Tiểu luận Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ ở Việt Nam theo mục tiêu công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá

Khác với các nguồn lực khác – chỉ ở dạng tiềm năng - thì con người là một nguồn lực vô tận, một nguồn lực với việc tư duy của mình đã tác động tới các nguồn lực khác để biến chúng thành những thứ để phục vụ mục đích và lợi ích cho chính bản thân con người. Vì con người có tư duy, có trí tuệ, có ý chí và biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp tác động vào quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước.

Con người là một nguồn lực vô tận nó khác với các nguồn lực khác chỉ là hữu hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo và bồi dưỡng, khai thác hợp lý.

Trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ-kỹ thuật hiện đại đang dẫn đến nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ, do bàn tay bộ óc, trí tuệ của con người tác động vào làm biến đổi lịch sử phát triển của mình.

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ ở Việt Nam theo mục tiêu công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đích của quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam: a. Tính tất yếu: Loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội. Mỗi hình thái sau tiến bộ hơn, văn minh hơn hình thái trước. Mỗi hình thái kinh tế có một phương thức sản xuất nhất định được xác lập trên cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Nguyên nhân sâu xa của sự thay đổi hình thái kinh tế này bằng hình thái kinh tế khác tiến bộ hơn đó là do trong xã hội đó tồn tại những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà được giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Kết quả là một hình thái kinh tế mới ra đời mà cao nhất là chủ nghĩa cộng sản với tiền đề là chủ nghĩa xã hội đưa xã hội không còn tình trạng bóc lột, mọi người đều bình đẳng, sinh hoạt lao động dưới sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ tập chung dân chủ công bằng xã hội. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao sơ sở hạ tầng phù hợp với kiến trúc thượng tầng. Có rất nhiều cách để tiến hành lên chủ nghĩa xã hội, cũng có thể tuần tự trải qua từng hình thái kinh tế, nhưng có thể nhảy vọt bằng cách bỏ qua một vài hình thái kinh tế. Việt Nam đã chọn con đường thứ hai đó là con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản. Nhưng chúng ta vẫn bị mắc những sai lầm trong quá trình quá độ, nên nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Vì vậy muốn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. b. Mục đích: Mục tiêu của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH”. Đây là nhận định rất quan trọng đối với những bước tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới. Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì cần phát triển toàn diện nền kinh tế trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế của nền kinh tế nhiều thành phần. Xuất phát điểm của nước ta rất thấp (là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu), vì vậy phát triển nền kinh tế một cách toàn diện sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Điều quan trọng trong mục tiêu trên đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có như vậy mới thúc đẩy được lực lượng sản xuất phát triển, và một phương thức sản xuất mới ra đời phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, đẩy mạnh nền kinh tế đất nước phát triển. Tận dụng những tiềm năng sẵn có, tài nguyên thiên nhiên phong phú, điều kiện khí hậu thuận lợi, nguồn lao động dồi dào…Do đó cần phải có những mục tiêu, chính sách phát triển công nghiệp - là ngành đóng góp GDP vào loại cao nhất trong tất cả các ngành kinh tế - đặc biệt là ngành công nghiệp nhẹ mà trước đây hầu hết các nước tư bản coi như đây là một biện pháp chủ yếu để tiến hành các cuộc cách mạng, đưa đất nước trở thành cường quốc kinh tế phát triển mạnh nhất trên toàn thế giới: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản… Thực trạng sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam: Sau khi đất nước ta hoàn toàn được giải phóng, nước ta đi theo con đường XHCN, nhưng trong giai đoạn đầu của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, nước ta đã mắc phải những sai lầm rất quan trọng, đã đẩy đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, lạm phát phi mã nghiêm trọng, nạn quan liêu bao cấp, trì trệ trong sản xuất. Sản phẩm làm ra không đủ chất lượng, công tác hành chính thì bảo thủ, quan liêu do chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý điều hành không nhạy bén, nhân dân lao động lười nhác có tính ỷ lại, không năng động sáng tạo, không quan tâm đến kết quả đạt được, đã dẫn đến một thực tế từ trên xuống dưới hoạt động không thống nhất. Chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời do chưa hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành động trái quy luật, vận dụng một cách dập khuân máy móc, giáo điều mô hình kinh tế của người khác, trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng chủ quan duy ý thức. Chính vì vậy chúng ta đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và về thực chất là theo đường lối: “đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thiết lập một chế độ công hữu với thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”. Kết quả là trong nông nghiệp nước ta nhiều năm đã lâm vào cuộc khủng hoảng. Sản phẩm lương thực không đủ đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai, sức lao động , vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội, làm cho thị trường rộng lớn của nông thôn không phát triển kéo theo kìm hãm sự phát triển của các ngành khác. Đồng thời làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn càng lớn, làm tăng các làn sóng di cư từ nông thôn vào thành thị tạo nên những tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến trật tự an ninh. Trong công nghiệp, đã có thời gian chúng ta “ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp, mà không coi trọng đúng mức của sự phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ, không phát huy được năng lực sáng tạo của tầng lớp nhân dân lao động, cùng với nguồn vốn ít ỏi không cung cấp đầy đủ cho nghiên cứu khoa học và ứng dụng chúng trong thực tiễn sản xuất. Trong khi đó thì khoa học công nghệ phát triển như vũ bão ở các nước phát triển trên thế giới. Sự tiến chậm so với khoa học kỹ thuật của thế giới, đã làm cho kinh tế nước ta lạc hậu và chậm phát triển hơn rất nhiều. Một sai lầm nữa mà chúng ta mắc phải đó là phủ nhận quy luật giá trị sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường. Đây là do nhận thức chủ quan nóng vội của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn đó, đã làm cho nền kinh tế đã nghèo lại còn nghèo hơn. Các giải pháp: Vốn là điều kiện tiên quyết để CNH-HĐH thành công. Do đó cần phải huy động vốn và sự dụng vốn có hiệu quả. Vốn được hình thành từ hai nguồn: vốn trong nước và vốn ngoài nước. Nguồn vốn trong nước có thể huy động bằng cách tích luỹ nội bộ, phát hành trái phiếu, tiết kiệm…Nguồn vốn ngoài nước huy động bằng cách có những chính sách mở cửa và hội nhập với nước ngoài. Nước ta cần phải có chính sách phát triển thị trường vốn, tạo ra môi trường vĩ mô thuận lợi cho các hoạt động đầu tư. CNH-HĐH không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật tài nguyên mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người để sử dụng phương tiện đó. Để có nguồn nhân lực phù hợp với CNH-HĐH phải coi việc đầu tư cho giáo dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, phải xem giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, phải tạo cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội…Phải có những chính sách đảm bảo sức khoẻ và môi trường sống cho người lao động. Phải có sự phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng các ngành kinh tế, có như vậy mới thúc đẩy kinh tế phát triển một cách toàn diện và triệt để. Khoa học công nghệ được xác định là động lực của CNH-HĐH. Khoa học và công nghệ quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Việt Nam là một nước từ một nền kinh tế kém phát triển, lạc hậu, tiềm lực về khoa học và công nghệ còn yếu. Vì vậy cần phải có những chính sách để tập trung phát triển khoa học và công nghệ: khuyến khích bằng lợi ích vật chất, chính sách quyền sở hữu trí tuệ, chính sách ưu đãi nhân tài… Ngoài ra chính phủ và nhà nước ta cần phải có chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài, tiếp thu nhiều kỹ thuật công nghệ hiện đại và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản l‎ý của Nhà nước cũng là một trong những động lực để thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH sớm đưa đất nước về cơ bản đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp phát triển. Đây cũng là tiền đề quyết định chiến thắng của sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CNH-HĐH trước hết là phải giữ vững ổn định chính trị. Đảng cộng sản Việt Nam phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp toàn diện mọi hoạt động của xã hội. Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế xã hội có sứ mệnh tổ chức thực hiện đường lối CNH của Đảng cộng sản Việt Nam thông qua việc thực thi cơ chế chính sách điều hành các hoạt động kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu CNH-HĐH của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo với khoa học và công nghệ ở Việt Nam theo mục CNH-HĐH: Phát triển giáo dục và đào tạo: a, Phát triền nguồn nhân lực ở nước ta: Khác với các nguồn lực khác – chỉ ở dạng tiềm năng - thì con người là một nguồn lực vô tận, một nguồn lực với việc tư duy của mình đã tác động tới các nguồn lực khác để biến chúng thành những thứ để phục vụ mục đích và lợi ích cho chính bản thân con người. Vì con người có tư duy, có trí tuệ, có ý chí và biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp tác động vào quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước. Con người là một nguồn lực vô tận nó khác với các nguồn lực khác chỉ là hữu hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo và bồi dưỡng, khai thác hợp lý. Trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ-kỹ thuật hiện đại đang dẫn đến nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ, do bàn tay bộ óc, trí tuệ của con người tác động vào làm biến đổi lịch sử phát triển của mình. Do con người có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước, đến khoa học và kỹ thuật nên việc con người cũng ảnh hưởng tới sự nghiệp CNH-HĐH đất nước sẽ trở thành tất yếu. Chính vì vậy để thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH thì cần phải phát huy, phát triển nguồn lực con người. Đối với nền nông nghiệp chưa được công nghiệp hoá thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó quy định quy mô của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại quan trọng hơn vì nó tiến hành bằng việc lao động trí óc chứ không phải lao động bằng chân tay, nên hiệu quả của việc tiến hành công việc sẽ diễn ra nhanh hơn với chất lượng cao hơn, thúc đẩy việc phát triển kinh tế phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn. Do vậy để tiến hành CNH-HĐH thì tất yếu phải phát triển nguồn nhân lực bằng cách phát triển giáo dục và đào tạo. Nước ta đang tiến hành sự nghiệp CNH-HĐH, để thúc đẩy sự nghiệp đó diễn ra nhanh hơn hiệu quả hơn thì Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách phát triển nguồn lực con người đặc biệt là phát triển giáo dục và đào tạo. Việt Nam là một nước có lực lượng dồi dào, có tỷ trọng tương đối cao về lao động trẻ. Mặt khác lao động Việt Nam tuy thể chất nhỏ bé nhưng trẻ, năng động, cần cù, thông minh, luôn tiếp thu học hỏi và không ngừng sáng tạo. Ngoài ra, từ xưa đến nay con người Việt Nam ta có một truyền thống tốt đẹp, đó là truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, tính đoàn kết và ý thức cộng đồng cao. Do đó Đảng và Nhà nước ta cần có những chính sách phát triển giáo dục và đào tạo phải phù hợp với tính chất và trình độ của con người Việt Nam như: + Tăng ngân sách giáo dục và đào tạo, sử dụng ngân sách đó có hiệu quả. + Nhà nước phải chăm lo đến đời sống của đội ngũ giáo viên, cải thiện chế độ tiền lương, tăng phụ cấp cho giáo viên để giáo viên có thể nâng cao vị trí xã hội của mình. + Phải chú ‎ý đào tạo các ngành kỹ thuật, công nghệ nhiều hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. + Nâng cao chất lượng của các bậc tiểu học làm tiền đề vững chắc cho chất lượng của các cấp học tiếp theo. Với sự phát triển của ngành giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay thì Nhà nước ta còn cần phải thực hiện một số chính sách sau: + Căn cứ vào yêu cầu phát triển của các ngành và các vùng lãnh thổ, cần tổ chức bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp l‎ý trên phạm vi cả nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. + Cần phải trả lương đúng và đủ cho người lao động, trong đó chú ‎ đến đội ngũ cán bộ khoa học. + Tiến hành đào tạo bồi dưỡng lại lực lượng lao động hiện có và đào tạo lực lượng mới theo chuyên ngành nhất định. Cần phải đảm bảo sự cân đối và đồng bộ giữa lao động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao động khoa học. + Tiến hành một cách thường xuyên đồng bộ hoạt động giáo dục đối với người lao động về các mặt: chính trị, tư tưởng, lợi ích, pháp luật, trách nhiệm. + Phải nâng cao thể lực cho thanh niên và y tế học đường, đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể cho thanh thiếu niên. + Có những chính sách đào tạo các cán bộ khoa học trẻ có chuyên môn, có kỹ thuật, có chất lượng, có đủ khả năng nắm bắt được thông tin nhanh nhạy, có khả năng tiếp thu và áp dụng những khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của thế giới vào các ngành kinh tế trong nước, nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế này phát triển, đưa đất nước lên một tầm cao mới sánh kịp với các nước khác trên thế giới. b. Vai trò và nhiệm vụ của sinh viên trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước : Ngày nay thế hệ trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước, là nguồn nhân lực trẻ có kỹ thuật, có thể lực, trí tuệ và năng động sáng tạo. Thế hệ trẻ là nguồn nhân lực dồi dào, có kỹ thuật trong tương lai, là nguồn nhân lực thay thế cho tầng lớp đi trước và là nguồn không thể thiếu cho quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước. Bất kể sự phát triển kinh tế nào thì thế hệ trẻ cũng đóng vai trò hết sức quan trọng về tính năng động, sáng tạo và hiệu quả công việc cao. Chúng em những sinh viên năm nhất với những ước mơ và hoài bão muốn làm giàu và góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường thì mỗi sinh viên cần phải ‎ý thức được rằng: mình có nghĩa vụ xây dựng đất nước. Mỗi sinh viên có nhiệm vụ không ngừng học tập, luôn mở rộng tầm nhìn, nâng cao sự hiểu biết, luôn làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến. Đồng thời cần phải chuẩn bị kỹ cho mình mọi điều kiện, mọi tri thức nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thời đại, của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta cần phải xây dựng cho mình một lý tưởng sống gắn liền với việc giữ gìn độc lập , tự do của dân tộc, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuổi trẻ vừa dễ tiếp thu những điều tốt đẹp nhưng cũng dễ tiếp thu những điều xấu những tệ nạn xã hội, đây cũng chính là vấn đề cấp bách mà Nhà nước, gia đình , nhà trường, xã hội phải lên án và quan tâm đúng mức để nuôi dưỡng và đào tạo những nhân tài cho xã hội, những con người có đủ tài đủ đức có khả năng gánh trách nhiệm to lớn đó là xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng văn minh. Phát triển khoa học và công nghệ: Phát triển khoa học- công nghệ nói chung: Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của CNH-HĐH. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, CNH-HĐH nói riêng của các quốc gia. Việt Nam là một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu chính vì vậy mà Việt Nam về khoa học và công nghệ vẫn còn kém phát triển. Khoa học và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các ngành kinh tế. Nó thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển, nó góp phần làm tăng năng suất lao động, làm tăng chất lượng, số lượng sản phẩm. Đồng với việc áp dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực sản xuất giúp ta tiến kịp với sự phát triển của thế giới, tiếp cận được với những văn minh của nhân loại, giúp con người phát triển và tự hoàn thiện chính bản thân mình. Với sự phát triển như vũ bão của nền khoa học và công nghệ trên thế giới như hiện nay thì nước ta cần phải có những chính sách hợp lý để phát triển nền khoa học và kỹ thuật nước nhà, để nhanh sự nghiệp CNH-HĐH, phát triển nhanh của nền kinh tế đất nước, tăng GDP của đất nước lên, từ đó đời sống nhân dân được cải thiện, chất lượng cuộc sống của người dân được tăng lên, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội được đảm bảo, đất nước ngày càng văn minh và giàu mạnh. Các chính sách phát triển khoa học và công nghệ như: + Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ… để từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn cho việc ứng dụng vào các ngành kinh tế-xã hội một cách nhanh chóng và khai thác, sử dụng hợp lý, bảo vệ tốt tài nguyên quốc gia. + Chú trọng đúng mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên để làm chỗ dựa lâu dài cho nghiên cứu ứng dụng triển khai và tiếp cận các thành tựu mới về khoa học và công nghệ. + Mở rộng hợp tác khoa học – công nghệ với các nước và các tổ choc quốc tế nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học, công nghệ của thế giới; tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. + Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm đẩy mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chú trọng đào tạo các chuyên gia đầu đàn, tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật cho các ngành khoa học và công nghệ. Muốn làm được những việc trên cần phải xây dựng và thực hiện tốt cơ chế và chính sách đồng bộ cho phát triển khoa học và công nghệ: khuyến khích bằng lợi ích và tinh thần, thị trường, quyền sở hữu trí tuệ, những chính sách ưu đãi nhân tài… Phát triển công nghệ thông tin nói riêng: Cụng nghệ thụng tin Việt Nam hiện nay vẫn đang ở tỡnh trạng lạc hậu, phỏt triển chậm, cú nguy cơ tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trờn thế giới và khu vực. Việc ứng dụng cụng nghệ thụng tin chưa đỏp ứng được yờu cầu của cụng cuộc cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoỏ và yờu cầu về hội nhập khu vực và quốc tế, vai trũ động lực và tiềm năng to lớn của cụng nghệ thụng tin chưa được phỏt huy mạnh mẽ; việc phỏt triển nguồn nhõn lực cụng nghệ thụng tin chưa được chuẩn bị kịp thời cả về số lượng và chất lượng, về chuyờn mụn cũng như về ngoại ngữ, viễn thụng và Internet chưa thuận lợi, chưa đỏp ứng cỏc yờu cầu về tốc độ, chất lượng và giỏ cước cho ứng dụng và phỏt triển cụng nghệ thụng tin; đầu tư cho cụng nghệ thụng tin chưa đủ mức cần thiết; quản lý nhà nước về lĩnh vực này vẫn phõn tỏn và chưa hiệu quả, ứng dụng cụng nghệ thụng tin ở một số nơi cũn hỡnh thức, chưa thiết thực và cũn lóng phớ. Đó là do nhận thức của cỏc cấp, cỏc ngành và toàn xó hội về vai trũ của cụng nghệ thụng tin chưa đầy đủ; thực hiện chưa triệt để cỏc chủ trương, chớnh sỏch của Đảng và Nhà nước; chưa kết hợp chặt chẽ ứng dụng cụng nghệ thụng tin với quỏ trỡnh cơ cấu lại sản xuất, kinh doanh, cải cỏch hành chớnh, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; chậm ban hành cỏc chớnh sỏch đỏp ứng nhu cầu ứng dụng và phỏt triển cụng nghệ thụng tin; quản lý nhà nước trong cỏc lĩnh vực mỏy tớnh, viễn thụng và thụng tin điện tử chưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa tạo được mụi trường cạnh tranh lành mạnh cho việc cung ứng dịch vụ viễn thụng và Internet, chưa coi đầu tư cho xõy dựng hạ tầng thụng tin là loại đầu tư xõy dựng hạ tầng kinh tế, xó hội. Do vậy cần phải phát triển công nghệ thông tin. Đến năm 2010, cụng nghệ thụng tin Việt Nam đạt trỡnh độ tiờn tiến trong khu vực với một số mục tiờu cơ bản sau đõy: + Cụng nghệ thụng tin được ứng dụng rộng rói trong mọi lĩnh vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phỏt triển kinh tế - xó hội đảm bảo an ninh - quốc phòng. + Phỏt triển mạng thụng tin quốc gia phủ trờn cả nước, với thụng lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, giỏ rẻ; tỷ lệ người sử dụng Internet đạt mức trung bỡnh thế giới. + Cụng nghiệp cụng nghệ thụng tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cú tốc độ phỏt triển hàng năm cao nhất so với cỏc khu vực khỏc; cú tỷ lệ đúng gúp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng. Để thực hiện tốt mục tiờu nờu trờn, Đảng và Nhà nước ta phải có những chủ trương, chính sách để phát triển: + Ứng dụng và phỏt triển cụng nghệ thụng tin là một nhiệm vụ ưu tiờn trong chiến lược phỏt triển kinh tế - xó hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đún đầu, rỳt ngắn khoảng cỏch phỏt triển so với cỏc nước