Tiểu luận Các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty chứng khoán FPT

Đề Cương

Giới thiệu

PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

1.Công ty chứng khoán

2. Kinh doanh chứng khoán

3. Các hoạt động kinh doanh chứng khoán

3.1 Hoạt động Môi giới chứng khoán

3.2 Hoạt động Tự doanh

3.3 Hoạt động Bảo lãnh phát hành chứng khoán

3.4 Hoạt động tư vấn chứng khoán

3.5 Các nghiệp vụ khác

PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN FPT

Khái quát về công ty cổ phần chứng khoán FPT

2. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán FPT

2.1. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán FPT

2.2.1 Nghiệp vụ môi giới

2.2.2 Nghiệp vụ tự doanh

2.2.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán

2.2.4 Nghiệp vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp

2.2.5 Hoạt động Lưu ký chứng khoán

PHẦN 3. ĐÁNH GIÁ CHUNG

3.1 Kết quả đạt được

3.1.1 : Một số thành tựu

3.1.2 : Kết quả kinh doanh năm 2009

3.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.2.1 Hạn chế của công ty

3.2.2 Nguyên nhân

3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan

3.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan

3.3.Các giải pháp phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán FPT

3.3.1. Định hướng phát triển công ty

1. Về hoạt động môi giới

2.Về hoạt động tư vấn

3. Về hoạt động Bảo lãnh và Đại lý phát hành

4 Về hoạt động lưu ký và các dịch vụ tiện ích

3.3.2Định hướng phát triển của Nhà nước về lĩnh vực kinh doanh chứng khoán trong thời gian tới

3.3.3 Một số kiến nghị với chính phủ

1. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin

2. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK

 

 

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7619 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty chứng khoán FPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
………............................................. Tỉnh/Thành phố: ………………………………… + Bước 2: Nhận đơn đặt hàng Sau khi tài khoản được mở, khách hàng có thể ra lệnh mua, bán cho Công ty môi giới. Hình thức đặt lệnh có thể bằng điện thoại, telex hay bằng phiếu lệnh. Nếu là lệnh bán Công ty sẽ đề nghị khách hàng xuất trình số chứng khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện đơn hàng hoặc đề nghị phải ký quỹ một phần số chứng khoán theo một tỷ lệ do UBCKNN quy định. Nếu là lênh đặt mua, Công ty phải đề nghị khách hàng mức tiền ký quỹ nhất định trên tài khoản khách hàng ở Công ty. Khoản tiền này thường bằng 40% trị giá mua theo lệnh. Phòng môi giới chứng khoán của Công ty sau khi phân loại các lệnh mua bán và hoàn tất thủ tục ban đầu thoả thuận với khách hàng như: Mức ký quỹ, hoa hồng, lệ phí… sẽ thông báo bằng điện thoại, telex hoặc Fax cho thư ký văn phòng đại diện của Công ty có mặt tại quầy giao dịch trong SGDCK + Bước 3: Chuyển lênh tới thị trường phù hợp để thực hiện Những người đại diện có giấy phép của FPTS hoạt động với vai trò trung gian giữa khách hàng với Công ty. Trước đây, người đại diện gửi tất cả lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng tới bộ phận thực hiện lệnh hoặc phòng kinh doanh giao dịch của Công ty. Ở đây, một thư ký sẽ kiểm tra xem chứng khoán đó được mua bán trên thị trường nào (phi tập trung hay tập trung). Sau đó người thư ký sẽ gửi lệnh này tời thị trường để thực hiện. Ngày nay, nhờ có mạng lưới thông tin trực tiếp từ các trụ sở chính và các phòng giao dịch. Vì vậy, các lệnh mua bán chứng khoán không còn được chuyển đến phòng thực hiện lệnh nữa mà được chuyển trực tiếp tới phòng giao dịch của SGDCK. + Bước 4: Xác nhận cho khách hàng Sau khi lệnh đã được thực hiện sau, CTCK gửi cho khách hàng một phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh.Thông thường, FPTS gửi xác nhận trong ngày làm việc hôm sau so với ngày mua bán chứng khoán. Xác nhận này cũng giống như một hoá đơn hẹn ngày thanh toán với khách hàng. + Bước 5: Thanh toán bù trừ giao dịch Hoạt động thanh toán bù trừ giao dịch bao gồm việc đối chiếu giao dịch và bù trừ các kết quả giao dịch.SGDCK sẽ tiến hành bù trừ giao dịch trên cơ sở nội dung lệnh của các CTCK chuyển vào hệ thống, những sai sót của CTCK tự sửa chữa. Việc bù trừ các kết quả giao dịch sẽ kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán. Các chứng từ này sẽ được gửi cho các CTCK và là cơ sở để thực hiện thanh toán và giao dịch chứng khoán. +Bước 6: Thanh toán và giao hàng Đến ngày thanh toán, người mua sẽ nhận được một giấy chứng nhận quyền sở hữu về số chứng khoán do Công ty bảo quản chứng khoán xác nhận, số chứng khoán này nằm trong tài khoản lưu trữ chứng khoán mà FPTS đã mở tại Công ty Bảo quản. Đối với người bán chứng khoán sẽ nhận được một giấy báo cáo trên tài khoản của mình ở CTCK hoặc thông qua Ngân hàng đại diện của khách hàng. Phí môi giới: 2.2.2 Nghiệp vụ tự doanh Hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh + Giao dịch gián tiếp: Tức là FPTS đặt các lệnh mua và bán của mình trên sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với khách hàng nào không xác định trước. Yêu cầu đối với hoạt động tự doanh của công ty FPTS + Tách biệt quản lý: Phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và Công ty. + Ưu tiên khách hàng: Phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của Công ty. Nguyên tắc này đảm bạo công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên công ty có thể dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên. + Góp phần bình ổn thị trường: FPTS hoạt động tự doanh nhằm góp phần làm bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các CTCK phải dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định. + Hoạt động tạo thị trường: Khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tại thị trường cho các chứng khoán mới này các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua và bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoăc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy họ sẽ duy trì một thị trường liên tục với chứng khoán mà họ kinh doanh. 