Tiểu luận Cách thức xây dựng và các yêu cầu trong việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam hiện nay

Mục lục

 

Lời mở đầu 1

Phần nội dung 1

I. Khái quát chung. 1

1. Các cách hiểu về thủ tục TTDS rút gọn 1

2. Lịch sử thủ tục tố tụng dân sự rút gọn 1

II. Cần xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam 2

1. Cơ sở cần thiết cho việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hiện nay 2

a) Cơ sở lý luận 2

b) Cơ sở thực tiễn 3

2. Những ưu điểm 4

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ có những ưu điểm và thuận lợi như sau: 4

III. Cách thức xây dựng và các yêu cầu trong việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam hiện nay. 4

1) Cách thức xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam hiện nay 4

a) Đối tượng áp dụng 4

b) Phạm vi áp dụng 6

3) Các quy định của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn 7

a) Người tiến hành tố tụng. 7

b) Thời hạn. 7

c) Thủ tục tố tụng 7

4) Yêu cầu chung của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn 8

Lời kết 9

Tài liệu tham khảo 9

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2388 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cách thức xây dựng và các yêu cầu trong việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục **** Kí hiệu trong bài TTDS: Tố tụng dân sự BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự. Lời mở đầu Trong hoạt động tố tụng, không nhất thiết phải áp dụng một thủ tục tố tụng chung cho tất cả các loại vụ việc có mức độ phức tạp khác nhau. Hiện nay, Bộ luật TTDS 2004 đã có những thủ tục khác nhau cho giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự. Ở đó, thủ tục giải quyết việc dân sự có thể được coi là thủ tục rút gọn trong TTDS. Tuy nhiên, BLTTDS lại chưa quy định một thủ tục giải quyết mang tính rút gọn riêng cho vụ án dân sự. Với thực tiễn phát triển của kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, việc xây dựng một thủ tục tố tụng rút gọn riêng trong TTDS nói chung và vụ án dân sự nói riêng là điều rất cần thiết. Phần nội dung Khái quát chung. Các cách hiểu về thủ tục TTDS rút gọn Trong khoa học luật Tố tụng nói chung và khoa học luật tố tụng dân sự nói riêng, các thủ tục Tố tụng được chia thành hai loại là thủ tục tố tụng thông thường và thủ tục tố tụng đặc biệt. Thủ tục rút gọn là một dạng của tố tụng đặc biệt. Đây là hình thức thủ tục tố tụng dân sự được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là sự giản lược, đơn giản hóa một số khâu trung gian không cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm xử lí nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo đúng đắn chính xác. Sự giản lược, đơn giản hóa các khâu trung gian như trên cần được hiểu theo một nghĩa rộng là đơn giản cả về phạm vi và các thủ tục cũng như về thời hạn và các giai đoạn. Lịch sử thủ tục tố tụng dân sự rút gọn Ở Việt Nam, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có thể được coi là đã từng được quy định trong pháp luật của nước ta từ thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946-1980). Tuy nhiên, thời đó, hình thức tố tụng rút gọn này hạn chế ở chỗ chỉ có một hình thức duy nhất là xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm và chỉ được áp dụng đối với một loại vụ án- các vụ tranh chấp dân sự có giá ngạch thấp. Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn thời kì này nằm rải rác trong một số văn bản như: + Sắc lệnh 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa án và quy định các ngạch Thẩm phán. Sự rút gọn trong văn bản này thể hiện ở quy định Chánh án xử một mình. + SL 51SL 17/4/1946 quy định thẩm quyền tòa án sơ cấp về dân sự và thương và Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định: có thể xét xử một thẩm phán, không có hội thẩm nhân dân trong vụ án nhỏ, giản đơn, không quan trọng. + Nghị định 32 ngày 6/4/1952 của Bộ Tư Pháp. Thủ tục rút gọn thể hiện ở chỗ Tòa án huyện có quyền chung thẩm + Thông tư 4013/TTC 9/5/1959 của Bộ Tư pháp và thông tư liên bộ thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao số 93/TC ngày 11/11/1959 đã quy định Tòa án huyện có thẩm quyền chung thẩm một số lĩnh vực. + v.v.. Hiện nay, Bộ luật TTDS Việt Nam 2004 chưa đề cập đến thủ tục TTDS rút gọn. Quá trình giải quyết việc dân sự tuy có đơn giản, nhưng đó không thể coi là thủ tục TTDS rút gọn nói chung. Thủ tục TTDS rút gọn trong đề tài này chủ yếu muốn hướng tới trình tự giải quyết một vụ án dân sự. Cần xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam Cơ sở cần thiết cho việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn hiện nay Cơ sở lý luận Ø Đường lối cải cách Tư pháp của Đảng, Nhà nước. Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 cùng với quyết định đôn đốc: “hoàn thành các nhiệm vụ mà Nghị quyết 08/NQ-TN ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian mới”. Một trong những nhiệm vụ đó là việc cải cách thủ tục tố tụng dân sự hiện hành. Ø Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Bởi giữa luật dân sự và luật tố tụng dân sự có mối quan hệ mật thiết nên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là cơ sở để xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn. VD: Các nguyên tắc tại Điều 4,5,6,7,12 Bộ luật dân sư 2005. Những nguyên tắc này sẽ giúp giải quyết vụ việc dân sự một cách nhanh chóng, đơn giản. Ví dụ, khi giao dịch dân sự không tuân theo những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì Tòa án có thể vận dụng chính những nguyên tắc đó để giải quyết. Tòa án có thể buộc các bên phải xác lập thực hiện cá quyền- nghĩa vụ đã thỏa thuận hoặc tuyên bố giao dịch đó vô hiệu. Ø Tính phù hợp giữa thủ tục tố tụng dân sự được xây dựng với tính chất của vụ việc. Thủ tục tố tụng dân sự nên được áp dụng với những vụ việc có giá trị tài sản tranh chấp không lớn, chứng cứ rõ ràng hoặc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ. Bởi lẽ, tính chất của những vụ việc như thế rất đơn giản, không cần thiết phải trải qua đầy đủ các giai đoạn cũng như tiêu tốn nhiều thời gian như thủ tục tố tụng dân sự thông thường. Cơ sở thực tiễn Hiện nay, ở nước ta, các tòa án đang phải giải quyết một lượng lớn các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình. Không có sự ưu tiên nào, tất cả các vụ án này đều phải trải qua những thủ tục chung rất phức tạp. Chính điều này đã dẫn tới hiện tượng quá tải trong xét xử ở các cấp, số lượng tồn động vụ án hàng năm tăng cao. Theo báo cáo tổng kết ngành tòa án các năm 2005 đến 2009. Tỷ lệ các vụ án dân sự theo nghĩa rộng chiếm tỷ trọng rất lớn: Trần Thị Thúy Vân. Khóa luận tốt nghiệp. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam. HN-2010, tr.32 Năm 2005 2006 2007 2008 2009 TAND thụ lí 129.927 143.580 171.681 192.336 214.174 Giải quyết 150.195 160.979 188.992 174.732 194.398 Tỉ lệ (%) 87 89 90.54 90.8 90.7 Trong khi đó, thực tế, có nhiều vụ án, kể cả những vụ án rất đơn giản nhưng việc giải quyết bị kéo dài không cần thiết, vi phạm nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ, nhiều trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, không có sự phản đối của bị đơn nhưng bị đơn vẫn không chịu thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp không có sự thừa nhận của bị đơn về nghĩa vụ thực hiện nhưng có chứng cứ rõ ràng, đầy đủ, các