Tiểu luận Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1

I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TTHS 2

1. Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can. 2

1.1. Những quy định về quyền của bị can. 2

(1). Được biết mình bị khởi tố về tội gì; 2

(2). Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. 3

(3). Trình bày lời khai. 4

(4). Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu 5

(5). Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. 5

(6). Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa 6

(7). Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng. 7

(8). Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. 7

1.2. Nghĩa vụ của bị can 7

2. Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của bị cáo. 9

2.1. Quyền của bị cáo 9

(1). Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng; 9

(2). Được tham gia phiên tòa; 9

(3). Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; 10

(4). Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật; 10

(5). Đưa ra đồ vật, tài liệu yêu cầu 10

(6). Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; 11

(7). Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; 11

(8). Nói lời sau cùng trước khi nghị án; 12

(9). Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; 12

(10). Khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; 14

2.2. Nghĩa vụ của bị cáo. 15

II. ĐỀ XUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 16

C. KẾT LUẬN 19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c phải cho bị can biết mình bị khởi tố về tội gì chứ không phải là bị can tự tìm hiểu. Sự thay đổi này là một sự tiến bộ hơn, có ý nghĩa quan trọng trong các quy định về quyền của bị can. (2). Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can cũng chính là CQTHTT, NTHTT đã chỉ ra cho bị can hiểu rõ địa vị pháp lý của mình. Từ đó họ có thể biết mình đang trong tình trạng pháp lý nào, đang có quyền và phải có nghĩa vụ gì. Theo quy định tại khoản 6, Điều 126 BLTTHS 2003 thì CQĐT phải đảm bảo việc giao quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can được thực hiện. Bị can có quyền yêu cầu giải thích về các quyền và nghĩa vụ mà mình chưa nắm rõ cũng như hỏi về cách thức thực hiện các quyền mà pháp luật đã quy định cho họ để từ đó khi tham gia tố tụng họ có thể bảo vệ được quyền lợi của mình một cách hợp pháp. Trong thực tế có nhiều trường hợp bị can không hề được giải thích về nghĩa vụ của mình mà chủ yếu là nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp bị can vi phạm nghĩa vụ này nên đã bị áp giải, bị truy nã trong khi bị can không hề có ý định bỏ trốn. Đây là một quyền quan trong của bị can nhưng trước đây, BLTTHS 1988 không ghi nhận cho bị can có quyền này. Trước nhu cầu của tình hình, thực trạng nêu trên nên BLTTHS 2003 đã bổ sung, đấy là một sự thay đổi tiến bộ hợp lý, tăng cường cho bị can những quyền cần thiết để bảo vệ mình trước sự buộc tội của CQTHTT. (3). Trình bày lời khai. Là đối tượng bị buộc tội bị can có quyền bào chữa, gỡ tội. Việc trình bày lời khai là một trong các cách thức để bào chữa cho mình của bị can. Bị can có quyền trình bày các tình tiết, sự việc có liên quan đến vụ án để đưa ra bằng chứng chứng minh cho mình trước sự buộc tội của CQTHTT. Việc khai báo, trình bày lời khai là một quyền chứ không phải là một nghĩa vụ của bị can. Do đó bị can có thể khai báo hoặc không khai báo. Pháp luật không đặt ra trách nhiệm cho bị can trong trường hợp không khai báo hoặc khai báo không đúng sự thật, nhưng pháp luật khuyến khích bị can khai báo thành khẩn, đúng sự thật để có căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can. Khi bị can trình bày lời khai của mình thì NTHTT phải tôn trọng và có nhiệm vụ ghi chép thu thập những thông tin từ lời khai đó để làm chứng cứ cho vụ án. Lời khai của bị can có thể được ghi lại dưới dạng văn bản hoặc hình ảnh, âm thanh, sau đó điều tra viên đều cho bị can đọc lại, hoặc nghe lại rồi ký tên vào biên bản. Việc trình bày lời khai chính là việc bị can đang thực hiện quyền bào chữa của mình. Theo luật định thì trình bày lời khai là quyền của bị can nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp điều tra viên vi phạm quy định này như đã dùng hình thức hỏi cung, trái pháp luật (bức cung, ép cung bị can…). Cá biệt có nhiều trường hợp bị can không khai báo, điều tra viên còn tra tấn, bức cung dùng nhục hình để lấy được lời khai của bị can theo ý muốn của mình. Đây là một sự vi phạm quyền nghiêm trọng cần được xem xét và xử lý. Quyền trình bày lời khai là một quyền mới của bị can được quy định trong BLTTHS 2003, làm tăng thêm cách thức thực hiện các quyền bào chữa của bị can. (4). Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu Bị can có quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án để chứng minh cho sự vô tội của mình. Những đồ vật này có thể là vật dụng của bị can, người bị hại, vũ khí hay vật dụng khác hoặc những tài liệu liên quan. Trong BLTTHS 1988 quy định: “bị can có quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu”, đến BLTTHS 2003 thì: “bị can có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu yêu cầu”. Đây là một sự thay đổi hợp lý vì những đồ vật, tài liệu mà bị can đưa ra sẽ được coi là chứng cứ nếu được NTHTT thu thập theo trình tự, thủ tục luật định. Bị can cũng có quyền đưa ra các yêu cầu: yêu cầu có luật sư bào chữa, thay đổi người tiến hành tố tụng… hoặc đưa ra các yêu cầu khác như trưng cầu giám định, giám định lại hoặc điều tra lại nếu thỏa mãn các yêu cầu về thủ tục mà pháp luật quy định. (5). Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Pháp luật ghi nhận quyền yêu cầu thay đổi NTHTT của bị can tại khoản 2 Điều 43 BLTTHS 2003. Bị can có quyền này vì họ là đối tượng bị buộc tội trong vụ án, do vậy hơn ai hết họ là người trước tiên có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT. Tùy theo yêu cầu thay đổi từng NTHTT và chức vụ khác nhau mà căn cứ vào từng điều luật theo quy định từ Điều 44 đến Điều 47 BLTTHS 2003 mà người có thẩm quyền quyết định thay đổi hay không thay đổi NTHTT theo yêu cầu của bị can. Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định theo quy định của pháp luật. Kết quả giám định chứng minh cho hành vi của bị can có cấu thành tội phạm hay không, do đó bị can có quyền yêu cầu thay đổi người giám định. Trong trường hợp có người phiên dịch, nếu người này phiên dịch không trung thực hoặc không có khả năng phiên dịch chính xác thì cũng có thể làm sai lệch vụ án, có thể sẽ ảnh hưởng đến bị can, do đó bị can có quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch phải từ chối hoặc thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 62 BLTTHS 2003. (6). Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa Quyền bào chữa của bị can là một nguyên tắc được Hiến định (Điều 132 hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001), và luật định. Điều 12 BLTTHS 2003 ghi nhận: “bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, CQĐT, VKS và TA có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ”. Quyền bào chữa của bị can được thể hiện dưới 2 hình thức: tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Đối với quyền tự bào chữa của bị can được thực hiện trong tất cả các giai đoạn mà bị can tham gia. Bị can có thể dùng lời khai, đưa ra những đồ vật, tài liệu để chứng minh cho sự vô tội của mình. Bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật cũng quy định cho bị can quyền nhờ người bào chữa cho mình. NBC có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của bị can. NBC sử dụng quyền năng mà pháp luật cho phép để bảo vệ tốt nhất cho thân chủ của mình. Thông thường, NBC do bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Nhưng trong trường hợp bị can bị truy tố về tội có mức hình phạt cao nhất là tử hình theo BLHS hoặc bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của bị can không mời NBC thì pháp luật bắt buộc CQTHTT phải cử NBC cho bị can vì trong trường hợp này bị can bất lợi hơn và khả năng thực hiện được quyền tự bào chữa của bị can là không cao. (7). Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng. Bị can có quyền được nhận các quyết định khởi tố quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản cáo trạng, quyết định truy tố, và các quyết định khác theo quy định của pháp luật có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bị can. Việc nhận các quyết định tố tụng này giúp vị can nắm được tình hình giải quyết vụ án cũng như tình trạng pháp lý của mình, để từ đó có thể chủ động trong các hoạt động tố tụng mà mình tham gia. Đây cũng là một quyền bổ trợ cho bị can thực hiện quyền bào chữa cho mình. (8). Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Các quyết định của CQTHTT, NTHTT ban hành trong các giai đoạn tố tụng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can, thì bị can có quyền khiếu nại đối với các quyết định đó. Pháp luật chỉ quy định bị can có quyền khiếu nại đối với các quyết định tố tụng nói chung nên ta có thể hiểu tất cả các quyết định tố tụng liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can đều có thể trở thành đối tượng khiếu nại. Trình tự thủ tục tiến hành khiếu nại và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở đây được pháp luật quy định rõ ràng tại chương XXXV của BLTTHS 2003. Quyền khiếu nại của bị can là sự đảm bảo của pháp luật để bị can có thể bảo vệ quyền lợi của mình và cũng là căn cứ để đánh giá sự tuân thủ đúng pháp luật của các CQTHTT, NTHTT. 1.2. Nghĩa vụ của bị can Pháp luật không quy định nhiều về nghĩa vụ của bị can, trong khi trách nhiệm và nghĩa vụ của NTHTT lại rất lớn. Quy định tại khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003 Bị can có nghĩa vụ: “phải có mặt theo giấy triệu tập cảu CQĐT, VKS. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã”. Bị can tại ngoại được triệu tập bằng giấy triệu tập bị can gửi cho cơ quan, tổ chức nơi bị can cư trú hoặc làm việc. Khi nhận giấy triệu tập, bị can phải ký nhận, có ghi rõ ngày giờ nhận, nếu bị can vắng mặt thì giấy triệu tập có thể giao cho người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển cho bị can. Nếu bị can đang bị tạm giam thì được triệu tập thông qua Ban giám thị trại tạm giam. Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập. Trong trường hợp vắng mặt không lý do chính đáng hoặc có biểu hiện trốn tránh thì CQĐT có thể ra quyết định áp giải. Tuy nhiên không được áp giải bị can vào ban đêm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can; trường hợp bỏ trốn thì bị can sẽ bị truy nã. Xét quy định tại khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003 thì bị can chỉ có nghĩa vụ có mặt khi có giấy triệu tập của CQĐT, VKS mà không hề có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Nhưng trong thực tế tiến hành tố tụng nhiều trường hợp, trong khi Tòa án chuẩn bị xét xử “Tòa án vẫn triệu tập bị can đến để giải quyết vấn đề dân sự hoặc cam đoan trước khi quyết định biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm những không căn cứ” (Nguyễn Mai Bộ-Một số vướng mắc, bất cập trong các quy định của BLTTHS và hướng hoàn thiện. Tạp chí nhà nước và pháp luật số 4/2009). Vì vậy cần phải bổ sung nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án cho bị can. 2. Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của bị cáo. 2.1. Quyền của bị cáo Theo quy định tại khoản 2 Điều 50 BLTTHS 2003 thì bị cáo có các quyền sau: (1). Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng; Bị cáo có quyền được nhận các quyết định tố tụng do CQTHTT, NTHTT ban hành. Trong đó quan trọng nhất là quyết định đưa vụ án ra xét xử, vì từ đó tư cách bị can chuyển thành bị cáo trong quá trình tố tụng, đồng thời quyền và nghĩa vụ của bị cáo được xác định, đây cũng là căn cứ để áp dụng các biện pháp tố tụng đối với bị cáo. Quyết định này phải được giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Kết quả của giai đoạn xét xử có ý nghĩa quyết định đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị cáo. Các quyết định đình chỉ vụ án, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn cũng cần phải giao cho bị cáo. Kết quả xét xử được thể hiện trong bản án, xác định bị cáo phạm tội hay không phạm tội, phạm tội gì, căn cứ pháp lý, hình phạt và các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với bị cáo. Bản án phải được giao cho bị cáo trong vòng 10 ngày kể từ ngày tuyên án để bị cáo có điều kiện biết rõ để nếu có thể thì sẽ thực hiện tốt nhất việc kháng bảo vệ quyền lợi của mình. Bị cáo cũng có quyền nhận các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Các quyết định này được giao đến bị cáo dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng phải đảm bảo là bị cáo nhận được quyết định. (2). Được tham gia phiên tòa; Phiên tòa được mở ra để xét xử bị cáo vì vậy việc bị cáo có mặt tại phiên tòa là quyền đương nhiên của bị cáo. Trường hợp bị cáo vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị áp giải theo thủ tục áp giải. Nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa; trường hợp bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác mà không thể tham gia phiên tòa để bào chữa cho mình thì HĐXX phải tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh; trong trường hợp bị cáo trốn tránh và việc truy nã không hiệu quả; bị cáo ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; hoặc nếu sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại đến việc xét xử và bị cáo đã được giao quyết định triệu tập một cách hợp lệ thì TA vẫn có thể tiến hành xét xử bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo có thể đưa ra các lý lẽ, đồ vật, tài liệu để gỡ tội cho mình, cho nên bị cáo cần nhận thức rõ về quyền tham gia phiên tòa của mình và nên tích cực tham gia để bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của mình. (3). Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Ở đây, quyền và nghĩa vụ của bị cáo có sự thay đổi khác với tư cách bị can trước đó. Vì vậy, chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền lợi và nghĩa vụ cho bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa. Điều này có ý nghĩa đặc biệt nhất là với các bị cáo lần đầu tiên tham gia phiên tòa xét xử thì việc giải thích quyền lợi và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa sẽ giúp họ ổn định tâm lý, như vậy sẽ giúp họ hợp tác với CQTHTT, NTHTT được tốt nhất. (4). Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật; Bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT, người phiên dịch, người giám định, trong các trường hợp quy định của pháp luật nếu thấy quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể bị xâm hại. Tại phiên tòa nếu bị cáo có yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm thì HĐXX sẽ biểu quyết tại phòng nghị án để quyết định việc có thay đổi hay không, nhưng lưu ý đề nghị này chỉ được phép thực hiện trước khi HĐXX, nếu thay đổi thì phải hoãn phiên tòa. (5). Đưa ra đồ vật, tài liệu yêu cầu Quyền này của bị cáo giống với quyền của bị can. Bị cáo cũng có quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu để chứng minh cho mình vô tội và đưa ra các yêu cầu tại phiên tòa. (6). Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Quyền bào chữa là quyền cơ bản của đối tượng bị buộc tội xuyên suốt trong quá trình tố tụng, nên với tư cách là bị can hay bị cáo đều được pháp luật thừa nhận quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Nhìn chung, cách thức thực hiện quyền này của bị can và bị cáo là giống nhau. Bị cáo tự bào chữa bằng cách đưa ra những đồ vật, tài liệu, lời khai, lý lẽ. Tuy nhiên quyền nhờ NBC ở giai đoạn xét xử được quy định chặt chẽ hơn ở chỗ: tại các buổi hỏi cung bị can, người bào chữa có quyền được có mặt để tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị can, nhưng tại phiên tòa thì việc tham gia của NBC là một nghĩa vụ bắt buộc, nhưng nếu vắng mặt NBC thì TA vẫn mở phiên tòa xét xử. Những trường hợp phiên tòa phải hoãn khi vắng mặt NBC là khi bị cáo bị đưa ra xét xử với khung hình phạt cao nhất là tử hình, hoặc bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất và tinh thần. (7). Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; “Mô hình xét xử của Việt Nam là xét hỏi”, tuy nhiên tại phiên tòa việc tranh luận vẫn được diễn ra giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Bị cáo có quyền trình bày những ý kiến của mình về về vấn đề mà Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán đưa ra, có quyền tranh luận với Kiểm sát viên. Ngay cả khi có NBC thì bị cáo vẫn có quyền bổ sung các ý kiến để bào chữa cho mình. BLTTHS 2003 đã quy định cho bị cáo và NBC cho bị cáo có quyền tranh luận nhiều lần tại phiên tòa chứ không phải một lần. Đây cũng là một quyền bổ trợ cho quyền bào chữa của bị cáo. BLTTHS 1988 đã không quy định cho bị cáo quyền này. BLTTHS 2003 đã bổ sung, thể hiện sự tiến bộ của pháp luật, hoàn thiện hơn nữa các quyền cho bị cáo. (8). Nói lời sau cùng trước khi nghị án; Quy định cho bị cáo quyền nói lời sau cùng thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật Việt Nam, đó là pháp luật đặt ra ngoài mục đích trừng phạt còn mang tính răn đe giáo dục con người. Lời nói sau cùng của bị cáo sẽ phản ánh thái độ của bị cáo đối với toàn bộ sự việc đã xảy ra: có những bị cáo vẫn ngoan cố không chịu thừa nhận hành vi phạm tội, có bị cáo thành thật cúi đầu nhận tội xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Thái độ của bị cáo lúc này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc quyết định vụ án. Vì vậy đây có thể được coi như một đặc quyền mà bị cáo được sử dụng để thực hiện việc bào chữa cho mình. Khi bị cáo nói lời sau cùng, HĐXX không được đặt câu hỏi cho bị cáo, cũng không được hạn chế thời gian, tuy nhiên chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu bị cáo không được nói những gì không liên quan đến vụ án. Khi bị cáo nói lời sau cùng mà đưa ra những tình tiết mới liên quan đến vụ án thì HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi để đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. Ý nghĩa của quy định này không chỉ dừng lại ở việc bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho bị cáo mà khi xét xử công khai một vụ án, thì những lời nói sau cùng của bị cáo cũng chính là một cách thức tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho người dân đạt hiệu quả cao. (9). Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; Sau khi nghị án, hội đồng xét xử sẽ đưa ra quyết định sau cùng để giải quyết vụ án thể hiện trong bản án tại phiên tòa, quyền kháng cáo của bị cáo cũng được ghi trong nhận trong bản án này. Pháp luật quy định cho bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ nội dung bản án, quyết định của TA, trong khi các chủ thể khác chỉ có thể kháng cáo phần nội dung của vụ án, quyết định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ. Bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền kháng cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với trường hợp bị cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc giao cho bị cáo. Có nhiều chủ thể có quyền kháng cáo, tuy nhiên nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo hay kháng nghị của chủ thể nào khác theo hướng bất lợi cho bị cáo, thì TA không được sửa bản án theo hướng tăng nặng cho bị cáo. Đây là một sự đảm bảo của pháp luật để bị cáo có thể thực hiện quyền kháng cáo của mình mà không lo sợ đến hậu quả bất lợi khi TA quyết định xét xử phúc thẩm. Bị cáo cũng có quyền kháng cáo các quyết định của TA như quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án hoặc quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh khi các quyết định này chưa có hiệu lực pháp luật. Bị cáo thực hiện việc kháng cáo theo những điều kiện mà pháp luật quy định. Bị cáo cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ hay một phần kháng cáo của mình trước hoặc trong phiên tòa phúc thẩm. Quyền kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm là một quyền quan trọng của bị cáo. Trình tự, thủ tục kháng cáo và trách nhiệm của các chủ thể thực hiện tố tụng bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền này được quy định từ Điều 231 đến Điều 240 của BLTTHS. Việc kháng cáo của bị cáo đối với các quyết định của bản án sơ thẩm sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là khi có kháng cáo thì bản án sơ thẩm chưa được đem ra thi hành ngay. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 255 BLTTHS quy định trường hợp mà bị cáo đang bị tam giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, tuyên các hình phạt không tước tự do hoặc tuyên án tù nhưng ngắn hạn hơn (hoặc bằng) thời hạn tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án sơ thẩm thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo (hoặc kháng nghị). Pháp luật quy định quyền kháng cáo với các yêu cầu về thời hạn, cách thức kháng cáo mà không quy định phải có căn cứ kháng cáo, nên trong thực tế nhiều trường hợp bị cáo kháng cáo để “cầu may”, dẫn đến tình trạng số lượng án phúc thẩm nhiều, gây tồn đọng và khó khăn trong công tác xét xử phúc thẩm, trong khi bản án sơ thẩm đã hoàn toàn phù hợp do vậy cần phải có sự xem xét quy định này cho hợp lý. (10). Khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định hoặc hành vi tố tụng mà bị cáo cho rằng có sự vi phạm pháp luật. BLTTHS 2003 quy định cụ thể trình tự, thủ tục, và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại của bị cáo trong từng trường hợp cụ thể. Tùy từng đối tượng bị khiếu nại mà pháp luật quy định người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là khác nhau. Bị cáo chỉ có quyền khiếu nại những quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà những quyết định đó không phải là đối tượng của kháng cáo (đối tượng của kháng cáo là các bản án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án). BLTTHS 1988 không quy định cho bị cáo có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cũng không quy định về trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động TTHS trong một chương riêng như BLTTHS 2003. Đến BLTTHS 2003 mới quy định và quy định rất chi tiết cho cả bị can, bị cáo đều có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT. Đây là một sự tiến bộ rõ rệt trong quy định của pháp luật để đưa quyền khiếu nại của bị can, bị cáo vào áp dụng được trên thực tế và có cơ chế bảo đảm thi hành chứ không chỉ dừng lại ở việc quy định chung như trước đó. Các quyền mà pháp luật quy định cho bị cáo đều nhằm mục đích phục vụ quyền bào chữa của bị cáo. Mỗi quyền khác nhau tạo cho bị cáo cách thức khác nhau để thực hiện quyền bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho mình. 2.2. Nghĩa vụ của bị cáo. Bị cáo chỉ có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của TA và trong trường hợp bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bị cáo bỏ trốn thì bị truy nã. Trong giai đoạn xét xử, TA triệu tập bằng giấy triệu tập khi cần có mặt của bị cáo. Giấy triêu tập bị cáo chỉ rõ đích danh bị cáo và thời gian bị cáo phải có mặt. Trong một số trường hợp bị cáo vắng mặt vì những lý do khách quan như do sức khỏe hoặc do bi cáo không nhận được giấy triệu tập của TA thì việc bị cáo vắng mặt được Tòa án chấp thuận. Nhưng nếu bị cáo vắng mặt không lý do chính đáng thì sẽ bị dẫn giải. trong trường hợp bị cáo cố tình bỏ trốn thì bị truy nã theo quy định của pháp luật. Nhìn nhận một cách khách quan thì việc có mặt theo giấy triệu tập không chỉ là nghĩa vụ mà còn là một quyền của bị cáo. Vì bị cáo có quyền được tham gia vào các hoạt động tố tụng để trực tiếp thấy được các hoạt động của CQTHTT tiến hành những hoạt động nào, có những quyết định gì đối với mình để từ đó mới có thể tiến hành bào chữa cho bản thân một cách hiệu quả nhất. Nhưng trên thực tế rất nhiều bị cáo không hiểu được điều này mà cố tình trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ của mình và buộc các CQTHTT sử dụng các biện pháp dẫn giải, hay truy nã bị cáo. Điều này sẽ gây hậu quả bất lợi hơn cho bị cáo. Bị can, bị cáo cùng là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự chỉ có tư cách pháp lý là khác nhau trong các giai đoạn tố tụng khác nhau. Do đó rất nhiều quyền của bị can, bị cáo giống nhau như quyền bào chữa, quyền được giải thích về các quyền lợi và nghĩa vụ, … Nhưng trong các giai đoạn tố tụng khác nhau thì các hoạt động tố tụng được tiến hành cũng khác nhau, do đó quyền của bị can, bị cáo cũng có nhiều điểm khác nhau, sự khác nhau này chính là đặc điểm để phân biệt về địa vị pháp lý của 2 chủ thể này. II. ĐỀ XUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Để TTHS đạt hiệu quả cao thì việc sửa đổi,bổ xung nhằm hoàn thiện các quy định về bị can,bị cáo cần được tiến hành theo hướng các quy định phải chi tiết, cụ thể, dễ hiểu hơn nữa để tránh tình trạng hiểu và áp dụng không thống nhất các quy định của BLTTHS về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của bị can, bị cáo và những CQTHTT, NTHTT có liên quan đến bị can, bị cáo. Từ việc phân tích các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong TTHS, xin đưa ra một số kiến nghị sửa đổi bổ sung những quy định của BLTTHS 2003 về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo và những quy định liên quan như sau: Do pháp luật quy định chỉ mới khái quát rằng “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” gây khó khăn cho việc xác định thời điểm chuyển hóa tư cách bị can thành bị cáo, nên cần có hướng dẫn chi tiết cho quy định này trong các văn bản dưới luật hoặc sửa đổi lại khoản 1 Điều 49 theo hướng quy định rõ thời điểm xác định tư cách bị can. Nên sửa đổi quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 179 thành: “khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” để tránh tình trạng không xác định được thời điểm chuyển tư cách từ bị can sang bị cáo. Việc xác định không chính xác người tham gia tố tụng, đặc biệt là trong trường hợp bị can, bị cáo có người đại diện hợp pháp sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau trong bản án, quyết định của TA. Nhưng trong BLTTHS lại không quy định về người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo trong quy định tại Điều 49 và Điều 50 về bị can, bị cáo, mà quy định rải rác ở các điều luật khác (như Điều 56 về người bào chữa, Điều 57 về Lựa chọ và thay đổi người bào chữa, Điều 303 về Việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội, Điều 305 về Bào chữa). Vì vậy nên quy định trực tiếp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần có người đại diện hợp pháp vào chung trong Điều 49 và Điều 50 của BLTTHS. Quy định tại khoản b Điều 49 và khoản c Điều 50 BLTTHS, thì bị can, bị cáo có quyền “được giải thích về quyền và nghĩa vụ”, tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện những quyền này chưa có sự bảo đảm về mặt pháp lý nên c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.doc
Tài liệu liên quan