2.2.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán Sau 1 năm hoạt động, FPTS hiện đã và đang cung cấp dịch vụ tư vấn phát hành cho các doanh nghiệp chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, năng lượng, bất động sản, và các công ty có nhu cầu huy động vốn cho hoạt động đầu tư phát triển dài hạn. Với đội ngũ 10 chuyên viên tư vấn tài chính, FPTS cam kết cung cấp các giải pháp tư vấn tài chính và giải pháp huy động vốn đầu tư tối ưu cho khách hàng, bao gồm hỗ trợ khách hàng thiết kế cơ cấu vốn tối ưu, chuẩn bị tài liệu và quảng bá cơ hội đầu tư, tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược, thương thảo các điều khoản với các nhà đầu tư và bảo lãnh phát hành ra công chúng. Tính đến tháng 10/2007, tổng số vốn FPTS đã tư vấn phát hành thành công lên đến hơn 1.200 tỷ VND, trong đó có những dự án lớn như dự án phát hành cho Công ty Thủy Điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh, Công ty Cổ phần Đầu tư và Vận tải Dầu khí Vinashin. FPTS thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và đồng bảo lãnh cho các hoạt động phát hành cổ phiếu và trái phiếu. FPTS cung cấp dịch vụ bảo lãnh ở các mức độ dịch vụ khác nhau, từ hình thức “Bảo lãnh cố gắng hết khả năng có thể” đến hình thức “Bảo lãnh cam kết”. Ngoài ra, với lợi thế về quan hệ với các doanh nghiệp và các định chế ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước, FPTS giới thiệu cho khách hàng của mình với các nhà đầu tư tài chính và đầu tư chiến lược. Dịch vụ bảo lãnh của FPTS được hậu thuẫn bởi mạng lưới các đối tác chiến lược trong các lĩnh vực và ngành kinh tế khác nhau và các mối quan hệ chặt chẽ của FPTS với cộng đồng các nhà đầu tư tổ chức. Các hình thức Bảo lãnh phát hành + Bảo lãnh chắc chắn: Là hình thức Bảo lãnh mà FPTS nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của Công ty phát hành, sau đó sẽ bán ra công chúng. Giá mua là một giá được ấn định. Thường là thấp hơn giá thị trường, giá bán là giá thị trường. Hoặc toàn bộ chứng khoán với một giá nhất định cho đến lúc không còn ai mua thì Công ty sẽ nhận mua toàn bộ số chứng khoán còn lại. + Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức Bảo lãnh mà FPTS hứa sẽ cố gắng đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho Công ty phát hành. Trường hợp không bán hế, số chứng khoán còn lại được trả về cho Công ty phát hành. FPTS được hưởng hoa hồng trên số chứng khoán đã được bán ra. Quy trình Bảo lãnh + Lập nghiệp đoàn Bảo lãnh Lập nghiệp đoàn: Nếu Công ty phát hành là một Công ty nhỏ, giá trị chứng khoán phát hành không lớn, thì có thể chỉ cần một FPTS đứng ra Bảo lãnh phát hành. Nhưng nếu đó là một Công ty lớn, số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng Bảo lãnh của FPTS thì một nghiệp đoàn bao gồm một số CTCK và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập. Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức Bảo lãnh chắc chắn. Trong nghiệp đoàn, sẽ có một Công ty Bảo lãnh chính hay còn gọi là người quản lý, thường là người khởi đầu cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các thủ tục giấy tờ với Công ty phát hành. Nó cũng quyết định CTCK nào sẽ được mời tham gia nghiệp đoàn cũng như sẽ chi trả phí Bảo lãnh cho các Công ty khác trong nghiệp đoàn. Nhóm bán: Trong những trường hợp cần thiết, nghiệp đoàn Bảo lãnh có thể tổ chức thêm một “nhóm bán” để giải quyết việc bán chứng khoán nhanh hơn. Nhóm bán gồm những CTCK không nằm trong nghiệp đoàn Bảo lãnh, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không chịu trách nhiệm về những chứng khoán không bán được. Vì thế, thường thù lao cho họ ít hơn so với CTCK là thành viên của nghiệp đoàn. + Phân tích, đánh giá chứng khoán Định giá chứng khoán cho một đợt phát hành mới là một nghệ thuật, một khoa học. Giá của cổ phiếu cũng như lãi suất của trái phiếu không được định trước ngày chứng khoán được phép bán ra cho công chúng. Giá thị trường của chứng khoán rất bất thường, có thể hấp dẫn vào buổi sáng nhưng có thể không hấp dẫn vào buổi chiều nữa. Đối với trái phiếu, việc định giá có đơn giản hơn, vì trên thị trường đã có sẵn lãi suất chuẩn và giá yết của những người mua, bán chứng khoán cho những loại trái phiếu tương tự. Định giá cho một cổ phiếu, việc định giá rất phức tạp. Ở đây người quản lý vấp phải một vấn đề nan giải: Một mặt, người phát hành cổ phiếu muốn nhận càng nhiều tiền càng tốt từ đợt bán này mặt khác, người quản lý muốn định giá sao cho có thể bán được và bán càng nhiều càng tốt. Nếu giá cao quá công chúng sẽ không muốn mua nữa, nếu thấp quá thì chứng khoán sẽ mau chóng chuyển nên giá cao hơn ở thị trường thứ cấp và người phát hành sẽ bị thiệt. Thông thường, việc định giá một cổ phiếu tuỳ thuộc vào việc định lượng nhiều yếu tố: Lợi nhuận của Công ty, dự kiến lợi tức cổ phần, số lượng cổ phiếu chào bán, tỷ lệ giá cả-lợi tức so với những Công ty tương tự và tình hình thị trường lúc chào bán. + Ký hợp đồng Bảo lãnh Sau khi nghiệp đoàn được thành lập xong, đồng thời tiến hành một số công việc như phân tích định giá chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân phối chứng khoán…, nghiệp đoàn Bảo lãnh sẽ ký một hợp đồng với Công ty phát hành, trong đó xác định: Phương thức Bảo lãnh, phương thức thanh toán và khối lượng Bảo lãnh phát hành. + Đăng ký phát hành chứng khoán (Nộp đơn xin Bảo lãnh và Bản cáo bạch). Sau khi ký hợp đồng Bảo lãnh, nghiệp đoàn phải trình lên cơ quan quản lý đơn xin đăng ký phát hành cùng một Bản cáo bạch thị trường, có đầy đủ chữ ký của đơn vị phát hành, Công ty Bảo lãnh, Công ty luật. Bản cáo bạch là thông báo của tổ chức phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành giúp công chúng đánh giá và đưa ra quyết định mua chứng khoán. Thường thì cơ quan quản lý xem xét tính trung thực và hợp lệ của Bản cáo bạch để chấp thuận cho phép phát hành hay từ chối trong thời hạn 30 ngày. Trong thời gian này, có thể Công ty Bảo lãnh cùng Công ty Phát hành sẽ phải cung cấp thêm tài liệu để giải trình các chi tiết chưa đủ, chưa rõ trong Bản cáo bạch. + Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng ký Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát Bản cáo bạch và phiếu đăng ký mua chứng khoán và đợi khi đăng ký phát hành chứng khoán có hiệu lực, FPTS (Hoặc nghiệp đoàn Bảo lãnh) sẽ tiến hành phân phối chứng khoán. Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể phân phối chứng khoán ra công chúng bằng các hình thức: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, như các quỹ đầu tư, quỹ Bảo hiểm, quỹ hưu trí…, bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành, bán ra công chúng. + Thanh toán Đến đúng ngày theo hợp đồng, FPTS phải giao tiền cho Công ty phát hành. Số tiền phải giao là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù lao Thù lao có thể là một khoản phí đối với hình thức Bảo lãnh chắc chắn hoặc hoa hồng đối với các hình thức Bảo lãnh khác. Mức phí Bảo lãnh cao hay thấp tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành cùng điều kiện thị trường lúc phát hành, do hai bên thoả thuận nói chung, nếu đó là đợt phát hành lần đầu thì mức phí và hoa hồng phải cao hơn lần phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu, phí và hoa hồng Bảo lãnh còn tuỳ thuộc vào lãi suất trái phiếu (Nếu lãi suất cao thì dễ bán, chi phí sẽ thấp và ngược lại). Hoa hồng: là một tỷ lệ cố định (%) đối với một loại chứng khoán nhất định. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng cho các thành viên trong nghiệp đoàn là do các thành viên thương lượng với nhau. Phí Bảo lãnh: Là mức chênh lệch giữa giá chứng khoán trên thị trường cho người đầu tư (người đầu tư phải trả) và số tiền Công ty phát hành nhận được. 2.2.4 Nghiệp vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp Khách hàng doanh nghiệp tin tưởng vào FPTS và tìm kiếm lời khuyên trong các dịch vụ tư vấn về cổ phần hoá, tăng vốn từ cả hai nguồn chào bán ra công chúng và phát hành riêng lẻ, dịch vụ tư vấn niêm yết, mua bán & sáp nhập doanh nghiệp và giải pháp tái cấu trúc. Đội ngũ tư vấn tài chính doanh nghiệp FPTS am hiểu thị trường và có kinh nghiệm giao dịch tại thị trường Việt Nam. Cty tự hào với các thế mạnh bao gồm: Quan hệ chặt chẽ ở cấp độ quản lý cao cấp với rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Đại diện cho các cổ đông lớn trong FPTS là thành viên Hội đồng quản trị của nhiều công ty trong khắp cả nước; Quan hệ chặt chẽ với các đối tác chiến lược và các nhà đầu tư tài chính tại Việt Nam và trong khu vực; Có các chuyên gia ngành có uy tín và kinh nghiệm chuyên sâu; Hiểu biết sâu sắc về các khách hàng trong nước Năm 2009 là một năm mà mảng tư vấn được đẩy mạnh. FPTS chính thức đặt tên mình vào thị trường M&A với việc tư vấn thành công cho Eland (Singaporre) mua cổ phần của Công ty Dệt may Thành công – Một doanh nghiệp lớn đã niêm yết trên sàn HOSE và một số các hợp đồng M&A khác. Đồng thời trong năm FPTS cũng đã tạo được hình ảnh tốt, uy tín trong mảng tư vấn phát hành trái phiếu. Bên cạnh đó FPTS cũng thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn phát hành, niêm yết, cổ phần hóa và tư vấn hoàn thiện doanh nghiệp cho nhiều doanh nghiệp khác. Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám họ bỏ ra để kinh doanh đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyến cáo đối với khách hàng, vì với lời khuyến đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản phí về dịch vụ tư vấn (Bất kể dịch vụ đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau: + Không bảo đảm chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng khoán không phải là một số cố đinh nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường. + Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ,. Có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra. + Không đựơc dụ dỗ, mời chào khách hàng mau hay bán một loại chứng khoán nào đó những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu 2.2.5 Hoạt động Lưu ký chứng khoán Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi số, khách hàng phải mở tài khoản lưu ky chứng khoán tại các CTCKhoặc ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán PHẦN 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG 3.1 Kết quả đạt được 3.1.1 : Một số thành tựu Tổng doanh thu hoạt động kinh doanh đạt gần 216 tỷ đồng, tăng 178% so với năm 2008 (tương đương tăng 138,3 tỷ đồng). Các mảng doanh thu chủ yếu của công ty là doanh thu hoạt động môi giới với 117,56 tỷ đồng, doanh thu hoạt động tư vấn hơn 54 tỷ đồng, doanh thu khác và doanh thu đầu tư, góp vốn đều đóng góp hơn 20 tỷ đồng. Có thể thấy, chi phí hoạt động kinh doanh trong năm 2009 giảm mạnh so với năm 2008 với mức 66,8 tỷ đồng đã làm cho lợi nhuận gộp từ hoạt động kinh doanh của công ty đạt 149 tỷ đồng. Trong khi ở năm 2008 lợi nhuận gộp đã âm gần 193 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong năm 2009 của FPTS đạt 120,5 tỷ đồng. Trong năm 2008 cùng chung hoàn cảnh khó khăn của các CTCK, công ty lỗ 234,8 tỷ đồng. Tại ĐHCĐ lần này FPTS cũng thông qua phương án phát hành thêm 11 triệu cổ phiếu tăng vốn điều lệ. Với giá bán không thấp hơn 18.000 đồng/cổ phiếu. Tính đến hết ngày 31/12/2009 Tổng cộng nguồn vốn của FPTS đạt 1.244 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm trước. 