Tiểu luận Bạo lực gia đình hiện nay, nguyên nhân và giải pháp

Mục lục

Đặt vấn đề

CHƯƠNG I.

Thực trạng vềbạo lực và gia đình ởnước ta hiện nay.

1.1. Bạo lực gia đình được hiểu nhưthếnào?

1.2. Bạo lực trong quan hệvợchồng.

1.3. Bạo lực của cha mẹ đối với con cái.

CHƯƠNGII.

Nguyên nhân và giải pháp chống lại bạo lực gia đình.

2.1. Nguyên nhân.

2.2. Giải pháp .

Kết luận

pdf26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 42725 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bạo lực gia đình hiện nay, nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành nguyên nhân chủ yếu làm tổn hại sức khoẻ, đến sự bền vững của gia đình, vi phạm pháp luật. Bạo lực thân thể trong quan hệ vợ chồng không chỉ tác động trực tiếp đến sức khoẻ, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tình cảm của trẻ em. Gia đình không hoà thuận, cha mẹ đánh đập nhau sẽ tác động không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin ở con trẻ vào cha mẹ của mình, không thấy được ý nghĩa của cuộc sống. V.A.Xukhômlinxiki đã nhận xét: “Những đứa trẻ tốt thường lớn lên trong những gia đình mà bố mẹ chúng yêu thương nhau thực sự, cũng biết yêu thương và tôn trọng người khác. ở những đứa trẻ đó có sự yên tính trong tâm hồn, một tâm hồn mạnh khoẻ, khoẻ khoắn, vững chắc, một niềm tin chân thành vào điều thiện”. Chính vì vậy, cha mẹ luôn phải là tấm gương sáng để trẻ học tập và noi theo. Như vậy, có thể thấy rằng bạo lực thân thể là một những những nguyên nhân chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến chỗ tan vỡ, đẩy trẻ em phải ra đường sống lang thang, thậm chí trở thành tội phạm. Bên canh những hành động bạo lực giã man - và thô bạo thì một loại bạo lực khá phổ biến hiện này là bạo lực tình dục. - Bạo lực tình dục: 6 Bạo lực tình dục là cưỡng ép, ép buộc phuu nữ phải làm những việc liên quan đến tình dục trái với mong muốn của họ; bàn luận về những bộ phận trên cơ thể phụ nữ, cưỡng hiếp, giam cầm và sử dụng công cụ tình dục; xem phụ nữ chỉ như là một đối tượng tình dục; ép phụ nữ phải quan hệ tình dục hoặc bắt phải xem các hình ảnh khiêu dâm mà người phụ nữ không muốn hoặc ép phải quan hệ tình dục khi đã bị đánh đập, cố tình gây đau đớn hoặc tổn hại cho họ trong quá trình quan hệ tình dục. Trong đời sống vợ chồng ở nhiều gia đình, hôn nhân được hiểu như là sự cho phép người đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với người vợ vô điều kiện và họ có sức mạnh để củng cố sự tiếp cận này thông qua cưỡng bức nếu thấy cần thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan hệ với chồng đã bị chồng chì chiết, chửi mắng thậm tệ, thậm chí bị trói vào cột nhà để hãm hiếp. Bị bạo hành về tình dục đã khiến người phụ nữ có cảm giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng nên cảm thấy quan hệ sợ mỗi khi gần gũi với chồng. Trong quan hệ “phòng the”, lẽ ra người phụ nữ cũng có quyền được trân trọng thì trái lại, họ lại bị trước đi quyền được làm vợ, nghĩa là được nâng niu, chiều chuộng và được yêu thương. Họ cỉ có một nhiệm vụ duy nhất là phục vụ và phục vụ. Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu về Giới, Gia đình, Phụ nữ và Vị thành niên thì trong hơn 30.000 cuộc gọi điện thoại đến nhờ Trung tâm tư vấn có liên quan đến bạo lực gia đình thì có gần 2000 cuộc gọi liên quan đến bạo lực tình dục (Gia đình và Xã hội, số 160 ra ngày 6/10/2005). Bạo lực tình dục đang ngày càng trở nên pổ biến ở các nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều người phụ nữ nói chung, thậm chí cả những người phụ nữ là nạn nhân của dạng bạo hành này cũng không biết họ đang bị bạo lực tình dục, nhiều người phụ nữ còn rất ngạc nhiên. Quả thật, bạo lực tình dục còn là vấn đề khá mới mẻ với rất nhiều phụ nữ trong xã hội ta hiện nay. 7 Đã có rất nhiều bài báo viết về vấn đề bạo lực tình dục trong gia đình như bài viết “Bạo lực tình dục - nỗi kinh hoàng trong đêm” của tác giả Vạn Xuân (Báo Gia đình và Xã hội số 160 ra ngày 6/10/2005). Bài “Chống bạo lực tình dục” của Trần Tuấn Linh (Tạp chí Gia đình và Trẻ em); bài “Bạo dâm - hành vi ngược đãi phụ nữ cần được ngăn chặn” của Phúc Hưng và Ngọc Hùng (Tạp chí Gia đình và Trẻ em). ở các bài viết này, các tác giả đã nêu lên nhiều trường hợp cụ thể những phụ nữ là nạn nhân của nạn bạo lực tình dục. Như vậy có thể nói nạn bạo lực tình dục đã và đang trở thành vấn nạn của các gia đình và toàn xã hội. Nạn nhân của tệ nạn này phần lơn là những người phụ nữ. Bạo lực tình dục không chỉ gây đau đớn về mặt thể xác đối với phụ nữ mà còn gây ra hậu quả về mặt tinh thần hết sức nghiêm trọng, trở thành nỗi kinh hoàng trong đêm của rất nhiều phụ nữ. Sự lạm dụng về tình dục gây ra những căn bệnh có liên quan đến sức khoẻ sinh sản khó điều trị nhất như mang thai ngoài ý muốn HIV, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, hay những biến chứng thai sản.... Dạng bạo lực này ngày càng gây hậu quả nghiêm tọng đối với phụ nữ. Tuy nhiên dạng bạo lực này không mấy ai biết và chú ý bởi vì nó được nguỵ trang một cách kín đáo bởi vỏ bọc là “quan hệ tình cảm” giữa hai vợ chồng. Mặt khác, đây là vấn đề tế nhị cho nên chị em thường dấu giếm vì không muốn vạch áo cho người xem lưng”. Những điều này góp phần làm cho dạng bạo lực này ngày một phát triển, đặc biệt ở nông thôn và gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với phụ nữ. Ngoài hai hình thức bạo lực trên còn có nhiều dạng bạo lực khác làm tổn thương lớn đến người phụ nữ như không quan tâm, bỏ rơi, không nói chuyện như kiểu “chiến tranh lạnh”, chửi bới, kể cả những hành vi quản lí tiền nong chi tiêu trong gia đình.... Các dạng bạo lực này có thể quy vào dạng bạo lực tinh thần. - Bạo lực tinh thần: 8 Theo thống kê của trung tâm nghiên cứu ứng dụng về Giới, Gia đình, Phụ nữ và Vị thành niên thì trong hơn 30.000 cuộc điện thoại gọi đến Trung tâm có đến 23.233 cuộc liên quan đến bạo lực tinh thần chiếm 78%; 9, 6% là bạo hành thể chất; 5, 7% là bạo hành tình dục (Báo Giáo dục và Dia đình, số 161, ra ngày 8/10/2005). Đây chỉ là những thống kê sơ bộ nhưng cũng đủ thấy bạo lực tinh thần đã và đang trở nên nghiêm trọng tỏng đời sống vợ chồng. Với bạo lực thể xác, nỗi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể người phụ nữ nhưng với bạo lực tinh thần thì vết thương ấy nông sâu như thế nào không ai đo đếm được. Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ gặm nhấm ý chí, tâm can của người phụ nữ khiến những nạn nhân này luôn trong tình trạng căng thẳng dẫn đến “stress”, tâm thần ở thể nhẹ hoặc thần kinh và hậu quả đau lòng nhất là có nhiều người quá bế tắc đã phải tìm đến cái chế để giải toả. Nếu như những vết thương tích trên cơ thể người phụ nữ do người chồng đánh đập theo thời gian cũng sẽ mờ dần thì bạo lực tinh thần lại là những vết thương khó lành, thậm chí càng theo thời gian (kéo dài tình trạng này) thì vết thương càng hằn sâu trong tâm của người phụ nữ. Thực tế cho thấy bạo lực tinh thần sẽ dẫn đến tan vỡ hạnh phúc lứa đôi của các cặp vợ chồng, gây đổ vỡ cuộc sống gia đình. Bạo lực tinh thần vì vậy cũng là một vấn nạn râts nguy hại đối với xã hội. Bạo lực tinh thần phổ biến ở thành phố, nhất là những gia đình trí thức, nhiều vặp vợ chống tuy sống chung một mái nhà nhưng họ lại sống ly thân (ăn riêng, ở riêng). Nguyên nhân của bạo lực tinh thần có rất nhiều do tính gia trưởng của người đàn ông, luôn áp đặt, bắt vợ phải nghe theo, làm nô lệ cho mình, do mâu thuẫn vợ chống.... Tuy nhiên một thực tế chỉ ra rằng phụ nữ bị bạo hành tinh thần càng chịu đựng càng rơi vào bế tắc. Những bài báo đã mô tả những hành động tội ác dã man, vô nhân tính của người chồng đối với vợ mình và rút ra những bài học sau những vụ bạo lực dã man đó. 9 Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình nhất là bạo lực về mặt thể xác gây ra hậu quả rất nghiêm trọng đối với người phụ nữ: Gây thương tích đau đớn, thậm chí cái chết của người phụ nữ, nhiều gia đình tan nát do cha mẹ ly hôn.... Theo báo cáo thống kê 8 năm thực hiện Luật Hôn nhân Gia đình của Toá án nhân dân thành phố Hà Nội (1995) Nguyên nhân ly hôn do bị đánh đập, ngược đãi là 7.372 vụ chiếm tỷ lệ 31.1%. Theo toà án nhân dân thành phố Hải Phòng sau 8 năm thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình có 2.359 trên tổng số 7.743 vụ việc về hôn nhân, gia đình có hành vi bạo lực, trong đó có 22 vụ cấu thành tội phạm hình sự. Như vậy có thể thấy rằng bạo hành trong gia đình là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến chỗ tan vỡ, đẩy trẻ em ra đường phải sống lang thang, thậm chí trở thành tội phạm. Bên cạnh những hành động bạo lực giã man và thô bạo, một loại bạo lực khá phổ biến hiện nay là sự ép buộc vợ quan hệ tình dục. Bạo lực tình dục một vấn đề đã cũ nhưng lại rất mới. Bởi vì thực tế nhiều người phụ nữ nói chung, thậm chí cả những người phụ nữ bị nạn bạo hành náy cũng không biết nó là một dạng bạo lực. Vì vậy khi được người khác cho biết họ đang bị bạo lực tình dục, nhiều người phụ nữ còn rất ngạc nhiên. Quả thật bạo lực tình dục còn là vấn đề khá mới mẻ với rất nhiều phụ nữ trong xã hội ta hiện nay. Có rất nhiều bài báo viết về vấn đề này: Bài viết: “Bạo lực tình dục, nỗi kinh hoàng trong đêm” của tác giả Vạn Xuân đăng trên báo Gia đình và Xã hội số 160 ra ngày 6/10/2005; bài viết “chống bạo lực tình dục” của Trần Tuấn Linh trên tạp chí Gia đình và trẻ em); Bài (Bạo dâm, hành vi ngược đãi phụ nữ cần được ngăn chặn” của Phúc Hưng - Ngọc Hùng đăng trên tạp chí (Gia đình và Trẻ em). ở các bài viết này các tác giả đã chỉ ra một vài trường hợp cụ thể những người phụ nữ là nạn nhân của nạn bạo lực tình