Tiểu luận Cam kết của Việt Nam với WTO về lĩnh vực dịch vụ chứng khoán

MỤC LỤC

 

 

 

1. Sự cấp thiết gia nhập WTO của thị trường chứng khoán Việt Nam 4

1.1. Thực trạng TTCK VN trước khi gia nhập WTO 4

1.2. Vai trò của thị trường chứng khoán Việt Nam đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước 5

2. Những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán 6

2.1 Các cam kết với WTO về lĩnh vực chứng khoán 6

2.2 Lộ trình thực hiện cam kết 10

3. Tác động của những cam kết với WTO đến TTCK VN 13

4. Giải pháp nâng cao hoạt động dịch vụ chứng khoán của VN 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cam kết của Việt Nam với WTO về lĩnh vực dịch vụ chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính đến 01/10/2010. + 5 CTCK nước ngoài đồng thời có văn phòng đại diện và cổ phần tại CTCK VN. Bắt đầu 2011, trào lưu “săn mua” CTCK VN của NĐT nước ngoài diễn ra khá “nóng” do TTCK không sôi động, khiến giá mua các CTCK rất hời, cùng với việc từ đầu năm 2012, NĐT ngoại được phép thành lập CTCK 100% vốn nước ngoài tại VN (theo Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg). Ngày 24/02/2011, CTCK Nikko Cordial (Nhật Bản) trở thành cổ đông chiến lược của CTCK Dầu khí PSI với việc CTCK Nikko Cordial mua 14,9% cổ phần của PSI. Trước đó, Công ty chứng khoán và đầu tư Hàn Quốc đã mua gần 49% cổ phần của CTCK Gia Quyền (EPS); CTCK Hướng Việt chuyển nhượng 48,33% cổ phần cho Morgan Stanley (Singapore), CTCK Nhấp&Gọi bán 49% cổ phần cho Công ty TNHH CK&Đầu tư Golden Bridge (Hàn Quốc); CTCK Sài Gòn bán cổ phần cho Tập đoàn Daiwa Securities (Nhật Bản) và Ngân hàng ANZ; CTCK Việt Nam bán 49% cho Ngân hàng RHB (Malaysia)… Một số thương vụ khác cũng đang được xúc tiến, điển hình là SBI Securities (Nhật Bản) đang thương thảo mua 20% cổ phần của CTCK FPT. Vì thời điểm NĐT nước ngoài được phép thành lập CTCK 100% vốn nước ngoài tại VN đang cận kề. Bên cạnh đó, nhiều CTCK thua lỗ trong năm 2010 tiếp tục đối mặt với khó khăn do TTCK đang liên tục giảm điểm. Điều này mở ra cơ hội cho NĐT ngoại dễ dàng đàm phán và đi đến quyết định mua CTCK VN với giá khá hời. Tác động của những cam kết với WTO đến TTCK VN Một số đặc điểm đáng chú ý của TTCK VN: Thuận lợi của việc gia nhập WTO đối với TTCK VN là làm tăng trưởng chu chuyển vốn, trong đó đầu tư nước ngoài tăng đáng kể. Cùng với sự phát triển của các NĐT là doanh nghiệp (bảo đảm về năng lực tài chính, có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng khoán...) thì sự phát triển của các NĐT cá nhân rất đông (chiếm hơn 60% số nhà đầu tư) và NĐT nước ngoài cũng quan tâm đầu tư vào TTCK nước ta ngày càng nhiều (bao gồm cả những NĐT có tổ chức và NĐT cá nhân). Theo tính toán của một số chuyên gia kinh tế thì ước tính vốn đầu tư gián tiếp của các NĐT nước ngoài tại Việt Nam hiện đã lên đến 4 tỉ USD và còn tiếp tục tăng thêm trong thời gian tới. TTCK phát triển, nhất là thị trường sơ cấp IPO (nơi cổ phiếu của doanh nghiệp đã cổ phần hóa được đưa lên sàn. IPO: Initial Public Offering – giá chào bán khởi đầu của một loại cổ phiếu trên sàn), trong đó có việc cổ phần hóa các công ty có yếu tố vốn nước ngoài sẽ có điều kiện tăng huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh trong nước, và đương nhiên tác động tích cực trở lại cho sự phát triển của TTCK. Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cũng qua đó nhiều người được hưởng từ “một vốn, bốn lời” thậm chí tới 10 hoặc hơn 10 lời. Tình hình sôi động của TTCK thời gian qua phản ánh hiện tượng kinh tế tốt lành là: (1) nền kinh tế Việt Nam đã và đang tăng trưởng và có xu hướng tiếp tục tăng trưởng; (2) vốn cho đầu tư phát triển được huy động qua kênh TTCK và vẫn còn điều kiện phát triển qua kênh này trong thời gian tới, do nhiều doanh nghiệp lớn (trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước) tiến hành cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, thực hiện niêm yết tại các CTCK. Tuy nhiên, việc phát triển “nóng” của TTCK cũng sẽ phát sinh 2 vấn đề cần phải quan tâm: (1) việc các NĐT nước ngoài có điều kiện thao túng, dễ gây rủi ro cho TTCK trong nước; (2) cũng đã tác động khá mạnh đến thị trường bất động sản, đẩy giá nhà, đất lên cao. Bên cạnh đó, hiện tượng “bong bóng” sẽ làm ảnh hưởng đến yếu tố an toàn cho những NĐT, nhất là các NĐT cá nhân và cả sự an toàn của TTCK bị ảnh hưởng. Khi TTCK sụp đổ sẽ phải mất nhiều năm mới có thể hồi phục, kéo theo nhiều khó khăn không chỉ cho hệ thống tài chính, ngân hàng mà cả đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại cổ phần sau quá trình tái cơ cấu đã làm ăn tốt, đang ổn định và phát triển, tiếp tục tái cơ cấu để tăng cường năng lực cạnh tranh và hội nhập theo các cam kết của WTO, trong đó có việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Theo quy định tại Nghị định số 141 ngày 22/11/2006 của Chính phủ “Về ban hành danh mục vốn pháp định của tổ chức tín dụng” thì đến hết năm 2007 vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nước ta phải đạt 1000 tỉ đồng và đến năm 2010 phải đạt 3000 tỉ đồng. Để thực hiện được việc này, các ngân hàng thương mại phải tìm mọi cách để tăng vốn, trong đó bao gồm cả việc phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng (phát hành mới, phát hành thêm, thưởng cuối năm bằng cổ phiếu) và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho cổ phiếu ngân hàng luôn “nóng”. Có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu tư chứng khoán theo 2 hướng: (1) các NĐT cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng khoán (2) những người khác (bao gồm cả CTCK của ngân hàng lại vay tiền của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ các ngân hàng thương mại cho các CTCK ngân hàng vay để kinh doanh chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2006 là 2,6%). Qua đây cũng phần nào tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Nếu không có sự kiểm soát kịp thời và hiệu quả thì sẽ dẫn đến rủi ro và nếu rủi ro lớn sẽ ảnh hưởng sự an toàn của hệ thống ngân hàng. TTCK VN năm 2006 Năm 2006 là năm TTCK VN được đánh giá là thời kỳ “bùng nổ” kể từ ngày khai trương thị trường năm 2000. Cụ thể là các kỷ lục về chỉ số chứng khoán cũng như giá trị giao dịch đã liên tục được phá vỡ trong các kỳ giao dịch của năm. Chỉ số giá chứng khoán VN-Index của phiên giao dịch cuối cùng của năm (29/12) tại TTGDCK TPHCM ở mức 751,77 điểm, tăng mạnh so với mức 307,5 điểm của phiên giao dịch cuối cùng năm 2005. Trước những diễn biến của chỉ số VN-Index, số lượng công ty niêm yết cũng tăng mạnh, đến 31/12/2006, đã có 106 công ty niêm yết và 2 chứng chỉ quỹ tại TTGDCK TPHCM, tăng 74 công ty và 1 chứng chỉ quỹ so với năm 2005. Tại TTGDCK Hà Nội, số lượng công ty cổ phần đăng ký giao dịch cũng tăng nhanh. Tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính theo giá thị trường đạt 221.156 tỷ đồng, chiếm 22,7% GDP của năm 2006, tăng 20 lần so với cuối năm 2005. Ngoài ra, việc niêm yết trái phiếu cũng tăng đáng kể, đến 31/12/2006 có gần 400 loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị trên 70.000 tỷ đồng, bằng 7,7% GDP của năm 2006. Sự tăng trưởng của TTCK còn phải kể đến các NĐT. Sự tham gia tích cực, lành mạnh có tính chuyên nghiệp của các NĐT đã tạo nên hình ảnh đẹp cho TTCK. Tuy nhiên, đối với một TTCK còn non trẻ như VN, tính chuyên nghiệp của thị trường chưa cao do NĐT cá nhân tham gia thị trường chiếm đa số (khoảng 99%), thông thường đối tượng này trình độ hiểu biết về chứng khoán còn hạn chế. Nguồn: FPTS Nếu tháng 5/2006, khi chỉ số VN-Index giảm xuống mức thấp kỷ lục, dưới 300 điểm, thì cơn sốt chứng khoán đã lên đến cực điểm vào trung tuần tháng 12/2006 đã kéo chỉ số VN-Index lên mức kỷ lục, vượt ngưỡng 800 điểm. Khó có thể lý giải ngay lập tức sự lên xuống của chứng khoán, bởi đây là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Song có thể dễ dàng nhận thấy, TTCK đã có sự tham gia tích cực của các NĐT tư nhân. Năm 2006, số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường tăng hơn 3 lần so với cuối năm 2005, đến hết năm 2006 có khoảng 100.000 tài khoản giao dịch tại các CTCK, tăng mạnh so với 31.300 tài khoản của năm 2005. Trong đó là 1.700 tài khoản (chiếm 1,7%) của NĐT nước ngoài, bao gồm một số NĐT quốc tế như JP Morgan, MerrII Lynch, Citigroup… Tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu niêm yết của NĐT nước ngoài khoảng 25-30%. Giá trị giao dịch chứng khoán (bao gồm cả trái phiếu) của NĐT nước ngoài năm 2006 cũng tăng cao so với năm 2005. Cụ thể là giá trị giao dịch mua năm 2006 khoảng 17.000 tỷ đồng (năm 2005 khoảng 3.000 tỷ đồng), giá trị giao dịch bán năm 2006 khoảng 9.500 tỷ đồng (năm 2005 khoảng 2.900 tỷ đồng). NĐT nước ngoài vào Việt Nam thông qua các Quỹ đầu tư chứng khoán ngày càng phổ biến. Đến cuối năm 2006, có 23 Quỹ với quy mô vốn đầu tư ước đạt 2,3 tỷ USD và gần 50 tổ chức đầu tư nước ngoài mở tài khoản hoặc ủy thác đầu tư trên TTCK. Theo đánh giá của các chuyên gia thị trường, ở một chừng mực nào đó, sự thiếu chuyên nghiệp của các NĐT này đã làm cho TTCK đôi khi lên “cơn sốt nóng - lạnh” thất thường. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý và được coi là thành công của TTCK Việt Nam trong năm 2006 là đã và đang thu hút được nhiều NĐT chuyên nghiệp nước ngoài. Theo ước tính, các tổ chức, NĐT nước ngoài đã đầu tư vào thị trường hàng trăm  triệu USD - mức vốn mà theo nhiều NĐT có thể có những tác động rất mạnh đến các giao dịch trên thị trường. Tác động của WTO đến TTCK Việt Nam Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bùng nổ của TTCK Việt Nam năm 2006 xuất phát từ các sự kiện kinh tế chính trị quan trọng. Trong đó nguyên nhân có tác động sâu sắc và lâu dài là sự kiện Việt Nam chính thức được gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như sự kiện tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC. Cả hai sự kiện này đã tạo được ấn tượng tốt đối với các NĐT nước ngoài và đó là tín hiệu cho những làn sóng đầu tư trực tiếp và cả gián tiếp hứa hẹn sẽ đổ vào Việt Nam. Việc Việt Nam vừa được xếp trong Top những nước có môi trường đầu tư tốt nhất năm 2006 đã tạo cơ sở ban đầu thuận lợi, củng cố niềm tin cho các đối tác nước ngoài đã, đang và sẽ chuẩn bị đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân cơ bản như sau: Thứ nhất, số lượng các công ty niêm yết tăng mạnh trong năm 2006, đặc biệt là vào thời điểm cuối năm. Chỉ riêng tháng 12, số lượng công ty niêm yết tại TTGDCK TP HCM đã lên tới 50 công ty. Nguyên nhân của tình hình này do thực hiện việc cắt giảm ưu đãi thuế thu nhập cho doanh nghiệp niêm yết kể từ ngày 1/1/2007 đã tạo ra một làn sóng lên sàn ồ ạt của các công ty cổ phần. Thứ hai, cùng với sự bùng nổ về số lượng cổ phiếu niêm yết, số lượng các CTCK và công ty quản lý quỹ mới thành lập. Hai định chế tài chính này đã gấp rút nộp hồ sơ xin cấp phép trước thời hạn Luật Chứng khoán có hiệu lực (1/1/2007) để tranh thủ áp dụng các điều kiện quy định về vốn đối với CTCK và công ty quản lý quỹ. Những sự kiện nổi bật của TTCK VN năm 2006 Luật Chứng khoán chính thức được thông qua Ngày 23/6/2006, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XI, Luật Chứng khoán chính thức được thông qua với 85,6% số phiếu bàn tán thành. Điều quan trọng nhất trong luật chứng khoán là đã xây dựng một thị trường làm định hướng cho sự phát triển của các thành phần tham gia trong vòng ít nhất 4 năm nữa. Luật Đầu tư có hiệu lực từ 1/7/2006 Một trong những tiến bộ vượt bậc của Luật Đầu tư là đã thay đổi một cách căn bản về quan điểm hạn chế đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam của đối tượng NĐT nước ngoài. Tinh thần của Luật đầu tư chia các lĩnh vực trong nền kinh tế thành 3 loại: lĩnh vực cấm đầu tư; lĩnh vực hạn chế đầu tư và lĩnh vực đầu tư không hạn chế. Cắt giảm ưu đãi thuế cho Doanh nghiệp niêm yết từ ngày 1/1/2007 Chính sách này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lên sàn của nhiều doanh nghiệp. Từ đây, làn sóng lên sàn của doanh nghiệp ngay trong năm 2006 diễn ra hết sức mạnh mẽ. TTCK đã được nhìn nhận như một cơ hội tốt dành cho các doanh nghiệp muốn hoạt động minh bạch và hiệu quả. Bùng nổ CTCK và công ty quản lý quỹ Sau khi dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Chứng khoán được công bố vào tháng 8/2006 với dự kiến nâng mức vốn điều lệ của một CTCK lên tối thiểu 170 tỷ đồng và của một công ty quản lý quỹ lên tối thiểu 25 tỷ đồng, hàng loạt cá nhân và tổ chức đã gấp rút nộp hồ sơ xin thành lập 2 loại công ty này để được áp dụng tiêu chí vốn ở mức thấp hơn theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP. Việt Nam trở thành thành viên của WTO Ngày 7/11/2006 là ngày Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên thứ 150 của WTO. Liên quan đến TTCK, các cam kết tại WTO của Việt Nam là cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập CTCK 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO. Hiện nay, tỷ lệ giới hạn đầu tư của nhà ĐTNN vào công ty chứng khoán là 49%. Đối với các tổ chức nước ngoài nói chung, việc Việt Nam gia nhập WTO là một thông điệp cho thấy, Việt Nam thực sự mở cửa nền kinh tế và chấp nhận theo cuộc chơi toàn cầu. Đây là điều kiện tiên quyết để họ đến với Việt Nam. Tổng thống Mỹ George W. Bush thăm TTGDCK TP. Hồ Chí Minh Cùng với việc tham dự Hội nghị APEC lần thứ 14 và thăm chính thức Việt Nam, ngày 20/11/2006, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã đến thăm TTGDCK TP. HCM và gặp gỡ với lãnh đạo nhiều Doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Việc thăm sàn chứng khoán Việt Nam của Tổng thống Bush đã làm dấy lên sự hưng phấn của giới đầu tư trong và ngoài nước với kỳ vọng dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ chảy mạnh vào Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên đưa cổ phiếu lên giao dịch tại Mỹ Công ty cổ phần Cavico Việt Nam đã áp dụng hình thức “sáp nhập nghịch” để yết giá cổ phiếu của Công ty trên thị trường Pink Sheets của Mỹ. Mặc dù Pink Sheets chỉ là dịch vụ báo giá điện tử, nhưng việc Cavico Việt Nam tham gia thị trường này cũng dấy lên làn sóng “tò mò” của dư luận. Một cách bài bản hơn, nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Kinh Đô, Gemadept, Vinamilk sau một thời gian phát triển, hiện có quy mô ngang tầm với các doanh nghiệp trong khu vực, đã lên kế hoạch đưa cổ phiếu sang niêm yết tại TTCK nước ngoài. Hiện nay, quan điểm của UBCK Việt Nam là không hạn chế. TTCK VN năm 2007 Diễn biến của thị trường trong năm 2007 khiến các NĐT cảm thấy bất ngờ và trở nên bị động trong nhiều tình huống. Đầu năm, thị trường tăng trưởng mạnh mẽ nhưng sau đó đã đảo chiều và đi xuống nhanh chóng. Ngay cả khi các doanh nghiệp niêm yết làm ăn tốt, các chỉ tiêu tài chính đều đạt được vượt kế hoạch nhưng giá cổ phiếu vẫn giảm. Sự phát triển của TTCK tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Sự thiếu ổn định của thị trường là vấn đề đáng được quan tâm. Cụ thể, sau một thời gian lên tới “đỉnh”, thị trường có dấu hiệu suy giảm. Đỉnh điểm, ngày 30.7, giá trị giao dịch cả phiên trên sàn TP Hồ Chí Minh sụt giảm xuống mức thấp kỷ lục trong vòng nửa năm qua với hơn 200 tỷ đồng được giao dịch. Trên thị trường OTC, sau một thời gian tăng trưởng chóng mặt, nhiều cổ phiếu đã mất giá từ 40-50%. Thậm chí, cổ phiếu trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí cũng chịu chung số phận. Nguyên nhân là do thị trường có sự điều chỉnh sâu, nguồn cung từ các đợt đấu giá IPO là khá lớn. Trong hoàn cảnh như vậy, nhiều NĐT hy vọng trong năm 2008, thị trường OTC sẽ khởi sắc hơn khi chính thức được quản lý theo phương thức mới tại TTGDCK Hà Nội. Tuy nhiên, chính sự trồi sụt thất thường của thị trường đã làm cho NĐT trưởng thành hơn, góp phần sàng lọc NĐT. Nhận thức của nhiều NĐT đã thay đổi, từ chỗ đầu cơ lướt sóng sang đầu tư dài hạn. Nguồn: FPTS Xu hướng xã hội hoá cổ đông đang diễn ra ngày một mạnh mẽ, nhiều doanh nghiệp trước đây chỉ có sự góp vốn trong phạm vi gia đình thì nay đã trở thành doanh nghiệp đại chúng với hàng vạn cổ đông như: SSI, Sacombank… Những doanh nghiệp lớn khác như Đạm Phú Mỹ, Bảo Việt, PVI, FPT… cách đây một vài năm vẫn là những doanh nghiệp 1 chủ (Nhà nước) thì nay đã là doanh nghiệp cổ phần với hàng nghìn cổ đông. Ngoài ra, đã có một loạt doanh nghiệp cổ phần đầu tiên có giá trị thị trường trên 1 tỉ USD như: ACB, Sacombank, FPT, Nhiệt điện Phả Lại, Vinamilk... Chính xu hướng này đang góp phần quan trọng chuyển dần sang nền kinh tế cổ phiếu và người dân – Nhà đầu tư (NĐT) được trở thành những người chủ thực sự. Bên cạnh đó, TTCK không chỉ hiện diện tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh mà đã trải dài đi khắp các địa phương trên cả nước thông qua hàng loạt chi nhánh, đại lý nhận lệnh của các CTCK. Đáng mừng hơn cả là hầu hết trong số hơn 200 DN niêm yết tính đến thời điểm này đều hoạt động kinh doanh có hiệu quả thông qua TTCK.  Năm 2007 cũng là năm chứng kiến nhiều vi phạm trên TTCK. Về phía NĐT, những lỗi phổ biến như cổ đông VIP giao dịch không công bố thông tin, nhập lệnh sai của CTCK… Về phía các công ty nước ngoài, công ty Indochina Capital Corporation (ICC) bị phạt 10 triệu đồng vì vi phạm quy định về giao dịch nội bộ do đã giao dịch cổ phiếu VNM trên sàn TP.HCM mà không báo cáo theo quy định; Citigroup Global Ltd bị cảnh cáo về việc giao dịch cổ phiếu NKD đạt tỷ lệ sở hữu 5,48% mà không công bố thông tin. Ngoài ra, việc có quá nhiều các CTCK hoạt động tại một thị trường khá mới mẻ như VN đã gây lo ngại cho các nhà quản lý. Có nhiều công ty đã bị xử phạt bởi lỗi vi phạm nhập lệnh.        Những sự kiện nổi bật của TTCK năm 2007 Quy mô thị trường tăng mạnh. Nếu như năm 2006, vốn hóa của thị trường chứng khoán chỉ chiếm khoảng 22% GDP thì tính đến hết năm 2007 đã đạt gần 500.000 tỷ đồng, bằng khoảng 43,7% GDP của năm 2007. Dựa trên những kết quả mà TTCK đạt được trong năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 128/2007/QĐ-TTg điều chỉnh kế hoạch định lượng về phát triển TTCK đến năm 2010, hướng đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu đến năm 2020, tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt 50% GDP, năm 2020 con số này đạt 70% GDP. Sự tăng trưởng vượt bậc của thị trường còn thể hiện ở con số hơn 330.000 tài khoản so với con số chỉ hơn 100.000 tài khoản năm ngoái. Cuối năm 2006, chỉ có khoảng 1.000 tài khoản của NĐT nước ngoài thì cả năm nay con số đã lên tới 7.000. Tổng số tiền mà khối ngoại đầu tư vào thị trường là 3 tỷ USD. 2. VN-Index lập kỷ lục lần đầu tiên trong lịch sử 7 năm hình thành thị trường chứng khoán, vào ngày 12/03/2007 VN-Index đạt mốc 1170,67 điểm. 3. Chỉ thị 03/2008/CT-NHNN về khống chế luồng vốn tín dụng từ kênh dẫn vốn ngân hàng sang TTCK ở mức 3%. Hạn mức này đã buộc các ngân hàng phải dừng hoạt động cho vay và thực hiện thu hồi nợ khiến nhiều NĐT thiếu vốn. 4. Bùng nổ các đợt IPO lớn. Năm 2007 đánh dấu tiến trình cổ phần hóa chuyển biến về chất với việc cổ phần hóa nhiều tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Điển hình là IPO của Bảo Việt, PVFC, Đạm Phú Mỹ, Vietcombank… trong đó, IPO của Vietcombank có ảnh hưởng lớn nhất và được giới đầu tư cả trong và ngoài nước quan tâm nhất. 5. Trung tâm GDCK TPHCM chính thức thành Sở GDCK TPHCM. Cùng với việc chuyển thành Sở GDCK, cơ quan này chính thức áp dụng khớp lệnh liên tục tại HOSE từ ngày 30/07/2007. Đây là bước đột phá của thị trường tập trung. Trước kia HOSE chỉ có 2 đợt khớp lệnh định kỳ và hạn chế của phương thức khớp lệnh định kỳ là bảng điện tử không hiển thị hết cung cầu cổ phiếu, dễ bị làm giá. Với việc khớp lệnh liên tục, cung cầu sẽ thật hơn và biên độ dao động giá cũng mạnh hơn, tạo tính thanh khoản cho thị trường. 6. Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Luật ra đời đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho TTCK VN phát triển với nhiều thành viên như: CTCK, công ty niêm yết, công ty quản lý quỹ đã được nâng cấp. Bên cạnh đó, một điểm có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp VN là quy định về nghĩa vụ công bố thông tin đối với công ty đại chúng. TTCK VN năm 2008 Nếu như năm 2006-2007, TTCK VN phát triển bong bóng với tốc độ nhất nhì thế giới thì sang năm 2008, thị trường cũng đứng đầu về tốc độ suy giảm. VN-Index mở đầu phiên giao dịch năm 2008 đạt 921,07 điểm, tính đến ngày 29/12/2008, VN-Index đang ở mức 308 điểm, bằng 1/3 so với đầu năm. VN-Index đã có lúc rơi xuống 286,87 điểm vào ngày 10/12. Trong khi đó, mức thấp nhất của HASTC-Index là 97,61 điểm vào ngày 27/11/2008. Gía trị vốn hóa thị trường tính đến hết năm 2008 chỉ còn 13 tỷ USD, tương đương 17% GDP. VN-Index mất gần 70% giá trị. Nguồn: FPTS UBBCK NN đã có tổng cộng 4 lần điều chỉnh biên độ chứng khoán. Lần 1 (27/03/2008): Giảm biên độ dao động trên hai sàn từ 5% xuống 1% đối với HOSE và 10% xuống 2% đối với HASTC. Lần 2 (07/04/2008): Nới biên độ mỗi sàn thêm 1%: HOSE 2% và HASTC 3%. Lần 3 (19/06/2008): Tiếp tục nới biên độ HOSE lên 3%, HASTC lên 4%. Lần 4 (18/08/2008): Trả lại biên độ cũ cho HOSE 5%, nới biên độ HASTC lên 7%. Trong 3 tháng, khối NĐT nước ngoài liên tục bán ròng cổ phiếu và trái phiếu trên cả hai sàn Hà Nội và TP.HCM. Nếu trước đây, việc khối ngoại luôn đi ngược thị trường (mua vào khi thị trường giảm và bán ra khi thị trường tăng) sẽ góp phần cân bằng lại thị trường thì nay, khối ngoại liên tục bán ra bất kể thị trường tăng hay giảm. Trước tình hình thế giới lâm vào khủng hoảng chung, giá các cổ phiếu tại chính quốc trở nên rẻ hơn so với thị trường Việt Nam, các tổ chức nước ngoài có xu hướng bảo toàn vốn và rút về nước. Tính riêng 3 tháng cuối năm, khối ngoại bán ròng hơn 1730 tỷ đồng cổ phiếu và hơn 27000 tỷ đồng trái phiếu. Trước hành động bán ròng của khối ngoại, giới đầu tư trong nước cũng liên tục bán ra cổ phiếu khiến VN-Index xuống 286,87 điểm ngày 10/12/2008. Một sự kiện thú vị được phát hiện trong cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu là lần đầu tiên TTCK VN có diễn biến cùng chiều với TTCK Mỹ trong một thời gian khá dài kể từ ngày 15/09/2008. NĐT VN thay vì nhìn vào báo cáo tài chính, chỉ số VN-Index đã chuyển sang quan tâm đặc biệt đến diễn biến lên xuống của chỉ số chứng khoán Mỹ và chỉ số chứng khoán toàn cầu. Hiện tượng “Mỹ hóa” TTCK này được giải thích là cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ có ảnh hưởng lớn đến các TTCK toàn cầu, trong đó có VN, nhất là trong bối cảnh VN đã gia nhập WTO. Thị trường trái phiếu chuyên biệt chính thức đi vào hoạt động ngày 02/06/2008 đã thể hiện rõ tầm quan trọng của mình với khối lượng và giá trị giao dịch luôn chiếm từ 50% tổng giao dịch của HASTC trở lên. Trái phiếu chính phủ là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Trong 3 năm qua, tỷ lệ lãi trái phiếu chính phủ VN luôn cao hơn mặt bằng quốc tế. Do vậy trái phiếu Chính phủ VN đã thu hút được sự quan tâm của nhiều NĐT nước ngoài, đặc biệt là các quỹ đầu tư trái phiếu quốc tế. Bên cạnh đó, thị trường UPCOM đã có khung pháp lý. Ngày 20/11/2008, Bộ Tài chính đã ban hành Quy chế Tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết (gọi tắt là thị trường UPCOM) của TTGDCK Hà Nội HaSTC. Việc khởi động thị trường UPCOM được kỳ vọng sẽ từng bước thu hẹp thị trường tự do, nâng cao tính minh bạch, công khai và an toàn trong các giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc vận hành thị trường đăng ký giao dịch vẫn gặp trở ngại lớn trong việc xác định tỷ lệ sở hữu của NĐT nước ngoài. TTCK VN năm 2009 Nếu như năm 2008 được coi là một năm rất đáng quên khi các chỉ số liên tục sụt giảm thì bước sang năm 2009, TTCK VN đã có sự phục hồi tương đối ấn tượng, để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển của TTCK. Những kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập: phiên giao dịch ngày 24/02/2009, VN-Index đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, HNX-Index lùi về dưới mốc 100 điểm khi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 78,06 điểm. Tuy nhiên, bước sang tháng 03/2009, các NĐT đã lấy lại được niềm tin khi TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11/2008: VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 30/06/2009, VN-Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%), HNX-Index tăng 44,57 điểm (42,66%) so với thời điểm kết thúc năm 2008. Đây là một bước tiến dài của TTCK trong nước khi VN-Index đã đạt tốc độ tăng lớn thứ 8 trong tổng số 89 chỉ số chứng khoán quan trọng trên thế giới khi tăng được 46% so với thời điểm đầu năm 2009. Kỷ lục về khối lượng giao dịch tại sàn HOSE được thiết lập vào ngày 10/06 với 101.774.520 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển nhượng, con số tương tự tại HNX là 56.522.170 cổ phiếu. Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh mẽ với nhiều kỷ lục về giá trị và khối lượng giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày 22/10, TTCK vươn tới đỉnh điểm của đợt sóng thứ 2 là mức 624,10 điểm. Đây cũng là mức cao nhất của thị trường sau 394 phiên giao dịch kể từ ngày 14/03/2008. Trong khoảng thời gian này, thanh khoản liên tục đạt kỷ lục trên cả hai sàn. Đối với sàn HOSE, phiên giao dịch ngày 23/10 được coi là "siêu thanh khoản" khi lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay cả về khối lượng và giá trị giao dịch với hơn 136 triệu đơn vị được chuyển nhượng, tương ứng giá trị giao dịch lên đến 6,414 nghìn tỷ đồng; sàn HNX đạt kỷ lục với hơn 67,23 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng cùng 3,04 nghìn tỷ đồng được giải ngân. TTCK tăng trưởng mạnh mẽ, nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành điểm sáng ấn tượng khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á. Diễn biến của VN-Index trong năm 2009 N Nguồn: FPTS Năm 2009 cũng để lại những ấn tượng mạnh mẽ về các dòng vốn vào - ra thị trường. Các chuyên gia đều lên tiếng khẳng định: một trong những nguyên nhân khiến thị trường "nóng" là do khối các CTCK "tung" các đòn bẩy tài chính hỗ trợ NĐT. Khảo sát tại các CTCK mới hay, kể từ khi chứng khoán hồi phục, nhằm gia tăng lợi nhuận, hầu hết CTCK đều phối hợp với một hay một vài đối tác tài chính để hỗ trợ vốn cho các NĐT. Tại một số CTCK, tỷ lệ sử dụng đòn bẩy có thể đạt 100-200%. Hình thức hỗ trợ rất đa dạng và thông thoáng, NĐT vốn ít thì được cầm cố từ 40-70% giá trị tiền hay cổ phiếu trong tài khoản để mua tiếp cổ phiếu. Hàng nghìn NĐT đã liên tiếp quay vòng đồng tiền bằng vay mượn nhằm gia tăng lợi nhuận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCam kết của việt nam với wto- Lĩnh vực dịch vụ chứng khoán.doc
Tài liệu liên quan