3.1.2 : Kết quả kinh doanh năm 2009 Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2008 Tổng doanh thu hoạt động kinh doanh 215,931,049,801 77,595,629,273 Doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán 117,559,284,080 25,123,081,814 Doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán,góp vốn 21,232,575,731 25,011,228,011 Doanh thu đại lý phát hành chứng khoán 360,000,000 Doanh thu hoạt động tư vấn 54,310,403,122 4,142,023,662 Doanh thu hoạt động lưu ký chứng khoán 1,807,347,819 613,894,150 Doanh thu khác 20,761,439,049 22,705,401,636 Các khoản giảm trừ doanh thu 0 0 Doanh thu thuần 215,931,049,801 77,595,629,273 Chi phí hoạt động kinh doanh 66,803,544,951 270,415,560,435 Lợi nhuận gộp 149,127,504,850 192,819,931,162 Chi phí quản lý doanh nghiệp 29,325,106,904 41,896,327,989 Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 119,802,397,946 -234,716,259,151 Thu nhập khác 10,711,144,937 4,330,238,230 Chi phí khác 9,991,314,452 4,428,452,774 Lợi nhuận khác 719,830,485 -98,214,544 Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế 120,522,228,431 -234,814,473,695 3.2. Hạn chế và nguyên nhân 3.2.1 Hạn chế của công ty: Hoạt động môi giới - Nội dung thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán chủ yếu vẫn là trung gian thực hiện nhận truyền lệnh mua và bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Nếu như ở các TTCK phát triển có sự gắn bó mật thiết thì ở Việt Nam các CTCK nói chung và FPTS nói riêng, hàm lượng tư vấn đầu tư cho khách hàng trong hoạt động môi giới còn rất hạn chế. Các Công ty hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp các thông tin về tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết, thông báo kết quả mua bán chứng khoán và thông tin về giá chứng khoán mà khách hàng quan tâm. Các dịch vụ của nhà môi giới toàn phần chưa được triển khai thực hiện. - Mặc dù tài khoản giao dịch của nhà đầu tư chứng khoán mở tại Công ty là khá lớn song chỉ một số ít tài khoản thực tế tham gia giao dịch, phần lớn còn lại ở tình trạng “bất động”. Đồng thời, trong số tài khoản giao dịch thì chủ yếu vẫn là nhà đầu tư nhỏ lẻ. - Hiện nay vẫn còn sự mất cân đối lớn về doanh thu môi giới so với các hoạt động khác. Bên cạnh đó, dịch vụ đi kèm như cầm cố chứng khoán và ứng trước tiền bán chứng khoán mới được triển khai rất ít, vì vậy chưa tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều cơ hội trong đầu tư chứng khoán, hạn chế trong việc phát triển nghiệp vụ môi giới tại các CTCK Hoạt động tự doanh - Hoạt động tự doanh của Công ty vẫn thực hiện với phương châm thận trọng bảo toàn vốn, thực hiện tự doanh để tích lũy kinh nghiệm là chính trong khi vốn điều lệ của Công ty vẫn ở trong tình trạng nhàn rỗi. - Công ty chưa thực sự đóng vai trò là người kiến tạo thị trường bởi vì hiện nay phần lớn các phiên giao dịch, Công ty thường mua các lô lẻ từ nhà đầu tư và tập hợp thành lô chẵn, sau đó tiến hành khớp lệnh tại TTGD để hưởng lời từ chênh lệch giá. Có thể nói việc mua bán chứng khoán thực hiện tự doanh của Công ty vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, chưa tương xứng với tiềm lực về vốn của Công ty cũng như với chức năng của nghiệp vụ này là điều tiết thị trường khi cần thiết. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán - Trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán hiện nay vẫn còn dè dặt. Doanh thu từ hoạt động này ít và không đều. Sở dĩ như vậy vì FPTS hiện nay chủ yếu thực hiện tư vấn cho nhà đầu tư dưới hình thức cung cấp dịch vụ miễn phí nhằm mục đích thu hút khách hàng, song hiệu quả tư vấn không cao. Mặc dù TTCK Việt Nam đã đị vào hoạt động được một thời gian nhất định, nhưng đây vẫn là một điều khá mới mẻ với công chúng đầu tư, hơn nữa các nhà đầu tư hiện nay cũng rất đa dạng, ở mọi lứa tuổi, thành phần xã hội, mức hiểu biết khác nhau, có thể nói nhà đầu tư ở Việt Nam chưa có tính chuyên nghiệp. Bởi vậy, họ rất cần đến những lời tư vấn từ phía các CTCK. Với một tiền năng khách hàng như vậy nhưng các CTCK nhìn chung vẫn ở trong tình trạng bị động tức là chờ khách hàng tìm đến với mình chưa chủ động tìm đến với họ. - Hơn nữa, trình độ chuyên môn của nhân viên tư vấn không cao. Do sự non trẻ của thị trường, hầu hết nhân viên được chuyển từ các ngành khác chuyển sang, số nhân viên còn lại đa phần mới ra trường, số người đã có kinh nghiệm từ những thị trường tiên tiến quá ít. Những yêu cầu đối với một nhà tư vấn rất cao vì họ có ảnh hưởng không nhỏ đến đến quyết định đầu tư của khách hàng nên nếu không có chuyên môn tốt sẽ gây ra những thiệt hại cho khách hàng. - Hiện