Tiểu luận Cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam với hàng nông sản khi gia nhập WTO và ảnh hưởng

Nội dung chính:

Lời mở đầu

A. Cơ sở lý thuyết.

I. Tổng quan về WTO.

II. Khái niệm hàng nông sản.

III. Các nguyên tắc của WTO về mở cửa thị trường hàng nông sản.

B. Nội dung cam kết mở cửa thị trường đối với thương mại hàng nông sản của Việt Nam

I. Thực trạng thị trường hàng nông sản Việt Nam trước khi gia nhập Wto.

II. Cam kết mở cửa thị trường đối với thương mại hàng nông sản của Việt Nam

1. Giới thiệu chung về Cam kết mở cửa thị trường nông sản.

2. Cam kết WTO về nhóm lương thực

3. Cam kết WTO về nhóm rau quả

4. Cam kết WTO về nhóm cây công nghiệp

5. Cam kết về trợ cấp nông nghiệp

6. Cam kết về biện pháp bảo hộ nông nghiệp phi thuế

C - Đánh giá cơ hội và thách thức của hàng nông sản khi Việt Nam là thành viên WTO.

I. Cơ hội.

II. Thách thức

III. Giải pháp

Phần kết luận

 

 

docx32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3216 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam với hàng nông sản khi gia nhập WTO và ảnh hưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông sản(100%) + Giảm thuế 500 dòng( 42%), thịt, rau quả, nông sản chế biến + Không thay đổi: 535 dòng (45%) : Gia súc sống, cây, con giống, nông sản thô như gạo, ngô, lạc, sắn, hồ tiêu, điều… + Tăng thuế: 150 dòng(13%): Thuế ngoài hạn ngạch + Các sản phẩm chế biến (MFN 40-50%) bị giảm nhiều hơn so với nông sản thô + Nhóm giảm nhiều: Thịt lợn, thịt bò, sữa, rau quả ôn đới, quả có múi; nông sản và thực phẩm chế biến + Nhóm giảm ít: gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều. Cam kết về các biện pháp phi thuế quan: Việt Nam đã đưa ra các cam kết liên quan đến các biện pháp hạn ngạch thuế quan, các biện pháp quản lý chuyên ngành nông nghiệp. Bãi bỏ các biện pháp phi thuế mang tính hạn chế định lượng nhập khẩu, trừ biện pháp sau đây: Hạn ngạch thuế quan ( 4 mặt hàng): + Đường: 55000 tấn, thuế trong hạn ngạch: đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuế ngoài hạn ngạch 85%, mức tăng hàng năm 5%/ năm + Trứng gia cầm: 30000 tá, thuế trong hạn ngạch:40%, thuế ngoài hạn ngạch 80%, mưacs tăng hàng năm 5%/ năm. + Lá thuốc lá: 31000 tấn, thuế trong hạn ngạch 30%, thuế ngoài hạn ngạch 80-90%. Mức tăng hàng năm 5%/ năm. + Muối: 150000 tấn, thuế trong hạn ngạch: 10-30%, thuế ngoài hạn ngạch 60%, mức tăng hàng năm 5%/ năm. Quản lí chuyên ngành nông nghiệp: + Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm: văn phòng SPS được thành lập, hình thành mạng lưới SPS, quy chế, kế hoạch hành động SPS, hoạt động theo quy ché hiện hành. + Quản lí chuyên ngành: Giống cây trông, giống vật nuôi, thuốc và nguyên liệu thuốc bảo vệ thực vật, thuốc và nguyên liệu thuốc thú y, phân bón lâm nghiệp, động thực vật hoang dã, quý hiếm: Tiếp tục thực hiện do các quy định hiện hành đã dựa trên tiêu chuẩn, chất lượng không hạn chế định lượng nhập khẩu Quyền đàm phán ban đầu (IRN) trong quá trình thực hiện cam kết, trong một số trường hợp nhất định, trong một số trường hợp nhất định không lường trước được, Việt Nam tăng thuế cao hơn mức cam kết. Trong trường hợp đó, Việt Nam phải đàm phán trước với những nước dành được quyền đàm phán ban đầu ( tên những nước đó được ghi bên cạnh mỗi dòng sản phẩm trong biểu cam kết). Đối với Việt Nam, Cam kết chung mở cửa thị trường hàng nông sản cụ thể như sau: Về mức cam kết giảm thuế chung: Việt Nam đã cam kết cắt giảm thuế bình quân là 10,6% so với MFN hiện hành. Về mức giảm thuế đối với từng nhóm nông sản: • Các loại nông sản chế biến (như thịt, sữa, rau quả chế biến, thực phẩm chế biến, quả ôn đới, và quả có múi) phải giảm nhiều hơn so với nông sản thô (do những sản phẩm chế biến này vào thời điểm đàm phán gia nhập WTO Việt Nam đang áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cao); • Các loại nông sản thô (gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều…): mức thuế nhập khẩu những sản phẩm này giảm rất ít hoặc không giảm. Về thời gian cắt giảm: Việt Nam cam kết cắt giảm dần các loại thuế nhập khẩu đối với nông sản trong thời gian từ 3-5 năm kể từ ngày gia nhập WTO (11/1/2007). Tức là việc cắt giảm sẽ phải hoàn thành vào 2009-2012 tùy theo sản phẩm. Mức giảm thuế sẽ được chia đều cho mỗi năm trong lộ trình cắt giảm. Bảng: Cơ cấu cam kết về thuế đối với các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam Cơ cấu Số dòng thuế Các sản phẩm chính Tổng số dòng thuế nông sản 1.185 Số dòng giảm so với MFN 500 Thịt trâu bò, thịt lợn, rau, quả, hoa, toàn bộ nông sản chế biến… Số dòng giữ nguyên 535 Động vật sống, giống cây trồng, gạo, chè, dầu TV nguyên liệu, lông, da động vật, kén tằm, lanh, gai… Số dòng tăng so với MFN 150 Chủ yếu là thuế ngoài hạn ngạch của các mặt hàng: đường ăn, trứng gia cầm, lá thuốc lá (NHN), thịt gia cầm, thuốc lá, xì gà… Cam kết WTO về nhóm lương thực Đối với nhóm lương thực, Việt Nam đã có cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại khác nhau, quan trọng nhất là: • Cam kết gia nhập WTO; và • Cam kết trong khuôn khổ khu vực ASEAN và các đối tác của ASEAN. Cam kết về thuế nhập khẩu đối với nhóm lương thực thể hiện trong Bảng dưới đây. Bảng: Tóm tắt các cam kết thuế đối với sản phẩm lương thực theo WTO Mã số HS Sản phẩm Thuế suất hiện hành (2007) Cam kết WTO Thuế suất ban đầu Thuế suất cuối cùng Năm thực hiện 1006 Lúa gạo Thóc giống 0 0 Thóc khác 40 40 Các loại gạo 40 40 1005 ngô Ngô giống 0 0 Ngô hạt, dạng vỡ mảnh 5 5 Ngô rang nở 50 30 35 30 071410 Sắn các loại ( tươi, khô, sắn, lát, viên…) 10 10 20 071420 Khoai lang các loại(tương, khô… 10 10 20 14 Cam kết mở cửa thị trường nhóm hàng rau quả. Hiện tại, khoảng 80 - 85% sản lượng rau quả sản xuất ra để phục vụ cho tiêu dùng trong nước, 15 – 20 % dành cho xuất khẩu. Tỷ lệ này thay đổi tuỳ theo từng loại rau quả (ví dụ, một số sản phẩm có tỷ lệ xuất khẩu cao hơn như ngô ngọt, dưa chuột bao tử, nấm, dứa, vải; ngược lại, nhiều sản phẩm tiêu dùng trong nước gần như 100% như các loại rau ăn lá, cam, quýt, ổi…). Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng giảm thất thường (mặc dù vài năm gần đây có xu hướng tăng đều nhưng với tốc độ chậm hơn tốc độ phát triển sản xuất). Điều này cho thấy năng lực cạnh tranh của ngành hàng rau quả Việt nam nhìn chung có nhiều hạn chế do quy mô sản xuất manh mún, giá thành sản xuất cao, chất lượng không đồng đều, vệ sinh an toàn thực phẩm và yếu kém trong công nghiệp bảo quản, chế biến. Vì vậy, rau quả được bảo hộ ở mức khá cao, với mức thuế nhập khẩu từ 30-40% đối với rau quả tươi, 50% đối với rau quả chế biến. Hiện tại, liên quan đến thị trường rau quả, Việt Nam đã có cam kết mở cửa trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại khác nhau, quan trọng nhất là: Cam kết gia nhập WTO; và Cam kết trong khuôn khổ khu vực ASEAN và các đối tác của ASEAN. Xu hướng cam kết WTO đối với rau quả Mức độ cam kết mở cửa đối với các mặt hàng này chủ yếu thể hiện ở cam kết giảm thuế nhập khẩu (để hàng hóa nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam dễ dàng hơn -  Mức cắt giảm thuế nhập khẩu đối với các loại quả cao hơn so với rau. -  Quả ôn đới có mức cắt giảm thuế nhập khẩu cao hơn quả nhiệt đới. -   Rau quả chế biến có mức cắt giảm nhiều hơn so rau quả tươi. -   Những loại rau quả nước ta có khả năng sản xuất và xuất khẩu có mức cắt giảm thuế nhập khẩu ít hơn so với những loại rau quả mà nước ta ít có lợi thế sản xuất và phải nhập khẩu nhiều, đặc biệt là các loại rau, quả ôn đới (táo, lê, đào, nho…). Tóm tắt cam kết khu vực về mở cửa thị trường rau quả Trong AFTA Việt Nam cam kết áp dụng mức thuế nhập khẩu của tất cả các loại rau quả tươi, chế biến 0-5% từ 1/1/2006; Trong ACFTA Việt Nam cam kết áp dụng mức thuế nhập khẩu rau quả tươi 0% vào 1/1/2008, rau quả chế biến 30% vào năm 2008 và sẽ giảm xuống còn 5% vào năm 2013 và 0% vào năm 2015 Trung Quốc và 6 nước ASEAN cũ (Bruney, Indonesia, Malaysia, Philipine, Singapore và Thái lan) đã giảm thuế xuống 0% vào 1/1/2006 đối với rau quả tươi và 0% vào 1/1/ 2010 đối với rau quả chế biến. Bảng: Biểu cam kết về thuế nhập khẩu về một số loại rau quả. Mã số HS Sản phẩm Thuế suất hiện hành(2007) Cam kết WTO Thuế suất ban đầu Thuế suất cuối cùng Năm thực hiện Rau quả tươi, sơ chế 07 Rau các loại Các loại đê làm giống (hạt, quả, củ, thân, cành,…) 0 0 0701-0709 Các loại rau tươi và ướp lạnh Rau tươi ăn lá( cải bắp, sup lơ, rau cải,…) 30 20 Rau tươi ăn quả (cà chua, dưa chuột, đậu rau,…) 30 20 Rau tươi ăn củ(khoai tây, cà rốt, củ cải,…) 30 20 Các loại gia vị(hành, tỏi,…) 30 Nấm tươi 30 30 Đạu hạt 30 25 20 2012 0701-0711 Rau các loại đã sơ chế(hấp chính, bảo quản tạm thời qua ngâm dấm, ngâm muối,..) 30 15 2010 0712-0713 Các loại rau, đậu khô 30 25-30 20-25 2010 08 Quả các loại 0803 Chuối 40 40 25 2012 0804 Chà là, sung, dứa, bơ, ổi, xoài, măng cụt 40 30-40 15-20-25-30 2010-2012 0805 Quả có múi (cam, quýt, chanh, bưởi) 30 40 20-30 2010-2012 0806 nho 25 25 10-13 2012 0807 Các loại dưa, đu đủ 40 40 30 2010 0808-0809 Táo, lê, đào 20-25 24-25 10 2012 8011-0812 Các loại quả được bảo quản tạm thời bằng hấp chin, ngâm, muối, đường…) 40 40 30 2010 0813 Các loại quả khô 40 40 30 2010 Cam kết mở cửa thị trường về nhóm cây công nghiệp. Cây công nghiệp có 2 nhóm: - Cây công nghiệp ngắn ngày: Mía đường, lạc, đậu tương và bông. - Cây công nghiệp dài ngày: Cà phê, cao su, điều, chè, hồ tiêu…. Về tổng thể, nhóm cây công nghiệp ngắn ngày có khả năng cạnh tranh thấp do điều kiện tự nhiên ít phù hợp hoặc chỉ phù hợp ở một số tiểu vùng nhất định, khó có khả năng mở rộng. Nhóm cây công nghiệp dài ngày có khả năng cạnh tranh cao hơn do điều kiện tự nhiên phù hợp, khả năng thâm canh của nông dân tốt cho năng suất cao, giá thành sản xuất thấp. Bảng: Biểu cam kết thuế nhập khẩu về một số cây công nghiệp. Mã số Hs Sản phẩm Thuế suất hiện hành (2007) Cam kết WTO Thuế suất ban đầu Thuế suất cuối cùng Năm cuối cùng Mía đường 1701 Đường thô 30 1701 Đường tinh luyện 40 Lạc 1202 Lạc vỏ để làm giống 0 0 1202 Lạc vỏ khác 10 10 1202 Lạc nhân 10 10 Đậu tương 1201 Đậu tương giống 0 0 1201 Đậu tương khác 5 5 52 bông 5201 Bông xơ chưa chải thô hoặc chưa trải kỹ 0 0 5202 Phế liệu bông 10 20 cà phê 0901 Cà phê nhân 20 20 15 2011 0901 Cà phê đã rang, xay 40 40 30 2011 2101 Cà phê tan 50 50 40 2010 0904 Hồ tiêu các loại(hạt, đã xay, nghiền,..) 30 30 20 2010 0902 chè các loại 40 40 hạt điều 0801 Hạt điều chưa bóc vỏ 5 30 0801 Hạt điều đã bóc vỏ 40 40 25 2012 4001 cao su tự nhiên 3 5 Tác động đối với nhóm cây công nghiệp ngắn ngày Mía đường: Trong cam kết AFTA, đường được xếp trong danh mục hàng nông sản nhạy cảm sẽ giảm thuế nhập khẩu xuống 5% vào năm 2010. Trong AC-FTA, đường cũng nằm trong danh mục nhạy cảm, sẽ giảm thuế xuống 0% vào 2020. Trong WTO, Việt nam đã cam kết áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ) với mức thuế trong hạn ngạch là 25% đối với đường thô, 40% đối với đường tinh luyện; thuế ngoài hạn ngạch là 85%. Như vậy, so với cam kết WTO, các cam kết khu vực đối với mặt hàng này có tác động mạnh hơn nhiều (với yêu cầu về giảm thuế lớn hơn). Trong khu vực, Thái Lan là nước xuất khẩu đường hàng đầu (thứ 3 - 4 thế giới) và với mức cam kết trong AFTA và AC-FTA như trên, đây sẽ là đối thủ cạnh tranh mạnh của Việt Nam. Đậu tương, bông tiêu thụ: Sản phẩm của 2 ngành này 100% sử dụng để tiêu thụ trong nước. Trên thực tế, hai ngành này mới đáp ứng một phần rất nhỏ nhu cầu trong nước. Trong khu vực, hầu hết các nước đều trong tình trạng thiếu, phải nhập khẩu từ bên ngoài. Do đó, các cam kết khu vực sẽ không tác động nhiều đến các ngành hàng này. Trong khi đó, cam kết WTO vẫn giữ nguyên như mức hiện hành. Vì vậy, quá trình hội nhập hầu như không tác động nhiều đến sản xuất các sản phẩm này. Tuy nhiên, khả năng phát triển mở rộng quy mô hơn cũng rất hạn chế. Lạc: Khả năng tác động của các cam kết WTO đối với ngành này không nhiều (theo trên cả thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước). Về xuất khẩu, Việt Nam xuất khẩu lạc chủ yếu sang các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia… và các thị trường này đã giảm thuế nhập khẩu xuống 0-5% từ lâu (2003), do đó sẽ không có thuận lợi gì mới trong xuất khẩu. Các nước trong khu vực như Myamar, Thái lan cũng có trình độ phát triển lạc như Việt Nam nên không có tác động lớn khi thực hiện cam kết khu vực. Cam kết WTO vẫn giữ nguyên mức thuế của lạc là 10%, do đó không tạo ra tác động nào mới. Đối với nhóm cây công nghiệp dài ngày Cam kết WTO và khu vực có tác động tốt về cơ hội mở cửa thị trường cho các nông sản thuộc nhóm này của nước ta bởi nhìn chung, các sản phẩm của Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn và các cam kết này mang đến cơ hội để hàng Việt Nam được hưởng thuế suất MFN và thuế theo cam kết khu vực ở mức thấp, ổn định. Những hoạt động nhập khẩu các sản phẩm thuộc nhóm này chủ yếu để bổ sung nguồn hàng xuất khẩu (dưới hình thức nguyên liệu đầu vào cho xuất khẩu). Do vậy, cam kết WTO và tự do hoá thương mại khu vực ít có khả năng tác động xấu đến các ngành hàng này. Cam kết về trợ cấp nông nghiệp. Trợ cấp nông nghiệp là các hình thức hỗ trợ của Chính phủ cho việc sản xuất, tiêu thụ nông sản (cho sản xuất nông nghiệp nói chung, cho một vùng nông nghiệp hoặc cho một sản phẩm cụ thể). Trợ cấp nông nghiệp được chia thành 2 nhóm: + Nhóm các chính sách hỗ trợ trong nước: hỗ trợ chung cho nông nghiệp, cho các sản phẩm cụ thể hoặc một số vùng nông nghiệp nhất định mà không tính đến yếu tố xuất khẩu + Nhóm các chính sách trợ cấp xuất khẩu nông sản: hỗ trợ nhằm mục đích thúc đẩy xuất khẩu, gắn với tiêu chí xuất khẩu (ví dụ tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc…). Thời gian cắt giảm: + Đối với các nước phát triển phải cắt giảm 20% mức trợ cấp trong nước trong vòng 6 năm từ 1995 đến 1.1.2000. + Đối với các nước đang phát triển phải cam kế cắt giảm 13,3% mức trợ cấp trong nước trong vòng 10 năm từ 1995 đến 1.1.2005. Trợ cấp trong nước. - Trợ cấp hộp xanh: hay trợ cấp “Hộp xanh lá cây” bao gồm các biện pháp trợ cấp thuộc một trong 05 nhóm xác định và phải đáp ứng đủ 03 điều kiện cụ thể + Là các biện pháp không hoặc rất ít tác động bóp méo thương mại; + Thông qua chương trình do Chính phủ tài trợ (kể cả các khoản đáng ra phải thu nhưng được để lại); + Không có tác dụng trợ giá cho người sản xuất. Là thành viên WTO, Việt Nam có thể tuỳ ý thực hiện các loại trợ cấp nông nghiệp nội địa thuộc hộp xanh lá cây, không phải cam kết cắt giảm, không bị các thành viên khác khiếu kiện Doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến nhóm trợ cấp “hộp xanh lá cây” này bởi đây là các hình thức hỗ trợ mà doanh nghiệp có thể đề xuất Nhà nước áp dụng mà không vi phạm cam kết trong khuôn khổ WTO. - Trợ cấp “hộp xanh lơ” : Những hình thức trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất trong chương trình hạn chế sản xuất nông nghiệp cũng được miễn trừ cam kết cắt giảm với các điều kiện: + Những trợ cấp dựa trên diện tích hoặc năng suất cố định. + Trợ cấp tối đa bằng 85% hoặc ít hơn mức sản xuất cơ sở + Trợ cấp trong chăn nuôi dựa trên số đầu con cố định. Đây là hình thức trợ cấp mà nhiều nước phát triển áp dụng trong chương trình hạn chế bớt sản xuất nông nghiệp. Tất cả các nước đang phát triển đều không có hình thức trợ cấp này. Nên, mặc nhiên, loại trợ cấp này dành cho các nước phát triển. Tại vòng đàm phán Doha, các nước cũng đang yêu cầu phải giảm nhiều và tiến đến loại bỏ hình thức trợ cấp này. - Trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” là tất cả các trợ cấp trong nước không thuộc nhóm “hộp xanh lá cây” và “hộp xanh lơ” hoặc “chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất”. Đây là hầu hết là các loại trợ cấp có tác động làm biến dạng thương mại. Trên thực tế, hình thức trợ cấp “hộp hổ phách” thông dụng nhất ở các nước là các chương trình thu mua nông sản của Chính phủ để can thiệp vào thị trường. Theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp, thành viên WTO vẫn có thể thực hiện các trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” nhưng mức trợ cấp phải đảm bảo 1 trong 2 điều kiện dưới đây: + trong mức tối thiểu (mức tối thiểu được tính bằng 5% trị giá sản phẩm hoặc 5% tổng trị giá sản lượng ngành nông nghiệp đối với nước phát triển và bằng 10% đối với nước đang phát triển như Việt Nam). + không vượt mức trần cam kết (cam kết giảm tổng trị giá trợ cấp tính gộp – AMS ). Với những loại trợ cấp “hộp hổ phách”, mặc dù điều kiện áp dụng khó khăn hơn nhưng đây là những trợ cấp trực tiếp và mang lại nhiều lợi ích cho nông dân và doanh nghiệp liên quan, vì thế doanh nghiệp cũng cần chú ý để đề xuất các cơ quan liên quan trong điều kiện có thể. Do nguồn tài chính hạn hẹp, phần lớn các hình thức trợ cấp nông nghiệp của nước ta đều nằm trong nhóm "hộp xanh lá cây", tập trung nhiều nhất là đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp (thuỷ lợi, giao thông, hệ thống sản xuất giống...), công tác phòng chống dịch bệnh, thiên tai, nghiên cứu khoa hoc, khuyến nông, chương trình cải thiện giống cây trồng, giống vật nuôi vv... Trong một số năm khó khăn cho sản xuất lương thực, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính (ví dụ những năm 1999-2002 và hiện nay), giá nông sản xuống thấp, Chính phủ mới hỗ trợ một số chính sách thu mua nông sản can thiệp thị trường trong nhóm "hộp hỗ phách". Một số biện pháp trợ cấp xuất khẩu (bù lỗ, thưởng xuất khẩu) sử dụng trong giai đoạn 1999-2002 đã không còn được áp dụng Trợ cấp xuất khẩu. Về nguyên tắc, trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp là biện pháp bị cấm. Đối với các biện pháp trợ cấp xuất khẩu đang áp dụng, các nước được phép sử dụng nếu thuộc nhóm 6 trợ cấp xác định nhưng phải cam kết cắt giảm cả về giá trị trợ cấp (tính bằng tiền) và số lượng nông sản được trợ cấp. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ áp dụng cho các nước thành viên gia nhập WTO từ 1995 trở về trước. Trợ cấp xuất khẩu cho nông nghiệp là biện pháp bị cấm hoàn toàn đối với tất cả các nước gia nhập WTO sau 1/1/1995. Là nước gia nhập sau, Việt Nam phải bãi bỏ tất cả các trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp (trừ trường hợp được hưởng ưu đãi dành cho các nước đang phát triển). Như vậy, về cơ bản, doanh nghiệp Việt Nam không hy vọng được các hình thức trợ cấp xuất khẩu này. Cam kết về biện pháp bảo hộ nông nghiệp phi thuế. Biện pháp bảo hộ phi thuế: Là tất cả các biện pháp ngoài thuế nhưng có cùng hệ quả là hạn chế luồng hàng nhập khẩu, từ đó, bảo hộ ngành nông nghiệp nội địa; nhóm này bao gồm biện pháp tự vệ, biện pháp kiểm dịch động thực vật, các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu (như cấm nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu…)... Các biện pháp phi thuế được phân chia thành các nhóm sau: - Nhóm biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu như cấm nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan (TRQ)... - Các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS); - Các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành nông nghiệp; - Biện pháp tự vệ (SG) và tự vệ đặc biệt (SSG). Trong số các nhóm biện pháp phi thuế nêu trên, nhóm biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu thuộc diện bị quản lý chặt chẽ nhất, cụ thể là Việt Nam phải loại bỏ hoàn toàn các biện pháp hạn chế định lượng đối với nông sản trừ những biện pháp mà Việt Nam đạt được cam kết giữ lại. Các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm. Các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm là tấp hợp các quy định kỹ thuật bắt buộc như quy định về tiêu chuẩn chất lượng, quy định về kiểm dịch động thực vật, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm…mà nước nhập khẩu áp dụng đối với các hàng nhập khẩu. WTO có một hiệp định riêng ( Hiệp định SPS) quy định các nguyên tắc mà các nước thành viên WTO buộc phải tuân thủ khi ban hành và áp dụng các biện pháp SPS này. Mục tiêu của Hiệp định là đảm bảo việc ban hành các quy định SPS của các nước thành viên nhằm bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật và môi trường không bị lạm dụng quá mức và trở thành rào cản bất hợp lý đối với thương mại hàng nông sản từ nước ngoài. Việt Nam cam kết thực hiên đầy đủ các quy định của Hiệp định này. Các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu đối với một số sản phẩm thuộc diện quản lý chuyên ngành nông nghiệp. Theo cam kết đạt được trong WTO, Việt Nam được phép áp dụng một quy chế riêng về xuất nhập khẩu đối với một số sản phẩm vốn được xếp vào diện quản lý chuyên ngành nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam, bao gồm: - Giống cây trông, giống vật nuôi; - Nguyên liệu thức ăn chăn nuôi và thức ăn chăn nuôi; - Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, các nguyên liệu để sản xuất của chúng và các chế phẩm sinh học dụng trong lĩnh vực thú y và bảo vệ thực vật; - Các loại phân bón và chế phẩm phân bón; - Các loại gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên trong nước; - Động thực vật hoang dã, quý hiếm và - Nguồn gen cây trồng vật nuôi. Cụ thể việc xuất khẩu các sản phẩm này phải tuân thủ một số quy chế quản lý hành chính bổ sung (như tiêu chuẩn kỹ thuật/ kiểm dịch; chế độ cấp phép nhập khẩu…) Biện pháp tự vệ và tự vệ đặc biệt – công cụ bảo hộ phi thuế trong nông nghiệp. Tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Hình thức “hạn chế nhập khẩu” có thể là áp dụng hạn ngạch hoặc cấm nhập khẩu tạm thời đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào một nước. Đây là hình thức bảo hộ có điều kiện đối với ngành sản xuất nội địa. Việc ban hành và áp dụng các biện pháp tự vệ của các nước thành viên WTO phải tuân thủ các nguyên tắc chung được ghi nhận trong Hiệp định về Tự vệ của WTO (áp dụng chung cho cả trường hợp hàng công nghiệp và hàng nông nghiệp). Như vậy, trong trường hợp khẩn cấp, khi cần đối phó với tình trạng một mặt hàng nông sản nào đó nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nông sản đó của Việt Nam thì Việt Nam có thể tiến hành điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ đối với nông sản nhập khẩu đó. Biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG): Về tính chất, các biện pháp SSG cũng giống các biện pháp SG. Tuy nhiên điều kiện áp dụng biện pháp SSG không quá chặt chẽ và phức tạp như biện pháp SG (ví dụ, có thể áp dụng biện pháp này trước mà không cần điều tra hoặc áp dụng trước khi thông báo cho các nước có quyền lợi xuất khẩu chính mặt hàng này…). Vì vậy, diện áp dụng SSG rất hạn chế. Theo quy định của WTO, một nước thành viên WTO chỉ có thể áp dụng SSG đối với một số sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm nhất định đạt được theo đàm phán WTO về vấn đề này. Theo cam kết, Việt nam không được sử dụng SSG đối với bất kỳ nông sản nào. Hạn ngạch thuế quan đối với nông sản (TRQ) Nội dung của biện pháp này là việc một nước cho phép nhập khẩu một lượng nông sản nhất định với mức thuế thấp (đáp ứng quyền lợi của nước xuất khẩu) và áp dụng mức thuế cao đối với phần nông sản nhập vượt quá hạn mức nói trên (thỏa mãn lợi ích của nước nhập khẩu). Trong nông nghiệp, biện pháp TRQ chỉ áp dụng với điều kiện: + Loại nông sản áp dụng phải là loại mà nước nhập khẩu đã cam kết thuế hóa các biện pháp phi thuế đang áp dụng cho hàng nông sản này trước đó; và + Nước nhập khẩu đã đàm phán trong khuôn khổ WTO và đạt được cam kết cho phép áp dụng biện pháp TRQ đối với hàng nông sản đó. Cam kết về TRQ của Việt Nam quy định tại Biểu CLX – Phần I – Danh mục các nhượng bộ và cam kết về hàng hoá - Hạn ngạch thuế quan - Văn kiện gia nhập WTO của Việt nam. Theo cam kết này, Việt Nam được phép áp dụng TRQ với 4 nhóm (28 dòng thuế theo mã số HS 8 số, trong đó 21 dòng là nông sản và 7 dòng phi nông sản), bao gồm: +Đường ăn; + Trứng gia cầm; + Lá thuốc lá; và + Muối ĐÁNH GIÁ CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HÀNG NÔNG SẢN KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN WTO. Cơ hội. Gia nhập wto, hàng nông sản Việt Nam gặp được những cơ hội sau: Thứ nhất, nhờ mở cửa thị trường hàng nông sản từ thế giới nhập khẩu vào với chất lượng tốt, giá cả hợp lý tạo cho người tiêu dùng nước ta có nhiều sự lựa chọn hơn; đồng thời cũng tác động đến nông dân nước ta có cơ hội nắm bắt được kỹ thuật, bí quyết sản xuất để làm ra các nông sản hàng hóa có chất lượng bằng hoặc cao hơn hàng nhập khẩu trong cạnh tranh trên thương trường. Thứ hai, các khu vực tự do hóa sẽ hỗ trợ cho nông nghiệp nước ta hướng tới xuất khẩu tăng tốc các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh như: gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, chè dừa, thủy sản, thịt gia súc, gia cầm, rau, hoa quả, quế, mật ong tự nhiên, sản phẩm đồ gỗ… Thứ ba, khi xuất khẩu hàng hóa nông-lâm-thủy sản được đẩy mạnh sẽ phát huy thế mạnh của nông nghiệp nước ta về đất đai, lao động và điều kiện tự nhiên, đồng thời tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; mặt khác cũng đem lại cơ hội để đổi mới công nghệ sản xuất chế biến nông sản cho hiệu quả cao và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ tư, tạo ra môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư của nước ngoài. Qua đó chúng ta có điều kiện thu hút được vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và kiến thức từ nước ngoài để phát triển nông nghiệp nâng cao chất lượng hàng nông sản của nước ta. Và thêm nữa, khi gia nhập WTO, tất cả các thành viên đều phải cam kết thực hiện các quy định của tổ chức, mà từ đó Việt Nam được đối xử công bằng hơn trên trường quốc tế, có điều kiện thâm nhập vào nhiều thị trường cũng như được hưởng nhiều ưu đã riêng cho các thành viên đang phát triển về tất cả các lĩnh vực nói chung và nông nghiệp cũng như hàng nông sản nói riêng. Thách thức. Khi gia nhập WTO hàng nông sản Việt Nam có thể mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thách thức. Nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản có thể gặp khó khăn do các cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường, trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước. Hàng nông sản nước ngoài sẽ nhập vào Việt Nam với giá rẻ làm tăng sức ép đối với nông sản Việt Nam. Bên cạnh đó, từ thời điểm gia nhập WTO, Việt Nam sẽ không được trợ cấp về xuất khẩu hàng nông sản và phải cắt giảm trợ cấp trong nước. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến những doanh nghiệp đang hưởng lợi trực tiếp từ trợ cấp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác, chất lượng hàng nông sản Việt Nam chưa cao nên việc chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhất là các thị trường khó tính vẫn là một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCam kết mở cửa thị trường của Việt Nam với hàng nông sản khi gia nhập WTO và ảnh hưởng.docx
Tài liệu liên quan