dục. 10 Nói về bạo lực trong gia đình phần lớn đề cập đến bạo lực chống lại phụ nữ - một vấn đề nghiêm tọng và phổ biến, ngày càng có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên, theo thống kê cũng cho thấy số vụ bạo lực của vợ đối với chồng chũng tăng lên nhanh chóng. Năm 2001 số vụ bạo lực của vợ đối với chồng tăng 3%, trong tổng số những vụ nghiêm trọng đối với đàn ông. Nguyên nhân của thực trạng này bắt nguồn từ bình đẳng giới. Trong xã hội hiện đại, vai trò của người phụ nữ được khẳng định, ngày càng có nhiều phụ nữ nắm kinh tế trong gia đình do vậy, họ ngày càng nắm quyền chi phối các hoạt động khác trong gia đình. Mặt khác có những gia đình do người chồng quá hiền lành, nhu nhược, thua kém vợ về nhiều mặt nên luôn bị vợ lấn áp, trở thành nạn nhân của nạn bạo lực đặc biệt là nạn bạo lực tinh thần. Khi trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình, hầu hết các ông chồng đều không có cách gì đối phó lại vợ giống như phụ nữ thường làm khi bị chồng hành hạ như là báo cảnh sát, kêu cứu.... Phần vì họ nghĩ rằng họ có thể chống đỡ lại được, phần vì họ ngại để lộ ra chuyện này bời dù sao họ cũng “đường đường là đáng mày râu” hay họ gì khi bị lép vế. Như vậy không phải chỉ có phụ nữ mới là nạn nhân của các loại bạo hành trong gia đình mà một bộ phận nam giới cũng là nạn nhân của bạo hành trong gia đình. Dù là phụ nữ hay nam giới thì bạo lực trong xã hội cũng đã và đang là vấn đề bị xã hội lên án, vì hậu quả của nạn bạo lực trong gia đình là nguyên nhân của các cuộc ly hôn, gia đình tan nát, hạnh phúc lứa đôi bị rạn nứt, tan vỡ, con cái bơ vơ. bạo lực gia đình không những tác động xấu đến các gia đình mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của toàn xã hội. 1.3. Bạo lực của cha mẹ đối với con cái. Cũng như hình thức bạo lực giữa vợ chồng, bạo lực cha mẹ với con cái là một trong hai hình thức bạo lực khá phổ biến trong gia đình Việt Nam hiện nay. Báo Gia đình và Trẻ em kỳ 1 tháng 9/2005 bài của tác giả Thân Trung Dũng đã nói khà rõ vấn đề này. Thông qua hợp tác giữa Viện 11 nghiên cứu Thanh niên với tổ chức Radda Barren đã điều tra dư luận học sinh với chủ đề “hình phạt của cha mẹ đối với trẻ em” tại 12 điểm, đại diện các tỉnh, thành: thành phố Đà Nẵng, Nghệ An, thành phố Hà Nội, Hải Dương, thành phố Hải Phòng và tỉnh Hoà Bình với sự tham gia của 1240 học sinh tiểu học và trung học cơ sở (632 nam và 608 nữ). Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ trẻ em nói rằng, cha mẹ thường xuyên sử dụng hình phạt khi trẻ em mắc lỗi (45, 7), đôi khi sử dụng (50, 1%) và không xử phạt (4, 1%). Như vậy, hầu hết cha mẹ đều sử dụng hình phạt đối với con cái khi chúng mắc sai phạm. Tuy nhiên, còn 4, 2% cha mẹ không quan tâm hay ít để ý đến những sai phạm của con cái mình. Điều này cho thấy, trẻ em thừa nhận việc cha mẹ sử dụng hình phạt đối với chúng chiếm tỷ lệ cao và các hình thức xử phạt rất đa dạng. Trong số các hình phạt thì hình thức mắng chiếm tỷ lệ cao nhất 64, 9% so với đánh là 23, 6%, những hình thức khác là 9, 5%. Như vậy số đông các bậc cha mẹ dùng hình thức mắng con khi con có lỗi. Tuy nhiên, còn hơn 1/4 số trẻ phạm lỗi bị hình phạt đánh và gần 1/50 còn phải chịu các hình phạt khác, tuy không đau về thân thể, nhưng vô cùng ảnh hưởng xấu đến tâm lý như “xỉ nhục, phạt không cho ăn cơm, phạt đứng nắng”. Kết quả điều tra cũng cho thấy: trẻ nhỏ từ 6 - 10 tuổi hay bị mắng là 100%; bị chửi là 18%; bị xỉ nhục là 4, 9% và bị đánh đập là 55%; hình thức khác là 8% và tỷ lệ này ở nhóm trẻ từ 11 - 16 tuổi, tương ứng là 92% ; 40% ; 7, 3%; 69% ; 9%. Những số liệu thu được cho thấy dù ở lứa tuổi nào, tỷ lệ trẻ em chịu sự trừng phạt của cha mẹ là tương đối cao. (Báo khoa học về Phụ nữ số 3-2005). Như vậy, việc mắng, đánh của cha mẹ đối với con cái thực sự là mối quan tâm lớn trong xã hội hiện nay. Với lô suy nghĩ bỏ thủ: “con tư, tui đẻ, tui nuô, tui có quyền đánh (Lê Thị Quý, Báo Khoa học về phụ nữ số 4/1994). Một số cha mẹ tự cho mình cái quyền được dùng vũ lực để 12 giáo dục con cái. Họ cứ tưởng rằng phải dùng đòn roi nghiêm trị thì con cái mới nên người được. Bởi vậy, khi con cái mắc khuyết điểm họ không lựa lời khuyên bảo mà áp dụng những hình phạt nặng nề như bắt úp mặt vào tường mấy tiếng đồng hồ, bắt nằm sấp lên giường để đánh đòn, thậm chí có người trói con vào cột đánh đến thâm tím mặt mày, hoặc dìm con xuống nước lạnh giữa mùa đông rét mướt.... chỉ để “dạy con”. Những hình thức dạy dỗ con kiểu như vậy chính là sự lạm dụng trẻ em về thân thể nhưng lại không được đại đa số những người cha, người mẹ nhìn nhận đúng. Việc ngược đãi trẻ em do đó vẫn diễn ra một cách thường xuyên thông qua cách dạy dỗ của cha mẹ, mà điển hình là ở nôgn thôn do “không chào hỏi, mời mọc người lớn tuổi, người trên”. Trong số 260 bố mẹ trả lời về các lỗi trẻ thường mắc phải thì có 168 trẻ trai thường mắc lỗi này chiếm 64, 6%; có 151 trẻ gái chiếm 58, 1%... số trẻ trai mắc lỗi bị cha mẹ xử lý là 168 (100%) và số trẻ gái mắc lỗi bị cha mẹ xử lý là 150 (9, 3%) (báo Gia đình và trẻ em trong bài cha mẹ ở nông thôn với việc sử dụng bạo lực trong giáo dục con cái) và “Làm hư hỏng, làm vỡ, làm gãy đồ dùng lao động, sinh hoạt trong gia đình”. Cũng là một nguyên nhân bạo lực cha mẹ đối với con cái thì có 134 trẻ trai (51, 5%) và 123 trẻ gái (47, 3%). Số trẻ trai bị cha mẹ xử lý là 91, 8% (123) và 91% (112) trẻ em gái. Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng không chỉ bị đánh đập bởi cha mẹ - người tự coi là có quyền dạy con bằng vũ lực - mà trẻ em trong gia đình còn là đối tượng bạo lực tình dục. Cũng trong báo khoa học về Phụ nữ số 3 (70) 2005 viết: “Lạm dụng tình dục trẻ em trong gia đình là những hành động dâm dục của người lớn trong gia đình đối với trẻ em, chủ yếu là với trẻ em nữ. Những trẻ lạm dụng tình dục trẻ em trong phạm vi gia đình là những kẻ biết lợi dụng quyền lực và vị thế của họ trong gia đình, lợi dụng sự phụ thuộc, sự ngây thơ, ngờ nghệch của trẻ để có hành vi mang ý đồ dâm dục bất chính, từ chỗ có thể chỉ là vuốt ve, ôm ấp - sờ mó vào 13 những bộ phận kín của trẻ cho đến hành vi giao cấu - cưỡng hiếp các em. Thật đáng lên án khi chính các em bị những người thân trong gia đình lạm dụng. Những người này có thể là những ông bố dượng, người bác, người chú, người anh trong quan hệ huyết thống, quan hệ gần gũi thân thuộc với các em trong gia đình, nhưng chỉ vì những ham muốn, dục vọng thấp hèn, mà quên đi cả luân thường đạo lý, quên đi đạo đức tối thiểu của một con người. Từ đó có những hảnh vi man rợ, táng tận lương tâm bị lạm dụng tình dục trẻ em. Cũng cần phải nói là có một số tí, trí thức cho rằng nên hạn chế dùng bạo lực trong gia đình mà khuyên bảo giáo dục con bằng lời nói, nêu gương người khác. Tuy ở nước ta, bạo lực giữa cha mẹ đối với con cái là quá phổ biến phần do nhận thức kém, do nhận thức kém, do kinh tế. Tuy nhiên nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Theo kết quả khảo sát về thực trạng bạo lực trong gia đình tại vùng Đông Nam Bộ của vụ Gia đình, Uỷ ban dân số, giáo dục, trẻ em cho biết: 56, 4% cho rằng bạo lực gia đình có ảnh hưởng xấu đến tâm lý con cái: 46, 1% cho rằng bạo lực trong gia đình sẽ dẫn đến việc con cái dễ dàng sa vào các tệ nạn xã hội; 58, 7% cho rằng có ảnh hưởng đến học hành của con cái và 35, 4% đồng ý với ý kiến cho rằng bạo lực trong gia đình có ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình. Qua con cái sau này. Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng: trẻ từ nhỏ đã phải trải qua nhiều bất hạnh do bạo lực gia đình gây ra thường có tính cách đặc biệt như thiếu tự tin, rụt rè, lo sợ, hay làm hư hỏng việc. Một số lớn lâm vào cảnh lang thang, nghiện hút vào tù vì bạo hành có đến 10 - 20% nguyên nhân gây tổn hại đến sức khoẻ tâm thần của trẻ em có tính chất bẩm sinh, di truyền, còn lại 2/3 là các yếu tố gia đình dẫn đến rối loạn hành vi chống đối, tự sát, nghiện hút (Bài 7: Bạo lực gia đình, nhân cách của trẻ em) Báo Gia đình và Xã hội số 165 (827) ra ngày 15/10/2005 tácgiả Vạn Xuân). Ngoài ra hành động bạo lực của cha mẹ đối với con cái còn dẫn đến làm băng hoại tình cảm mẫu tử, phụ tử: thứ nhất, trẻ mất niềm tin, sự an 14 toàn và coi thường nhân cách của cha mẹ, Khi các em là nạn nhân gián tiếp của bạo lực gia đình. Thứ hai, trẻ vừa bị đau đớn về mặt thể xác, vừa bị tổn thương về mặt tình cảm, trẻ có thể hoảng sợ, chán ngán gia đình, thậm chí căm thù cha mẹ và muốn tìm con đường khác đẻ thoát khỏi cuộc sống. Đôi khi các em là nạn nhân trực tiếp của bạo lực gia đình. Hậu quả bao lực gia đình đối với con cái. Trẻ em là những trẻ em phát bệnh trầm cảm ở tuổi mới lớn. Khi nạn nhân bị bạo hành từ 5 trận đòn cay nghiệt, sẽ bị hụt hẫng về tình cảm, mất đi sự thương yêu che chở của người thân. Đồng thời gia tăng hiện tượng trẻ em có những hành vi lệch chuẩn, hướng ra đường phố, đi tìm kiếm sự bù đắp về cả vật chất và tinh thần mà trẻ thiếu hụt trong gia đình. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, cả nước có khoảng 50.000 trẻ lang thang bởi vì lý do khác nhau, trong đó đáng chú ý có tới 40% trẻ lang thang do gia đình tan vỡ, bất hạnh. Cảnh “không gia đình” khiến các em dễ bị bóc lột, lạm dụng tình dục bị lôi kéo vào những hoạt động phi pháp và dễ bgị tổn thương về nhân cách (Bài 7 Vũ Thị Cẩm Tú), Báo Gia đình và Xã hội. Tóm lại, hậu quả để lại cho mỗi gia đình, Việt Nam là nhiều đứa trẻ lớn lên mà tuổi thơ của chúng đầy ắp những tác động tiêu cực và hậu quả có thể là mầm mống tạo ra “những bản sao của bạo lực gia đình”. 15 CHƯƠNG II. Nguyên nhân và giải pháp chống lại bạo lực gia đình. 2.1. Nguyên nhân. Vì sao bạo lực gia đình hiện nay lại trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến? Xung quanh vấn đề này có nhiều nguyên nhân khác nhau để giải thích: * Thứ nhất: Do sự bất bình đẳng giới. Có thể nói sự bất bình đẳng giới là nguyên nhân gốc rễ của bạo lực gia đình đối với phụ nữ. ở nhiều xã hội, nhiều nên văn hoá, người ta dung thứ, thậm chí tán thành bạo lực quan hệ vợ chồng, nhất là việc chồng đánh vợ. “Tại Mỹ, khoảng 1/4 số người được hỏi thuộc cả 2 giới tin rằng: nếu chồng đánh vợ thì hẳn có lý do chính đáng và một tỉ lệ thấp hơn cho rằng: nếu vợ đánh chồng chắc không phải là vô cớ. Như vậy việc vợ chồng trong gia đình đánh nhau được thừa nhận như là một sự việc, một hiện tượng thường tình, nó đều có nguyên nhân của nó cả. Thái độ đó, sự thừa nhận ấy thể hệin rõ trong bài hát quen thuộc của họ: “a waman, a horse and a hickorytree. The more yow beat them, the better they be”( Giddens). Tạm dịch: “Một phụ nữ, một con người và một cây mai châu Anh càng đánh, họ càng tốt hơn). ở Việt Nam, quan niệm về địa vị và phân công vai trò trong gia đình theo giới vẫn mang nặng tính truyền thống. Việc mắng chửi và xâm phạm thân thể người phụ nữ ở một mức độ nào đó được coi là biện pháp người chồng có thể sử dụng khi cần thiết. Do ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến nên vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình từ xưa đến nay luôn bị hạ thấp, bị coi thường trong gia đình, phụ nữ chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là phục tùng chồng và gia đình nhà chồng, ngoài ra không được quyền tham gia ý kiến hoặc quyết định bất cứ một việc gì 16 khác. Sự bất bình đẳng giới trong xã hội phong kiến đã không cho phép người phụ nữ được học tập và tham gia hoạt động xã hội, họ bị trói chặt bởi đạo tam tòng (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Tư tưởng trọng nam khinh nữ cho rằng “con gái là con người ta”. Đến nay vẫn còn tồn tại một cách dai dẳng. Mong muốn có người nối dõi tông đường và trông cậy lúc tuổi già luôn thôi thúc các gia đình phải bằng mọi cách để sinh được con trai bởi họ cho rằng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không bao giờ được phép cãi lại chồng và gia đình nhà chồng nếu không sẽ bị coi là kẻ lăng loàn, không biết đạo làm vợ và sẽ bị đuổi về nhà cha mẹ đẻ. Ngược lại, người chồng lại hoàn toàn có quyền mắng chửi, đánh đập, xâm phạm thân thể người phụ nữ khi không vừa ý. Điều này được sự đồng tình của xã hội và sự thừa nhận của luật pháp phong kiến. Cho đến nay, sự bất bình đẳng trong quan hệ giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại dai dẳng ở nhiều lúc, nhiều nơi. Bạo lực gia đình vẫn được nhìn nhận như một vấn đề riêng tư, là chuyện quá trình thường như cơm bữa. Mặc dù hiện nay chúng ta vẫn đang hết sức cố gắng đấu tranh cho bình đẳng giới nhưng đây là một cuộc đấu tranh rất lâu dài bởi lẽ, từ xưa đến nay, trong gia đình, quyền uy của người đàn ông luôn cao hơn phụ nữ. Rất đông và thậm chí còn so sánh vợ với con theo nghĩa cả hai đều cần sự dạy dỗ của người chồng: “Dạy con từ thuở còn thơ Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về....” Nhiều phụ nữ Việt Nam từ thuở nhỏ đã được dạy theo những niềm tin như vậy nên họ chấp nhận bị chồng dùng bạo lực nếu họ có lỗi. Tóm lại, tư tưởng người chồng có quyền dạy vợ dạy con bằng bạo lực đã ăn sâu vào lối suy nghĩ của đại đa số người dân Việt. Do đó, họ mặc nhiên thừa nhận, thậm chí chấp nhận bạo lực trong gia đình. - Thứ hai: Liên quan đến bản chất gia đình. 17 So với các thể chế xã hội khác, nơi con người thường chỉ đóng một vai trò nào đó, và biểu hiện ở một vài khía cạnh nhân cách, thì gia đình là nơi mà mỗi thành viên bộc lộ toàn bộ nhân cách, con người thực sự của mình. Do đó trong gia đình có nhiều chủ để gây bất đồng tranh cãi và bạo lực diễn ra nhiều hơn những nơi khác. Hơn thế nữa, hôn nhân làm cho quan hệ vợ chồng mang sắc thái cảm xúc cao, như thế dễ khiến cho những bất đồng, xung đột bùng nổ về mặt tình cảm. Một sự bất đồng với đồng nghiệp tại nơi làm việc về sở thích âm nhạc không có cùng một cường độ cảm xúc như sự bất đồng giữa cha mẹ và con cái. Một người đàn ông có thể dễ dàng bỏ qua khi nữ đồng sự của mình nói nhiều, nhưng dễ nổi nóng nếu vợ mình tỏ ra lắm lời. Đó là kết quả thu được của một điều tra xã hội học. - Thứ ba: Sự hạn chế về trình độ dân trí của phụ nữ nói chung: Phụ nữ Việt Nam do còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ nên đa phần chỉ tập trung vào việc chăm sóc gia đình, chông con, ít có cơ hội học tập nâng cao trình độ và tham gia các hoạt động xã hội. Chính bởi lý do này ma phụ nữ Việt Nam nhìn chung có trình độ thấp hơn nam giới. Nói tới trình độ dân trí của phụ nữ là bao hàm cả kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, sự hiểu biết về y tế, giáo dục, pháp luật, giao tiếp.... đó là toàn bộ tri thức cần thiết tạo nên năng lực tư duy ứng xử và hoạt động. Chính sự hạn chế về trình độ học vấn đã quy định địa vị Kinh tế - xã hội thấp của phụ nữ. Phần đông những người phụ nữ là nạn chân của bạo lực gia đình đều là những người phụ thuộc kinh tế và chồng, hoặc là không chó thu nhập, hoặc là thu nhập rất thấp. Chính sự phụ thuộc và kinh tế đã tạo ra tâm lý lo sợ, không dám chống lại chồng ở người phụ nữ. - Thứ bốn: Sự im lặng của nạn nhân và dư luận: 18 Nhiều xã hội thường có xu hướng coi bạo lực gia đình là chuyện riêng tư nên không can thiệp với bất cứ hình thức nào. Sự bàng quang này vô hình chung đã dung thứ thậm chí khuyến khích bạo lực trong gia đình. Khi trong gia đình nếu có sự xô xát, đánh đập nhau thì các thành viên phải tự giải quyết. Theo quan niệm của người Việt Nam, xung đột gia đình là chuyện bình thường và khó tránh khỏi. Mọi người thường nói đến bát đĩa trong chạn còn có lúc bị xô đi đẩy lại huống hồ trong quan hệ gia đình”. Do vậy chỉ khi người vợ hoặc con cái bị đánh thành thương tích hay thường xuyên thì họ mới nhờ đến sự can thiệp của chính quyền địa phương. Ngay cả nạn nhân trực tiếp của bạo lực gia đình cũng không lên tiếng để tự bảo vệ mình mà lại cam chịu chấp nhận bạo lực, đặc biệt là bạo lực tình dục - lĩnh vực vẫn được coi là “thầm kín”. Có nhiều nguyên nhân giải thích sự im lặng này như: xấu hổ, không muốn “vạch áo cho người

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBạo lực gia đình hiện nay, nguyên nhân và giải pháp.PDF
Tài liệu liên quan