nay vẫn chưa có một CTCK nào có khả năng tư vấn cho khách hàng, xây dựng được một danh mục đầu tư chứng khoán tối ưu giúp khách hàng có định hướng và đầu tư một cách bài bản, khoa học. Chưa có một hệ thống các chỉ số làm chuẩn mực khi phân tích cơ bản, hoạt động tư vấn vẫn còn mang tính chất cảm tính và tâm lý, không có cơ sở chính thức do đớ chưa thực sự thuyết phục nhà đầu tư. - Bên cạnh đó, cũng do xuất phát bất cập từ quy định của pháp luật hiện hành nên hoạt động tư vấn đầu tư của Công ty còn bị giới hạn trong một phạm vi hẹp. Các CTCK nói chung chưa được phép thực hiện hoạt động tư vấn về cấu trúc vốn, về chiến lược công nghiệp và các vấn đề liên quan đến việc hợp nhất, mua lại doanh nghiệp. Hoạt động nghiệp vụ này hiện nay mới chỉ thực hiện với mức chứng khoán đựơc phát hành ra công chúng, trong khi các nhà đầu tư cũng như các nhà phát hành, không phân biệt đối với trường hợp phát hành ra công chúng hay phát hành riêng lẻ đều có nhu cầu huy động và sử dụng vốn với hiệu quả cao nhất trong khuân khổ pháp luật cho phép. - Một chủ thể quan trọng để phát triển hoạt động tư vấn đó là chính sách khách hàng. Trong khi đó kiến thức của các nhà đầu tư chưa cao, quan niệm đầu tư, đầu cơ lẫn lộn. Một điều chắc chắn là không thể phát triển hoạt động tư vấn nếu khách hàng không cần tư vấn. Thu hút khách hàng chính là một khâu quan trọng trong hoạt động tư vấn. Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành Công ty đã triển khai nghiệp vụ này, nhưng trên thực tế vẫn chưa thực sự theo đúng nghĩa của nó. Có nhiều lý do trên thực tế cho thấy đây là nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao trong khi đó kinh nghiệm thực tế và kỹ năng trong lĩnh vực này nói chung còn hạn chế. Hơn nữa, phương thức BLPH hiện nay là cam kết chắc chắn nên hầu hết các Công ty đều cho rằng khả năng rủi ro cao nên thường cân nhắc khi tiến hành nghiệp vụ này. 3.2.2 Nguyên nhân 3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan - Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện: Ở Việt Nam, TTCK còn rất mới mẻ cả về nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Do vậy cơ sở phát lý về CK & TTCK còn ở mức rất sơ khai và nhìn chung còn manh mún. Cho đến nay, các văn bản quy phạm phát luật điều chỉnh về CK &TTCK có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau như luật, phát lệnh, nghị định, quyết định, thông tư. Tuy nhiên, các văn bản, quy phạm phát luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành, kinh doanh và quản lý Nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản có giá trị dưới luật, về cơ bản như sau: + Nghị định số 48/ 1998/NĐ-CP ban hành ngày 11/7/1998 của Chính phủ về CK & TTCK. Quy chế về tổ chức và hoạt động của các CTCK (ban hành kèm theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 của chủ tịch UBCKNN) và các văn bản hướng dẫn, quy chế khác liên quan đến việc thành lập và hoật động của CTCK + Luật Doanh nghiệp quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý Công ty. Luật doanh nghiệp Nhà nước quy định các nghuyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý doanh nghiệp nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động, quản lý Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. + Các luật như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật phá sản, Luật đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp quy quy định quyền sở hữa về chứng khoán, phương thức chuyển giao quyền sở hữa này và vấn đề phá sản của CTCK. Nhìn một cách tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như ở một số nước trên thế giới, nhưng khung pháp lý về chứng khoán đã có ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có, gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về CK và TTCK đã hình thành. Tuy nhiên về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ một số hạn chế nhất định, đó là sự đồng bộ và nhất quán trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác nghiệp vụ kinh doanh tại công ty chứng khoán fpt.doc
Tài liệu liên quan