đi trước. + Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoỏ, xó hội, an ninh, quốc phũng đều phải ứng dụng cụng nghệ thụng tin để phỏt triển. + Mạng thụng tin quốc gia là kết cấu hạ tầng kinh tế - xó hội quan trọng, phải tạo điều kiện thuận lợi cho quỏ trỡnh ứng dụng và phỏt triển cụng nghệ thụng tin, đảm bảo được tốc độ và chất lượng cao, giỏ cước rẻ. + Phỏt triển nguồn nhõn lực cho cụng nghệ thụng tin là yếu tố then chốt cú ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phỏt triển cụng nghệ thụng tin. + Phỏt triển cụng nghiệp cụng nghệ thụng tin thành một ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là phỏt triển cụng nghiệp phần mềm. Mối quan hệ của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ ở Việt Nam theo hướng CNH-HĐH: Để phát triển CNH-HĐH một cách nhanh chóng thì không những cần các chính sách, chiến lược phát triển mà phải còn cần kết hợp các chính sách và biện pháp ấy với nhau một cách linh hoạt, phù hợp và có hiệu quả cao. Do đó muốn đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH thì việc phát triển giáo dục và đào tạo phải cần đi đôi với việc phát triển khoa học và công nghệ. Muốn giáo dục và đào tạo phát triển có hiệu quả cao, chất lượng tốt thì cần phải có sự hỗ trợ của khoa học và công nghệ; và ngược lại muốn khoa học- công nghệ phát triển thì cũng cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của giáo dục và đào tạo. Nhưng sự tác động qua lại lẫn nhau đó cần phải phát triển theo hướng CNH-HĐH mà Đảng và Nhà nước ta đã định, và theo hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tác động của khoa học và công nghệ đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền giáo dục của nước nhà như hiện nay. Một nền giáo dục và đào tạo vẫn còn thiếu rất nhiều về cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ cho quá trình giảng dạy ở các trường phổ thông cũng như các trường chuyên nghiệp. Đặc biệt trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay thì khoa học và công nghệ góp phần rất lớn vào việc cho các sinh viên thực hành những gì mà họ đã được học ở trường lớp để áp dụng vào trong thực tiễn, vì đây là những người làm chủ nền kinh tế của đất nước. Họ cần phải được trang bị những kiến thức tốt nhất để làm hành trang bước vào đời và làm nhiệm vụ của mình là xây dựng đất nước giàu đẹp. Khoa học công nghệ giúp cho tầng lớp trẻ tiếp thu được những tinh hoa, sự phát triển hiện đại của thế giới để từ đó dựa trên những thành tựu đã có của thế giới và vận dụng để sáng tạo ra những sản phẩm công nghệ cho chính mình góp phần nâng cao sự phát triển của các ngành kinh tế. Công nghệ thông tin là sản phẩm phát triển và hiện đại của khoa học, nó cũng tác động vào giới trẻ hiện nay rất nhiều. Nó giúp cho giới trẻ tiếp cận một cách nhanh nhất các thông tin, các sự kiện đang diễn ra trên thế giới, đặc biệt là phát triển về mọi mặt kinh tế, đời sống, văn hoá của tất cả các quốc gia, từ đó chúng ta có thể tiếp cận và vận dụng vào trong nước. Để thực hiện được điều đó nhanh nhất cần phải có một số lượng lớn giới trẻ có tri thức, đủ khả năng và được đào tạo một cách có chuyên môn, kỹ thuật để vận dụng chúng vào đất nước mình. Khoa học và kỹ thuật còn góp phần quan trọng trong các phòng thực hành và thí nghiệm, để nghiên cứu, vận dụng và sáng tạo ra các sản phẩm khoa học khác nhằm phục vụ cho các ngành khinh tế, đây cũng là một phần đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước. Muốn phát triển khoa học và công nghệ nhanh, chất lượng thì cần phải có một đội ngũ các cán bộ khoa học để tiếp thu và vận dụng chúng. Chính vì vậy phải cần có nền giáo dục và đào tạo để đào tạo ra những con người đó. Nền giáo dục và đào tạo đã nuôi dưỡng và phát triển ra một lực lượng cán bộ khoa học trẻ có chuyên môn và kỹ thuật, không những để phục vụ các ngành kinh tế của đất nước mà còn phục vụ cho nghiên cứu khoa học, để tiếp tục tạo ra các sản phẩm công nghệ mới góp phầm nâng cao chất lượng và năng suất lao động trong các ngành kinh tế. Cần phải có sự kết hợp giữa giáo dục và đào tạo với khoa học và công nghệ. Vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nha

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60855.DOC
Tài liệu liên quan