sự kiện đã được xác định. Tòa án không mất nhiều thời gian điều tra, xác minh, áp dụng pháp luật dễ dàng nhưng vẫn phải xử theo thủ tục chung. Ngoài ra, việc tiến hành và kéo dài những thủ tục không cần thiết đã khiến cho không ít các trường hợp, các tranh chấp dân sự từ đơn giản phát triển thành các vụ án nghiêm trọng do không được giải quyết kịp thời. Ví dụ, đối với những vụ án đơn giản, sau khi đã trải qua một thời gian khá dài để Tòa án có quyết định, nhiều bị đơn vẫn lạm dụng quyền kháng cáo lên Tòa án Phúc thẩm để xem xét lại nội dung vụ án. Điều này, dễ dẫn đến hậu quả, mâu thuẫn giữa các đương sự thêm gay gắt, thậm chí, gây tổn hại cho nhau, để rồi chỉ từ một tranh chấp dân sự đơn giản lại chuyển thành một vụ án hình sự. Như vậy, áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ khắc phục được tình trạng trên, để các quy định pháp luật tố tụng dân sự mềm dẻo, linh hoạt khi áp dụng với các vụ việc có tính chất khác nhau. Ngoài ra, nếu áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự thì các chi phí về thời gian, tiền bạc, công sức của Nhà nước, nhân dân sẽ được tiết kiệm một cách đáng kể. Chính vì có cơ sở thực tiễn như trên, mà trong dự thảo Bộ luật TTDS 2004, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đã được đưa vào chương số XV (dự thảo 5, 8, …).Tuy nhiên, vì một vài lý do mà vấn đề này đã không được ghi nhận khi bộ luật TTDS 2004 chính thức ra đời. Tuy nhiên, quacác dự thảo, phần nào cũng thấy rằng, nhà làm luật đã có ý thức về tầm quan trọng của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn. Một sơ sở thực tiễn nữa cũng rất quan trọng trong việc thúc đẩy việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn hiện nay là thủ tục tố tụng dân sự rút gọn không phải là thủ tục mới mà đã từng xuất hiện ở Việt Nam trước đây (xem mục I.2) và nhiều nước trên thế giới như Nga, Quebec, Canada, Nhật Bản, Trung Quốc. Vì vậy, việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn hiện nay là phù hợp với xu thế chung, đáp ứng được yêu cầu xã hội, có thể tận dụng được những kinh nghiệm của những quy định trước đây của nước ta và trên thế giới. Hơn nữa, khác với thời kì trước đây (thời kì không cho phép thực hiện thủ tục tố tụng dân sự rút gọn), cơ sở vật chất của Tòa án ngày nay ngày càng được cải thiện, đội ngũ thẩm phán các cấp được kiện toàn về số lượng và chất lượng. Sau khi tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện, năng lực của các thẩm phán ngày càng được khẳng định. Tất cả những yếu tố này sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở nước ta hiện nay. Những ưu điểm Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ có những ưu điểm và thuận lợi như sau: Thứ nhất, thủ tục tố tụng mềm dẻo, linh hoạt những trình tự đơn giản sẽ mang lại hiệu quả thiết thực cho cơ quan tố tụng và người tham gia tố tụng dân sự như rút ngắn được thời gian công sức, kinh phí cho nhà nước và nhân dân, góp phần làm giảm đáng kể về công việc đối với cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp đơn giản là yêu cầu cần thiết. Có như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng mới có thời gian tập trung vào vụ việc phức tạp hơn. Thứ ba, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn tạo thuận lợi cho đương sự trong việc khởi kiện, tham gia tố tụng và các hoạt động khác vì không phải trải qua tất cả các giai đoạn. Thứ tư, các phán quyết là kết quả của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ có hiệu lực chung thẩm, tránh tình trạng các đương sự làm quyền kháng cáo nhằm trì hoãn thực hiện nghĩa vụ. Từ đó, sẽ bảo vệ quyền lợi của những người khác. Thứ năm, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn giúp nâng cao hiệu suất công tác xét xử của Tòa án; thẩm phán có thể tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi được giao. III. Cách thức xây dựng và các yêu cầu trong việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam hiện nay. 1) Cách thức xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam hiện nay Đối tượng áp dụng Chỉ nên áp dụng thủ tục TTDS rút gọn với vụ án ít phức tạp và nên được áp dụng cho cả cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Đó là những vụ kiện có nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ tương đối đầy đủ rõ ràng, không cần nhiều thời gian để điều tra, xác minh, vụ án dân sự có giá ngạch thấp; các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau, v.v.. Nguyễn Đức Hai: Xây dựng pháp luật: Vấn đề thủ tục rút gọn trong TTDS ở nước ta. Tr.5 Thứ nhất, đối với những vụ kiện có nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ tương đối đầy đủ, rõ ràng. Đây có thể hiểu là những vụ kiện mà nguyên đơn xuất trình được chứng cứ bằng văn bản để chững minh cho yêu cầu của mình và tất cả người tham gia khác không phản đối về chứng cứ đó; Tòa coi là đáng tin cậy và việc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ là đương nhiên. Mục đích của nguyên đơn khi khởi kiện chỉ là cần có bản án của Tòa làm cơ sở yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành là vì pháp luật buộc phải như vậy. Ví dụ cho những vụ việc kiểu này là: Việc chủ sở hữu yêu cầu người thuê tài sản phải trả lại tài sản thuê trong trường hợp hết hạn của hợp đồng thuê. Việc chủ sở hữu yêu cầu đòi lại tài sản cho thuê từ người thứ ba được người cho thuê tài sản cho thuê lại nhưng không có sự đồng ý bằng văn bản của chủ tài sản, ngoài ra các bên không có tranh chấp nào khác. Việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với giao dịch được kí kết với người mất mất năng lực hành vi dân sự đã có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án xác định thời điểm, tình trạng mất năng lực của họ mà không phải giải quyết hậu quả pháp lí từ giai đoạn này. Yêu cầu bị đơn phải thực hiện quy định về hình thức của giao dịch mà pháp luật quy định. Trần Thị Thúy Vân. Khóa luận tốt nghiệp. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam. HN-2010, Thứ hai, những vụ kiện có giá ngạch thấp. Nhìn chung, những vụ kiện có giá ngạch thấp thường có nội dung đơn giản, tình tiết rõ ràng, sau khi được tòa án cấp sơ thẩm giải quyết thì ít có kháng cáo. Măt khác,vụ việc có giá trị nhỏ, nếu phải giải quyết theo thủ tục thủ tục thông thường, sẽ gây thêm sự mâu thuẫn giữa các đương sự, khắc sâu thêm mối bất hòa giữa các bên. Ngoài ra, sẽ tránh được tình trạng vụ việc có giá ngạch thấp, sự việc rõ ràng nhưng đương sự vẫn kháng cáo nhằm kéo dài thời gian. Như vậy, giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn, các vụ việc có giá ngạch thấp sẽ được “đối xử” như sau: + Vụ việc giá ngạch thấp, nếu có đủ chứng cứ chứng minh thì tòa án chấp nhận yêu cầu, nếu không đủ chứng cứ chứng minh thì tòa án bác đơn. Trường hợp này nên dứt điểm luôn ở cấp sơ thẩm vì nếu có kháng cáo lên cấp phúc thẩm thì cũng không thể xét xử khác được. +) Luật pháp phải có thái độ dứt khoát đối với những việc kiện có giá trị nhỏ, muốn kiện trước hết đương sự phải có đủ chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình. Tòa án tiến hành các biện pháp cần thiết vẫn không thể chứng minh thêm thì nên dừng lại ở các chứng cứ có trong hồ sơ. Tóm lại, ngày nay, khổi lượng công việc của Tòa án càng ngày càng nhiều, vì vậy, điều cần thiết là phải giải quyết dứt điểm, nhanh chóng các vụ việc có giá ngạch thấp. Tuy