Tiểu luận Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và đề xuất hoàn thiện

MỤC LỤC

 

- A. PHẦN MỞ BÀI.1

- B. PHẦN THÂN BÀI.1

- I. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam.1

- II. Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.2

- 1. Đối tượng bị tạm giam.2

- 2. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.6

- 3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.7

- 4. Thủ tục tạm giam.8

- 5. Thời hạn tạm giam.9

- 6. Một số quy định chung khác liên quan đến việc tạm giam.12

- III. Đề xuất hoàn thiện các quy định về tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.14

- C. PHẦN KẾT LUẬN.16

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4262 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và đề xuất hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hinihf phạt tù từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác không phải là hình phạt tù thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Nếu cần thiết, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù ( khoản 3 Điều 8 BLHS). Trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng, mà Bộ luật hình sự quy định, hình phạt tù trên 2 năm để tạm giam họ cần phải có thêm điều kiện thứ hai, đó là có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội. Các căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội: + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn:   Không được quy định trong luật. Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những căn cứ chủ yếu cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư trú của bị can, bị cáo (Có nơi cư trú? Thường trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền hay không? Nơi cư trú có ở quá xa nơi tiến hành các hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng nghề nghiệp (Có nghề nghiệp không? Làm việc trong cơ quan, tổ chức hay làm nghề tự do?); Tính chất hành vi đã thực hiện (cướp, trộm cắp, giết người hay lừa đảo...); Nhân thân (tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân...); Sự ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc; Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý trước pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như liên hệ với người thân ở xa, mua vé đi xa... Khi vận dụng các căn cứ để xét bị can, bị cáo có thể trốn cần lưu ý là không phải khi nào cũng có thể làm rõ được tất cả các nội dung trên mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và phải biết căn cứ vào nội dung nào là chủ yếu. Để quyết định việc tạm giam không nhất thiết phải làm rõ tất cả các nội dung trên, có thể chỉ một nội dung cũng đã đủ để nhận định là đối tượng sẽ trốn.      + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử: Được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp “gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.        Việc xác định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên những căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những căn cứ cần xem xét để nhận định bị can, bị cáo cản trở việc tiến hành tố tụng thường là: Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Những bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì thường tiến hành nhiều hoạt động đối phó hoạt động tố tụng. Nhân thân người phạm tội, như loại đối tượng lưu manh, côn đồ thường có hành động đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc thông đồng với đồng bọn về những lời khai gian dối. Sự ràng buộc với gia đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp. Tình trạng chứng minh là mức độ làm rõ về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, đối với những đối tượng mà hành vi của họ cơ bản đã được làm rõ thì hành vi đối phó hoạt động tố tụng sẽ hạn chế và ngược lại. Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có…       + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: Phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm. Thể hiện tinh thần nhân đạo Xã hội chủ nghĩa. Bộ luật tố tụng hình sự quy định một số trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam; các trường hợp đó là: Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người già yếu, người bị bệnh nặng. Những trường hợp trên phải có thêm một điều kiện khác đó là có nơi cư trú rõ ràng. Trong trường hợp không có nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú, có nhiều nơi cư trú, nơi cư trú quá xa nơi tiến hành điều tra hoặc trong trường hợp đặc biệt thì vẫn phải áp dụng biện pháp tạm giam. Những trường hợp đặc biệt nói trên theo quy định tại khoản 2, Điều 88 gồm:        - Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;        - Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;        - Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Với việc quy định này Bộ luật tố tụng hình sự ở nước ta thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo Xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em. Với điều kiện sinh hoạt trong các trại giam thì không thể bảo đảm đầy đủ những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng. Hơn nữa trong những trường hợp này thì bị can, bị cáo đã có nơi cư trú rõ ràng, nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt kể trên, các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng. 2. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam: Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm các căn cứ: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, xét xử Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Để đảm bảo thi hành án. Trong số các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn kể trên, “ căn cứ để ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho các trường hợp bắt người phạm tội qủa tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo điểm a khoản 1 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành, hay không để người phạm tội gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam gồm: Căn cứ thứ nhất: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua chuộc dụ dỗ, lừa phỉnh, cưỡng ép, khống chế người làm chứng, người bị hại... dẫn đến việc gây khó khăn phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật khách quan vụ án. Trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, có thể áp dụng căn cứ này để tạm giam. Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân của các bị can, bị cáo:bị can, bị cáo là những phần tử xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tên tội phạm có tính chất chuyên nghiệp, những tên côn đồ hung hãn coi thường pháp luật. Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội còn thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại và sự đe dọa có khả năng trở thành hiện thực. Căn cứ thứ ba: Để đảm bảo thi hành án. Công tác thi hành án hình sự là vấn đề vô cùng quan trọng. Các bản án, quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật cần phải được đưa ra thi hành. Có như vậy mới nâng cao được tính hiệu quả của pháp luật trong đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để thi hành án là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất cụ thể cửa từng vụ án, tùy theo nhân thân của người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn thích hợp trong đó tòa án có thể sử dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, còn nếu có đủ cơ sở cho rằng bị cáo sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở khó khăn cho việc thi hành án thì không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo cũng đủ để đảm bảo cho việc chấp hành án của người bị kết án. 3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: Khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “ những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành” Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp; Chánh án, Phó Chánh án TAND và TAQS các cấp; thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Như vậy thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định cho nhiều Cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau ở tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. Viện kiểm sát với chức năng là Cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với lệnh tạm giam của thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. 4. Thủ tục tạm giam: Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định, vì vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cần phải tuân theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyền ký. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên địa chỉ người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Theo quy định tại khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra phải được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thâm thể, quyền lợi ích và danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến cả nhân thân của họ. Vì vậy, sau khi ra lệnh tạm giam cơ quan đã ra lệnh tạm giam cần phải báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú, làm việc biết . Bên cạnh đó, khi tiến hành tạm giam một người cần phải đảm bảo cácthủ tục liên quan khác như: thực hiện viện chăm nom người thân thích, bảo quản tài sản người bị tạm giam (Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự 2003) 5. Thời hạn tạm giam: Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thời hạn tạm giam không được quy định tập trung tại một điều luật mà được quy định theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng. Thời hạn tạm giam trong tố tụng được chia thành: thời hạn tạm giam để điều tra; thời hạn tạm giam để truy tố; thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm; thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam để thi hành án. a) Thời hạn tạm giam để điều tra: Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá bốn tháng với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thêm thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi, hủy bỏ Biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam. Cơ quan phải có văn bản đề nghị VKs gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam quy định như sau: đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn hơn một lần không quá một tháng. Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng, với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng. Như vậy đối với tội phạm ít nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể là ba tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng thời hạn tạm giam điều tra tối đa có thể là 6 tháng, đối với tội phạm rất nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể là chín tháng, còn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể lên đến mười sáu tháng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều 120 đã hết và vụ án có tình tiết phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá 4 tháng ( Điều 120 ) So sánh thời hạn tạm giam để điều tra ( quy định tại Điều 120 ) với thời hạn điều tra ( quy định tại Điều 119 ) thì thời hạn tạm giam để điều tra bằng với thời hạn điều tra còn thời hạn tạm giam để điều tra đối với các tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng ngắn hơn thời hạn gia hạn để điều tra. Với quy định này nhà làm luật nhằm mục đích hạn chế việc lạm dụng thời hạn tạm giam, đồng thời còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo cơ quan điều tra phải đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, nếu không thời hạn tạm giam sẽ hết mặc dù thời hạn điều tra vẫn còn. b) Thời hạn tạm giam để truy tố: Khoản 2 Điều 166 BLHS 2003 quy định: “ thời hạn tạm giam để truy tố không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 166 : Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong cá quyết định sau : quyết định truy tố bị cáo trước Tòa án bằng bản cáo trạng; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn tạm giam nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng tối đa có thể lên đến ba mươi ngày, đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể lên đến ba mươi ngày, đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể lên đến bốn mươi lăm ngày, còn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thời hạn tạm giam để truy tố tối đa có thể lên đến sáu mươi ngày. c) Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm: Điều 177 BLTTHS 2003 quy định: “ thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điều 176 của Bộ luật này” . Theo quy định tại Điều 176, thời hạn chuẩn bị xét xử là ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ này nhận hồ sơ vụ án.... Đối với những vụ án phải thi hành án tòa án có thể quyết định gia hạn nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiem trọng, tội phạm nghiêm trọng; không quá ba mươi mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thời hạn tạm giam để mở phiên tòa là từ năm ngày đến ba mươi ngày. Ngoài ra, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết thì tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Như vậy, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa ( kể cả gia hạn mười lăm ngày đối với tội ít phạm nghiêm trọng, chín mươi ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, một trăm hai mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn này có thể lên đến một trăm năm mươi ngày. d) Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm: Điều 243 BLTTHS 2003 quy định: Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng , thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó chánh án TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quận, Chánh tòa, Phó chánh tòa phúc thẩm TANDTC quyết định. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự. Theo quy định tại Điều 242 BLTTHS 2003, TAND cấp tỉnh, TAQS cấp phúc thẩm TANDTC, TAQS trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn chín mươi ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. e) Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án: Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hội đồng xét xử quyết định việc tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, Điều 228 BLTTHS 2003 quy định: Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày thời hạn tạm giam đã hết thì hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có nhận thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam bị cáo bốn mươi lăm này, kể từ ngày tuyên án. Tại phiên tòa phúc thẩm, theo quy định tại Điều 243 BLTTHS 2003 bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. 6. Một số quy định chung khác liên quan đến việc tạm giam: a) Về chế độ tạm giam: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thi hành tố tụng và không để cho người phạm tội tiếp tục thuwcj hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng đây không phải là hình phạt đối với người phạm tội. Đây là đặc điểm để phân biệt “ tạm giam” với “ giam”. “ Giam” là biện pháp chấp hành hình phạt tù, người bị kết án phải chấp hành cải tạo và sinh sống trong trại cải tạo ( trại giam ) một thời gian bằng thời hạn tù mà tòa án đã tuyên ( được khấu trừ thời hạn đã bị tạm giam ). Do tạm giam không phải là hình phạt nên chế độ tạm giam khác với chế độ người đang chấp hành hình phạt tù ( Điều 89 BLTTHS) Ngày 07/11/1998 Chính Phủ đã ban hành Nghị định 89/NĐ-CP về Quy chế tạm giữ, tạm giam. Nghị định này thay thế Nghị định 149 – HĐBT ngày 5/5/1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng ( nay là Chính phủ ) về chế độ tạm giữ, tạm giam. Sự ra đời của Nghị định số 89 có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự tiến bộ trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. b) Về chế độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giam: Chế độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giam được quy định tại Điều 90 BLTTHS như sau: Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc, cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao cho chính quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản riêng cho người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giữ chỉ áp dụng biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng. Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người tạm giam biết biện pháp được áp dụng. Việc pháp luật quy định về chế độ chăm nom người thân và bảo quản người bị tạm giam thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta, người bị tạm giam người có trách nhiệm đối với người thân nhất là những người này để tự mình chăm sóc được cho mình chính vì vậy mà khi đã tạm giam phải có những chính sách để đảm bảo cuộc sống cho người bị tạm giam cũng như tài sản của người bị tạm giam. c) Việc khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt: Theo quy định của Điều 33 BLHS 1999, thời hạn tạm giam được tính chấp hành hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giam bằng một ngày tù, không chỉ áp dụng với người bị tạm giam liên tục mà áp dụng với cả những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác tạm giam. Những hình phạt khác không phải là hình phạt tù. Riêng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc kỷ luật của quân đội và hình phạt tù chung thân thì thời hạn tù tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. d) Về quyền của người bị tạm giam: Theo quy định của BLTTHS 2003 đối tượng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là bị can, bị cáo, người đã bị kết án phạt tù hoặc tử hình bỏ trốn bị bắt để tạm giam. Khi bị tạm giam bị can, bị cáo có đầy đủ quyền của bị can, bị cáo được quy định tại Điều 49, Điều 50 và khi họ là người bị kết án đang chờ thi hành hình phạt tù họ có các quyền được quy định tại điều 260 BLTTHS 2003. Theo Điều 49 và Điều 50 BLTTHS thì mặc dù bị can, bị cáo lúc đó có thể đang bị tạm giam để đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải đảm bảo các điều kiện cần thiết để cho bị can, bị cáo thực hiện được các quyền của mình, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bản thân. Việc quy định các quyền của bị can, bị cáo ngoài mục đích để bị can, bị cáo chủ động tham gia tố tụng còn góp phần vào việc tránh bỏ lọt tội phạm, tránh bắt giam người vô tội trong khi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ của mình. Đối với người bị kết án đang bị tạm giam theo quy định tại Điều 260 BLTTHS quy định: trong trường hợp người bị kết án đang bị tạm giam thì theo yêu cầu của người thân thích người bị kết án, cơ quan công an phải cho người bị kết án gặp người thân thích trước khi thi hành án. Ban giám thị trại giam phải thông báo cho gia đình người bị kết án để người đó chấp hành hình phạt. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng đạt được hiệu quả cao, đồng thời thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với người có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giam trong qui trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, để đảm bảo các quyền của công dân, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn tạm giam còn thể hiện ở chỗ: đây là những biện pháp cưỡng chế của nhà nước áp dụng đối với những đối tượng nhất định và trong những trường hợp do pháp luật quy định nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. III. Đề xuất hoàn thiện các quy định về tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam: Xuất phát từ thực trạng quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong thời gian qua ta thấy rằng biện pháp ngăn chặn tạm giam đã mang lại những kết quả rất khả quan, góp phần to lớn trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, song cũng đã bộc lộ những yếu kém, vướng mắc, bất cập cần được giải quyết, thảo luận. Qua việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp ngăn chặn tạm giam, thực trạng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, từ những tồn tại, bất cập và các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại bất cập đó. Thứ nhất: Trong BLTTHS hiện hành chưa có quy định về khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam. Tại điều 88 BLTTHS 2003 mới chỉ nêu ra được đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 như sau: “1. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can bị cáo phạm tội nghiêm trọng phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội; với phạm tội quả tang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBiện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và đề xuất hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan