản phẩm thay thế, nên Bancassurance có điều kiện thống lĩnh thị trường, trên cơ sở các sản phẩm liên kết chất lượng và khai thác thị trường một cách đúng mức và hiệu quả. Am hiểu khách hàng trong nước, có đầy đủ tư liệu, thông tin về nhu cầu tổng thể thị trường, và có một lượng lớn khách hàng truyền thống. 2.2.2 Điểm yếu: Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh nêu trên thì việc thực hiện Bancassurance tại các NHTM tại Việt Nam cũng có những điểm yếu như sau: Mâu thuẫn trong việc sử dụng nhân viên ngân hàng hoặc nhân viên bảo hiểm Một vấn đề khác phát sinh đáng lưu tâm và quan ngại: liệu đội ngũ các nhân viên ngân hàng có đủ năng lực để kiêm nhiệm thêm một lĩnh vực mới là bảo hiểm - lĩnh vực đòi hỏi sự chuyên môn và trình độ quản lý cao? Liệu các nhân viên ngân hàng có tận tình với khách hàng trong lĩnh vực mới này hay không? Trên thực tế, sau khi liên kết, nhân viên Ngân hàng sẽ bán bảo hiểm theo phương thức kiêm nhiệm và khi bán sản phẩm qua kênh ngân hàng không phải nhân viên nào cũng tận tình và chuyên nghiệp trong việc tư vấn các sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp đến khách hàng như các nhân viên của đại lý thuộc doanh nghiệp. Chưa kể bản thân cán bộ ngân hàng không có đủ thời gian và nghiệp vụ để giải thích những tiện ích của sản phẩm cho khách hàng (mặc dù trước khi triển khai việc hợp tác liên kết đã được phía công ty bảo hiểm tập huấn). Do vậy, việc hợp tác giữa một số ngân hàng và công ty bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay mới dừng lại ở chỗ “ngân hàng cho công ty bảo hiểm mượn mặt bằng để bán sản phẩm”. Ví dụ như, đối với ngân hàng VCB, tình hình bán hàng của Prudential không khả quan lắm, vì hiện tại Prudential chưa được thiết lập đội ngũ Chuyên viên tư vấn tại VCB mà là các nhân viên VCB thực hiện luôn việc tư vấn bảo hiểm cho khách hàng. Ngoài ra, thỏa thuận bán hàng qua kênh này đã được lãnh đạo ngân hàng thông qua, nhưng thực tế không có một chế tài nào ràng buộc những nhân viên ngân hàng phải tư vấn được bao nhiêu sản phẩm bảo hiểm. Ngân hàng không có chế tài, doanh nghiệp bảo hiểm thì không có quyền can thiệp nên dễ dẫn đến tình trạng "cha chung không ai khóc". Có sự trùng lắp giữa sản phẩm ngân hàng và sản phẩm bảo hiểm Câu hỏi đặt ra là liệu ngân hàng có bị xung đột lợi ích khi bán các sản phẩm bảo hiểm? Nhất là khi nhiều sản phẩm bảo hiểm cũng mang tính tiết kiệm, đầu tư giống như các sản phẩm tại các ngân hàng. Thực tế cho thấy, Bancassurance ở nước ta chủ yếu là bán các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng. Hiện nay, trên 90% doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của thị trường Việt Nam là từ các sản phẩm tiết kiệm. Mà bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính chất tiết kiệm vừa mang tính chất phóng ngừa rủi ro. Có nghĩa là các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc trả tiền khi người đươc bảo hiểm (tiền gốc) và bảo tức cho người được bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng. Bảo tức càng cao thì thu hút người bảo hiểm tham gia ngày càng nhiều. Điều này buộc các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ muốn đầu tư sao cho đảm bảo an toàn và sinh lời cao thì tất yếu phải bước sang lĩnh vực kinh doanh ngân hàng - tín dụng. Những sản phẩm bảo hiểm này có hình thức tương tự với một số sản phẩm của ngân hàng (tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm định kỳ…). Điều này tạo ra sự cạnh tranh trực tiếp đối với tiết kiệm ngân hàng. Đấy cũng là một trong những lý do khiến ngân hàng không mấy mặn mà trong việc bán sản phẩm bảo hiểm. Vì vậy, nếu không xây dựng được phương án hợp tác hiệu quả giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm có thể ngân hàng sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh giành khách hàng với các công ty bảo hiểm là đối tác của ngân hàng. Xung đột giữa kênh truyền thống và kênh phân phối qua ngân hàng Đối với các công ty bảo hiểm, hiện cũng đang phải đối mặt với những khó khăn như chưa giải quyết được các mâu thuẫn giữa kênh bán hàng này với những kênh bán hàng cũ, chẳng hạn như kênh bán hàng trực tiếp qua đại lý. Sự phát triển của kênh Bancassurance đã làm giảm một số lượng lớn khách hàng tham gia bảo hiểm qua kênh phân phối truyền thống, điều này làm giảm doanh thu của các công ty Bảo hiểm này trong khi chi phí thì lại tăng lên. Không những thế việc các doanh nghiệp bảo hiểm liên tiếp có những cái "bắt tay" hợp tác với ngày càng nhiều ngân hàng để bán sản phẩm bảo hiểm cũng khiến những doanh nghiệp bảo hiểm chưa triển khai mô hình này khá "sốt ruột" và lo lắng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ mới hoạt động có vẻ gặp khó khăn trong việc chọn đối tác ngân hàng để liên kết, bởi vì những ngân hàng lớn và uy tín thì đã liên kết với nhiều đối tác bảo hiểm. Dù việc hợp tác bán bảo hiểm với các ngân hàng không có chuyện ký kết độc quyền với doanh nghiệp bảo hiểm, nhưng vị thế của người đến sau cũng tạo cho các doanh nghiệp mới có những cái khó và băn khoăn nhất định. 3. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN BANCASSURANCE TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM Hoạt động Bancassurance ở Việt Nam đã ra đời từ giữa những năm 80 bằng việc các ngân hàng thực hiện khuyến mãi các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ cho khách hàng nhưng sự hợp tác giữa bảo hiểm với ngân hàng ở Việt Nam mới dừng lại ở những hình thức sơ đẳng. Thực tế thế giới, Bancassurance đã trở thành một kênh bán hàng chính yếu, nhưng tại Việt Nam, Bancassurance vẫn chỉ được đánh giá là một kênh bán hàng có nhiều cơ hội, dù hiện tại, đa số doanh nghiệp bảo hiểm đều nhìn tiềm năng to lớn của nó. Không thể phủ nhận một số hiệu quả ban đầu của kênh bán hàng này, đặc biệt đối với những doanh nghiệp bảo hiểm có "sân sau" là ngân hàng mẹ. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp bảo hiểm khác vẫn còn những băn khoăn, vì không phải nhân viên ngân hàng nào cũng nhiệt tình tư vấn cho bảo hiểm. Mặc khác loại hình bảo hiểm nhân thọ kết hợp với sản phẩm ngân hàng (Bancassurance) đã du nhập vào Việt Nam từ lâu nhưng chỉ dừng lại ở việc hợp tác ngân hàng - bảo hiểm hoặc các công ty bảo hiểm nhân thọ xây dựng những sản phẩm phù hợp để nhờ ngân hàng là nhà phân phối sản phẩm mà chưa có công ty nào chuyên kinh doanh loại hình này. Mới đây, một liên doanh được ra mắt khá rầm rộ - SeABank chọn lựa bắt tay cùng Công ty bảo hiểm của Tập đoàn BNP Paribas Assurance (Cardif) và ngân hàng Vietcombank để lập nên Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Vietcombank - Cardif (VCLI). Đây là sự lựa chọn khá nhanh và nhạy cảm cho sự ra đời của một doanh nghiệp đứng ra chuyên kinh doanh loại hình này – “một xu hướng đầu tư mới trên thị trường bảo hiểm Việt Nam”. Tuy nhiên khi nhìn nhận vấn đề một cách khái quát và toàn diện hơn cho phép chúng ta đưa ra nhận xét rằng việc phát triển Bacassurance trong thời gian qua vẫn chưa xứng tầm với tốc độ phát triển kinh tế và những tiềm năng của nước ta trong lĩnh vực này; những ưu khuyết điểm mà chúng ta đã phân tích trên là một thực tiễn khách quan. Vậy một câu hỏi lớn đặt ra: Để có một bacassurance đúng nghĩa như tên gọi của nó tại Việt Nam thì phải làm những gì và làm như thế nào? Một số vấn đề đặt ra mang tính chất định hướng và trao đổi: Nhận thức. Môi trường pháp lý. Hình thức, phương pháp. Trình độ, năng lực. 3.1 Về nhận thức Hiện nay chúng ta đang sống và tiếp tục phát triển trong một nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế phát triển không ngừng. Kinh tế tri thức lấy ngành công nghệ cao làm trụ cột, sản phẩm công nghệ cao tồn tại trong mạng lưới và hệ thống sinh thái gắn kết với nhau và ít nhiều ảnh hưởng tới nhau. Gắn theo xu thế của thời đại, về chính trị chuyển từ đối đầu sang đối thoại thì trong kinh tế chuyển từ cạnh tranh đối kháng sang cạnh tranh hợp tác. Thời đại cạnh tranh và hợp tác để cùng tồn tại, có sự phân hoá lớn đồng thời có sự cộng sinh giữa độc quyền và chống độc quyền. Cạnh tranh hợp tác đã làm hình thành lên các tổ chức, các liên minh kinh tế thương mại như: Khối thị trường chung châu Âu(EU), khối (NAFTA), OECD, AFTA, ASEAN, APEC, … Ở các nước phát triển, nguồn thu từ hoạt động bảo hiểm ngân hàng dự tính sẽ cho tỷ suất lợi nhuận tương đương với nghiệp vụ cho vay truyền thống, tạo nguồn thu lớn cho ngân hàng với rủi ro thấp hơn nhiều so với hoạt động tín dụng. Ở Việt Nam ta cũng có câu:”Buôn có bạn, bán có phường”, theo nhìn nhận của nhiều chuyên gia, sự hợp tác trong kinh doanh nói chung và việc kết hợp giữa ngân hàng - bảo hiểm tại Việt Nam sẽ là xu thế phát triển mạnh trong thời gian tới, đặc biệt khi việc thanh toán tiền mặt giảm dần và được thay thế bởi phương thức thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Một lý do khác, do mức thu nhập của người dân ngày càng cao, việc triển khai trả lương qua thẻ, điều kiện hạ tầng công nghệ, trình độ nhận thức của cả người dân về ngân hàng và ngành bảo hiểm ngày càng được nâng lên. Bên cạnh đó, lĩnh vực ngân hàng phát triển mạnh trong nửa thập kỷ qua, hứa hẹn một tương lai phát triển sôi động hơn nữa; do vậy, mô hình liên kết giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng sẽ xuất hiện ngày một nhiều trong thời gian tới. 3.2 Môi trường pháp lí Ở nhiều nước, có một số ít loại sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ thuộc loại bắt buộc phải mua theo quy định của pháp luật bảo hiểm. Cũng có những trường hợp “phải mua” theo yêu cầu của các chủ những lợi ích liên quan như người cho vay tiền, phải mua đề đáp ứng thói quen, tập quán của người tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ…. Một số ngân hàng vẫn có quy định yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm cho tài sản hình thành từ nguồn vốn vay để giảm thiểu rủi ro tín dụng. Tại Việt Nam, điều mà các DN bảo hiểm tiên phong đi phát triển kênh bán hàng này vẫn còn băn khoăn đó là trong Luật kinh doanh bảo hiểm chưa có nội dung hướng dẫn cho việc khai thác bảo hiểm qua ngân hàng (mà vẫn coi kênh bán hàng này là 1 đại lý tổ chức thông thường). Chính vì vậy, trong quá trình vừa làm, vừa học hỏi các công ty bảo hiểm gặp không ít khó khăn khi triển khai kênh bán hàng bán lẻ này. Bên cạnh đó một số tồn tại khác như là những rào cản cho sự phát triển loại hình này tại Việt Nam như: hành chính rườm rà quan liêu, tham nhũng, thiếu sự minh bạch về luật pháp và giao kết hợp đồng, các vấn đề hóc búa về cơ sở hạ tầng, …  Vì vậy, cần phải có những quy định pháp lý mang tính chất Nhà nước để định hướng và thống nhất chung tạo hành lang pháp lý thông thoáng để Bancassurance phát triển đúng hướng và mang lại hiệu quả thiết thực tại môi trường Việt Nam. Khách quan mà nói thì việc mua bảo hiểm cho dù có tự nguyện hay không sẽ có lợi cho người mua nhưng phải với điều kiện: việc mua bán bảo hiểm cần đảm bảo được các yếu tố cần thiết như: dịch vụ bảo hiểm phải dảm bảo chất lượng, giá phí bảo hiểm hợp lý, sản phẩm bảo hiểm phải hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của người mua. Nếu không, việc mua bán sẽ là không công bằng với người mua bảo hiểm và đẻ ra những hệ quả không có lợi khác cho chính bản thân ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm. Một thực tế khác, trong thời gian qua các công ty bảo hiểm vẫn chưa có sự hợp tác thực sự nhiệt tình từ phía ngân hàng, mặc dù ngân hàng đã ký hợp tác với công ty bảo hiểm, nhưng vẫn không ít ngân hàng ký để mà… ký, việc bán được bao nhiêu sản phẩm qua hệ thống của mình thì không quan tâm lắm; đối với các công ty bảo hiểm, hiện cũng đang phải đối mặt với những khó khăn như chưa giải quyết được các mâu thuẫn giữa kênh bán hàng này với những kênh bán hàng cũ, chẳng hạn như kênh bán hàng trực tiếp qua đại lý. Trong khi đó, với kênh Bancassurance cần phải có một chương trình thúc đẩy động lực tới các nhân viên ngân hàng thực hiện bán chéo sản phẩm của bảo hiểm. Trên cơ sở đó bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng phải xây dựng cho mình quy chế phối hợp mang tính ràng buộc giữa các bên để cùng gắn kết và mục tiêu chung, tránh tình trạng “cục bộ” và lợi ích riêng của bản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo hiểm- Bancassurance và hoạt động bancassurance tại việt nam hiện nay 2012.doc
Tài liệu liên quan