nhiên, khi xem xét những vụ việc có giá ngạch thấp để áp dụng thủ tục rút gọn thì cần phải xét tới một ngoại lệ. Đó là những tranh chấp về tài sản có giá ngạch thấp nhưng liên quan tới việc xác định mốc giới về đất đai. Những tranh chấp này không nên giải quyết theo thủ tục TTDS tút gọn. Vì những tranh chấp này thường gay gắt, nhạy cảm. Vậy, mức tiền khoảng bao nhiêu thì được coi là có giá ngạch thấp. Nước Pháp quy định giá ngạch thấp là nhỏ hơn 25000 francs, Nhật: 900 000 Yên. Ở Việt Nam hiện nay, có quan điểm cho rằng, giá ngạch thấp là nhỏ hơn 10 triệu đồng. Tuy nhiên, vấn đề này, cần xem xét kĩ lưỡng sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Thứ ba, những vụ việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ và yếu tố vụ việc có giá ngạch thấp được kết hợp đồng thời. Cụ thể, đó là các vụ việc sau: +) Ly hôn mà 2 bên đương sự mới kết hôn không lâu, tranh chấp tài sản không lớn. +) Tranh chấp về thời gian và số tiền cấp dưỡng. +) Tranh chấp về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. +) Tranh chấp hợp đồng vay tài sản mà tài sản bằng tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền mà bên vay tài sản không phản đối việc vay và việc đòi nợ của bên cho vay. +) Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà có sự thật rõ ràng, trách nhiệm rõ ràng và giá trị bồi thường không lớn. +) Yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng. +) Các tranh chấp khác mà có sự thật rõ ràng, tình tiết đơn giản, nội dung tính chất rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn. Thứ tư, những vụ việc mà đương sự thỏa thuận lựa chọn thủ tục TTDS rút gọn. Bởi lẽ, đương sự có quyền định đoạt nên họ có thể cùng thỏa thuận, yêu cầu Tòa án áp dụng thủ tục TTDS rút gọn với vụ việc của mình. Tuy nhiên, ở trường hợp này, quyền quyết định có áp dụng thủ tục TTDS rút gọn hay không vẫn thuộc về Tòa án. Nếu xét thấy vụ án có thể giải quyết bằng thủ tục rút gọn mà vẫn đảm bảo tính đúng đắn thì Tòa án cũng nên đáp ứng yêu cầu áp dụng thủ tục rút gọn của đương sự. Phạm vi áp dụng + Rút gọn ở tất cả các giai đoạn, các khâu có thể. +) Giảm thời hạn giải quyết các vụ án ở các giai đoạn tố tụng (chuẩn bị xét xử, kháng cáo, mở phiên tòa,…). Xuất phát từ đối tượng áp dụng của Thủ tục TTDS rút gọn là các tranh chấp đơn giản, nên thời gian dài là không cần thiết. +) Cho phép xử bút lục. Tức là không cần mở phiên tòa công khai. +) Phải đảm bảo nguyên tắc giải quyết nhanh gọn, kịp thời các vụ kiện khi có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định và việc giải quyết vụ kiện chỉ do một thẩm phán mà không cần cả hội đồng xét xử. Tuy nhiên, khi xem xét các phạm vi ở trên, có nhiều ý kiến cho rằng, chỉ một thẩm phán xét xử sẽ vi phạm nguyên tắc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia và nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Thực ra, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là không trái các nguyên tắc trên. Thứ nhất, với nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia. Hiện nay, xét xử phúc thẩm cũng không có hội thẩm tham gia (Điều 53 BLTTDS 2004). Vì vậy, thủ tục rút gọn không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân cũng không có điều gì là đặc biệt. Bởi lẽ, ta nên coi đây là ngoại lệ so với các trường hợp xét xử thông thường. Hơn nữa, một thẩm phán xét xử thì vẫn đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, bởi lẽ, hội thẩm tham gia phiên tòa nhiều lúc chỉ mang tính hình thức mà chưa phát huy được khả năng, nhiệm vụ của mình. Mặt khác, Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa là nhằm mục đích thể hiện bản chất dân chủ, tính nhân dân, tăng cường sự giám sát của nhân dân. Nếu không có hội thẩm nữa, sự giám sát này vẫn sẽ không mất đi vì vẫn còn sự giám sát của Viện Kiểm sát, Mặt trận Tổ quốc. Thứ hai, với nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”. Vậy, một thẩm phán xét xử sẽ trái nguyên tắc này, và trái với cả Hiến Pháp 1992. Tuy nhiên, huy động “một lực lượng đông đảo” để xét xử một vụ án đơn giản là điều không cần thiết. Vì vậy, để hợp với thực tiễn, cẫn có sự sửa đổi nguyên tắc TTDS trên và sửa đổi cả Hiến Pháp về cấn đề này. 3) Các quy định của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn a) Người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng trong thủ tục rút gọn chỉ cần gồm một thẩm phán. Bởi lẽ, một thẩm phán sẽ làm tăng sự chủ động, quyết đoán, giảm thời gian tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, một thẩm phán tiến hành tố tụng sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền. Muốn khắc phục được nhược điểm này, khi xây dựng thủ tục TTDS rút gọn cần chú ý tới việc xây dựng một cơ chế kiểm soát ràng buộc thẩm phán trong việc áp dụng thủ tục rút gọn và cơ chế trách nhiệm cá nhân. b) Thời hạn. Đúng như cái tên “rút gọn”, thời hạn trong thủ tục TTDS này bắt buộc phải được rút ngắn. Hiện nay, một vụ án thường kéo dài trong 4 tháng, đối với những vụ phức tạp thì được gia hạn không quá 2 tháng. Thời gian này là quá dài, không phù hợp với những vụ việc đơn giản. Vậy, với thủ tục TTDS rút gọn, thời gian trên cần được rút ngắn xuống chỉ còn 1 tháng từ ngày tòa án thông báo thụ lí vụ án. c) Thủ tục tố tụng *) Phiên tòa Tại phiên tòa, thủ tục TTDS rút gọn cần có sự giảm bớt các bước, sao cho phiên tòa trở thành phiên đối chấy để kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ trước khi có quyết định; Thẩm phán công bố lời khai, chứng cứ, tài liệu mà các bên đưa ra và chỉ xét hỏi thêm những điểm còn chưa rõ ràng. Nếu xét thấy cần thiết, thẩm phán cho đương sự tranh luận với nhau về chứng cứ. Nếu không có tranh luận, thẩm phán yêu cầu các bên đề xuất hướng giải quyết vụ án. Sau khi đề xuất, tùy từng trường hợp, thẩm phán có thể công bố ngay quyết định của tòa án về việc giải quyết vụ kiện hoặc tạm ngưng phiên tòa để cân nhắc quyết định và công bố sau khi có kết quả chính thức. Trần Thị Thúy Vân. Khóa luận tốt nghiệp. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam. HN-2010, tr.50. *) Sự vắng mặt của bị đơn. Nếu một bên đương sự không có mặt đối với loại việc kiện chứng cứ rõ ràng, 1 bên thừa nhận nghĩa vụ , Thẩm phán căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ ra quyết định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ và phải được tổng đạt cho đương sự. Quyết định này có hiệu lực thi hành nếu trong một thời gian nhất định không bị phản đối. *) Các quyết định của Tòa án. Việc ra các quyết định trong quá trình tố tụng cũng cần đơn giản hóa. Ví dụ, đối với quyết định áp dụng các biện pháp thu thập chứng cư theo quy định tại Bộ luật TTDS để lập hồ sơ vụ án mà không phải thực hiện đầy đủ theo thủ tục chung. *) Kháng cáo Có ý kiến cho rằng không được kháng cáo đối với các vụ việc đã được giải quyết bởi thủ tục tố tụng dân sự rút gọn. Mục đích của quy định này là giải quyết dứt điểm, hạn chế sự kéo dài không cần thiết của các đương sự. Tuy nhiên, nếu chấp nhận việc không cho kháng cáo thì sẽ vi phạm nguyên tắc xét xử, có thể quyền lợi đương sự không được bảo đảm. Vì vậy, vấn đề này, cần được suy nghĩ nghiêm túc hơn khi xây dựng thủ tục rút gọn ở nước ta hiện nay. Theo quan điểm cá nhân, chúng ta vẫn phải đảm bảo đầy đủ hai cấp xét xử, tuy nhiên phải có những quy định chặt hơn trong việc kháng cáo. Là các bản án, quyết định của Tòa án, nếu bị kháng cáo, kháng nghị mà hướng giải quyết vẫn như bản án sơ thẩm (đã được giải quyết bằng thủ tục TTDS rút gọn) thì bên kháng cáo sẽ bị phạt tiền. Có như vậy, các bên mới không lạm dụng quyền kháng cáo. *) Thiết lập các quy định giúp chuyển hóa từ thủ tục TTDS rút gọn sang thủ tục TTDS thường. Nếu thiết lập các quy định về thủ tục TTDS rút gọn thì đồng thời cũng phải thiết lập các quy định giúp chuyển hóa từ thủ tục rút gọn sang thủ tục thông thường. Điều này giúp tránh tình trạng một vụ việc đi vào bế tắc. Hiện nay, việc dân sự (thủ tục đơn giản hơn) muốn chuyển hóa thành vụ án dân sự (thủ tục phức tạp hơn) thì phải khởi kiện lại. Nếu thủ tục TTDS rút gọn được áp dụng thì cần có sự chuyển hóa linh hoạt tại bất cứ giai đoạn tố tụng nào, không nên bắt các bên phải khởi kiện lại như ở việc dân sự hiện nay. Các trường hợp cần có sự chuyển hóa như: + Quá trình giải quyết vụ việc dân sự thấy không đơn giản như ban đầu. + Bị đơn phản đối việc áp dụng thủ tục TTDS rút gọn (trường hợp này, cần cân nhắc xem sự phản đối có hợp lý không). + Đã có quyết định, bản án của thủ tục rút gọn, nhưng bản án, quyết định đó bị phản đối. 4) Yêu cầu chung của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn Xây dựng thủ tục TTDS rút gọn dù thế nào vẫn phải đạt mục đích của TTDS. Đó là giải quyết vụ án đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích vủa nhà nước, tập thể, công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giải quyết nhanh chóng hiệu quả các việc dân sự. Muốn việc áp dụng thủ tục TTDS rút gọn được thành công và có hiệu quả cao thì đội ngũ thẩm phán phải được nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ, có tư duy nhanh nhạy để quyết định vụ việc đó có nên áp dụng thủ tục rút gọn hay không. Ngoài ra, Tòa án cũng cần được đáp ứng các yêu cầu về cơ sở vật chất, không thể đòi hỏi việc rút ngắn về thời gian, giai đoạn tố tụng trong khi cơ sở vật chất không cho phép thực hiễn điều đó. Chính vì những yếu tố này mà thủ tục rút gọn đã không được quy định và áp dụng trong TTDS trước đây. Vì vậy, đáp ứng những yêu cầu chung trên là điều hết sức cần thiết. Lời kết Tóm lại, với sự phân tích ở trên, sự thiết lập những quy định về thủ tục TTDS rút gọn vào BLTTDS hiện nay là một vấn đề cần thiết, đáp ứng nhu cầu và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, để có thể đưa những quy định này vào luật và triển khai có hiệu quả trên thực tế, Nhà nước cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nhiều mặt. Đó là về năng lực chuyên môn và về cơ sở vật chất. Nếu những điều kiện này chưa chín muồi, chúng ta không nên vội vàng áp dụng các quy định rút gọn, nếu không, chính sự đơn giản của thủ tục này lại là nguyên nhân của nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tài liệu tham khảo Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2004. Trần Anh Tuấn. Luận án thạc sỹ luật học. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt . HN-2000.  Trần Thị Thúy Vân. Khóa luận tốt nghiệp. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam. HN-2010. Ngô Anh Dũng: Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút gọn trong pháp luật TTDS. Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2002. Trần Anh Tuấn. Thủ tục xét xử nhanh trong BLTTDS Pháp và yêu cầu xây dựng thủ tục rút gọn trong BLTTDSVN. Tạp chí dân chủ và pháp luật số 2/2004. Cao Hồng Sơn, Cần bổ sung thủ tục đơn giản vào BLTTDS. Tạp chí Tòa án nhân dân, Tháng 11/2010.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCách thức xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trong pháp luật Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan